CHƯƠNG 23
Người Do Thái duy nhất ở Clanton là Harvey Kohn, một người đàn ông nhỏ con bảnh bao chuyên bán giày và túi xách cho các bà các cô từ hàng chục năm nay. Cửa hàng của ông nằm ở khu vực quảng trường, kế bên công ty luật của Sullivan, cùng dãy nhà mà ông đã mua lại trong thời Đại khủng hoảng. Ông góa vợ, các con thì đã rời Clanton sau khi tốt nghiệp trung học. Mỗi tháng một lần, ông Kohn lái xe đến Tupelo, nơi có hội đường Do Thái gần Clanton.
Giày Kohn nhắm đến khách hàng ở phân khúc cao, một mảng hơi khó bán ở thành phố nhỏ như Clanton này. Số ít các quý bà quý cô giàu có lại thích đi mua sắm ở Memphis hơn, nơi họ có thể mua đồ với giá cắt cổ rồi về khoe khoang với nhau. Để hút khách, ông Kohn gắn giá trên trời cho mấy đôi giày của mình rồi hạ giá kịch sàn để bán. Như vậy, sau đó các cô có thể nổ giá nào tùy ý lúc vung vẩy khoe đôi giày mới mua với bạn bè.
Ông tự mình quản lý cửa hàng, mở cửa từ sớm và đóng cửa muộn, với sự hỗ trợ của một cậu học sinh làm việc bán thời gian. Hai năm trước khi tôi đến Clanton, ông từng thuê cậu bé da đen 16 tuổi, Sam Ruffin, để nhận hàng, chuyển hàng, dọn dẹp và nghe điện thoại giúp mình. Sam có vẻ sáng dạ và cần cù. Cậu lại lịch sự, lễ độ, ăn mặc đàng hoàng và chẳng bao lâu sau, ông Kohn đã tin tưởng giao cậu quản lý cửa hàng mỗi khi ông về nhà lúc 11:45 để ăn trưa qua loa và ngủ một giấc khá dài.
Trưa nọ, bà Iris Durant ghé cửa hàng, lúc đó chỉ có mình Sam. Iris 41 tuổi, hai con, một đứa học cùng trường với Sam. Bà khá gợi cảm, hay mặc váy ngắn và thích buông lời trêu ghẹo, thường ghé chọn đám giày tuyển của ông Kohn. Hôm đó, bà đã thử hơn hai chục đôi, rất thong thả mà chẳng mua gì. Sam biết rõ giày ở cửa hàng mình và rất cẩn thận khi giúp bà thử giày.
Hôm sau, bà quay lại, cũng giờ trưa như vậy, mặc váy ngắn hơn, trang điểm đậm hơn. Với đôi chân trần, bà quyến rũ Sam và hai người quấn lấy nhau trên bàn làm việc của ông Kohn trong văn phòng nhỏ của ông sau quầy thu ngân. Từ đó bắt đầu chuyện ngoại tình sẽ thay đổi cuộc đời cả hai người.
Iris đi “mua giày” phải vài lần một tuần và Sam cũng tìm được một chỗ êm ái hơn là cái sofa trên lầu. Cậu sẽ đóng cửa hàng trong 15 phút, tắt điện và vào cuộc mây mưa vụng trộm.
Chồng của Iris là một hạ sĩ trong lực lượng Tuần tra Xa lộ Mississippi. Thấy số giày mới trong tủ của vợ mình bỗng tăng vọt, ông bắt đầu sinh nghi. Mà mấy chuyện đáng nghi của vợ vốn chẳng lạ gì với ông nữa.
Thế là ông thuê Harry Rex đi điều tra, một việc dễ như ăn kẹo. Bà Iris vào cửa hàng ông Kohn cùng một thời điểm suốt ba ngày liên tục, và cũng trong ba ngày liên tục đó, Sam nhanh nhẹn khóa cửa trước, mắt đảo bốn phía, trước khi đèn đóm trong cửa hàng tắt ngúm. Đến ngày thứ tư, Harry Rex và Rafe lẻn vào bằng cửa hậu. Họ nghe thấy tiếng động trên lầu. Rafe xông vào khi hai người đang hành sự và chỉ cần năm giây ngắn ngủi là đã chụp lại đủ bằng chứng trước khi họ kịp định thần.
Một tiếng sau, ông Kohn đuổi việc Sam. Harry Rex thì giúp thân chủ đệ đơn ly hôn ngay trong chiều đó. Còn Iris phải nhập viện với đủ vết bầm tím, chảy máu và gãy mũi. Ông chồng đã dùng nắm đấm đánh bà đến khi bà lăn ra bất tỉnh. Vừa chập tối, ba cảnh sát bang mặc sắc phục đến gõ cửa nhà Sam ở Hạ trấn. Họ giải thích với bố mẹ cậu rằng cảnh sát muốn mời cậu đến đồn vì tội biển thủ ở cửa hàng Kohn. Nếu bị kết tội, cậu có thể phải đối mặt với 20 năm tù giam. Họ còn cho ông bà Ruffin biết, tất nhiên là nói nhỏ thôi, rằng Sam đã bị bắt quả tang đang quan hệ với một bà da trắng, lại là một người đã có chồng, nên người ta đang treo thưởng 5000 đô để lấy mạng của cậu.
Iris bị ly dị và mất quyền nuôi con, phải rời thành phố trong nhục nhã và sợ hãi không còn dám quay về.
Nhưng tôi còn nghe được một câu chuyện theo hướng khác về Sam. Lúc tôi đến Clanton, chuyện đàm tiếu này đã khá cũ, nhưng vẫn đủ giật gân để nhiều người thỉnh thoảng nhắc đến. Ở miền Nam, không hiếm chuyện đàn ông da trắng có nhân tình da đen, nhưng Sam là trường hợp đầu tiên được ghi lại về một người phụ nữ da trắng tìm đến thanh niên da đen ở Clanton.
Baggy là người kể lại chuyện này cho tôi, hẳn rồi. Harry Rex cũng giúp xác nhận nhiều phần trong đó.
Nhưng bà Callie lại không chịu nói về nó. Sam là con út của bà mà lại không thể về nhà với bà. Cậu đã phải bỏ trốn, bỏ học, sống nhờ các anh chị em suốt hai năm qua. Và giờ cậu ấy gọi điện nhờ cậy tôi.
Thế là tôi đến tòa án, lục lọi các hồ sơ cũ mà chẳng tìm thấy biên bản truy tố Sam Ruffin nào. Tôi đã hỏi cảnh sát trưởng Coley xem ông có ban lệnh bắt nào không. Ông tránh né câu hỏi và muốn biết tại sao tôi lại khơi lên một vụ án cũ như vậy. Tôi còn hỏi thêm nếu Sam về đây, liệu cậu ấy có bị bắt không. Và lại một lần nữa, ông ta trốn tránh câu trả lời. “Cẩn thận đấy, anh Traynor,” ông cảnh báo tôi thẳng mặt.
Vậy nên tôi tìm Harry Rex và hỏi về huyết lệnh huyền thoại đòi lấy đầu Sam. Ông kể cho tôi về thân chủ của mình, hạ sĩ Durant, cựu thủy quân lục chiến, chuyên gia về vô số vũ khí, cảnh sát thâm niên, một người cực kỳ nóng tính và vô cùng mất mặt vì hành động đồi bại của vợ, cảm thấy cách duy nhất để đòi lại danh dự là giết chết gã tình nhân đó. Durant đã tính giết Iris, nhưng lại sợ phải vào tù. Ông thấy giết thằng nhóc da đen thì an toàn hơn. Bồi thẩm đoàn Hạt Ford sẽ đồng cảm với ông hơn.
“Và ông ta muốn đích thân ra tay. Như vậy đỡ phải tốn năm ngàn đô.”
Harry Rex thích thú khi kể những chuyện kinh khủng này cho tôi, nhưng cũng thú thật rằng cả năm rồi chưa gặp lại thân chủ và không chắc ông ta đã tái hôn hay chưa.
Trưa ngày thứ năm, chúng tôi dọn bàn ở hiên, tạ ơn Chúa vì bữa ăn thịnh soạn trên bàn. Ông Esau vẫn đang ở chỗ làm như thường lệ.
Vào cuối hạ, cây trái trong vườn đều chín cả, chúng tôi thưởng thức rau củ đủ loại. Cà chua đỏ và vàng, dưa chuột và hành trộn giấm, đậu lima, đậu cô ve, đậu bắp, bí, khoai tây luộc, bắp luộc nguyên trái và bánh mì bắp nóng giòn như mọi khi. Giờ vào mùa khí trời đã dịu hơn, cây cối bắt đầu đổi màu, bà Callie chuyển sang nấu những món nhiều tâm sức hơn, nào là vịt hầm, cừu hầm, thịt hầm cay, đậu đỏ và cơm nấu với xúc xích heo, cũng như món kinh điển của chúng tôi, thịt nướng nồi.
Hôm đó, chúng tôi ăn gà và bánh bao. Tôi ăn chậm rãi, một việc mà lâu nay bà cứ phải nhắc nhở tôi suốt. Ăn được phân nửa bàn, tôi bắt đầu mở lời, “Sam đã gọi cho tôi, bà Callie à.”
Bà dừng lại, nuốt cho xong miếng trong miệng, “Giờ nó thế nào?”
“Sam ổn cả. Cậu ấy muốn về nhà dịp Giáng Sinh này, nói là các anh chị đều về và cậu ấy muốn cùng mừng lễ với cả nhà.”
“Anh biết nó ở đâu không?” bà hỏi.
“Bà biết không?”
“Không.”
“Cậu ấy đang ở Memphis. Chúng tôi đã hẹn gặp nhau ở đó, vào ngày mai.”
“Sao anh lại đi gặp Sam?” Bà có vẻ nghi ngờ động cơ của tôi.
“Sam muốn tôi giúp cậu ấy. Max và Bobby đã kể cho cậu ấy về tình bạn của bà và tôi. Cậu ấy nghĩ tôi là người da trắng có thể tin cậy được.”
“Có thể nguy hiểm lắm đấy,” bà e dè.
“Cho ai?”
“Cả hai.”
Bác sĩ đã bày tỏ quan ngại về cân nặng của bà. Thỉnh thoảng bà cũng thấy lo chuyện đó. Với những món khó tiêu như thịt hầm và bánh bao, bà chỉ ăn một phần nhỏ và ăn chậm rãi. Giờ khi nghe xong chuyện của tôi và Sam, bà càng không có bụng dạ nào để ăn tiếp nữa. Bà gấp khăn ăn lại và bắt đầu nghiêm túc trò chuyện.
Sam rời Clanton lúc nửa đêm, lên xe buýt đường dài đi Memphis. Đến nơi, cậu gọi về cho Callie và Esau. Ngày hôm sau, một người bạn lái xe tới Memphis, đem áo quần và tiền cho cậu. Khi chuyện về Iris lan nhanh khắp thành phố, Callie và Esau đã khiến mọi người tin chắc rằng con trai út của họ suýt chút nữa đã bị cảnh sát bắn chết. Xe cảnh sát tuần tra xa lộ lượn qua lượn về trước nhà họ suốt ngày đêm. Nhiều kẻ nặc danh gọi đến nhà Ruffin để đe dọa và chửi rủa.
Ông Kohn thì đâm đơn kiện. Một phiên điều trần được tổ chức bất chấp Sam không có mặt. Bà Callie chưa hề thấy biên bản truy tố chính thức nào, nhưng bà cũng đâu rõ mấy giấy tờ đó là thế nào.
Memphis có vẻ quá gần, nên Sam dạt đến Milwaukee, ẩn náu tại nhà của Bobby vài tháng. Suốt hai năm ròng, cậu cứ lúc chỗ này khi chỗ khác ở nhà các anh chị mình, luôn lên đường ban đêm, luôn sợ sẽ có người bắt gặp. Các anh chị lớn nhà Ruffin thường xuyên gọi điện về nhà và viết thư hằng tuần, nhưng họ không dám nhắc đến Sam vì sợ có người theo dõi.
“Nó đã sai khi dính vào một phụ nữ như thế,” bà Callie nói, nhấp một ngụm trà. Bữa trưa của bà đã bị tôi phá hỏng. “Nhưng nó còn quá trẻ tuổi. Kẻ tán tỉnh không phải là nó.”
Hôm sau, tôi bắt đầu trở thành giao liên không chính thức giữa Sam Ruffin và bố mẹ cậu.
Chúng tôi gặp nhau ở một quán cà phê trong trung tâm thương mại tại Memphis. Cậu ấy đứng từ xa quan sát tôi trong nửa tiếng đồng hồ rồi mới bất ngờ xuất hiện, ngồi vào ghế đối diện tôi. Hai năm lẩn trốn đã dạy cho cậu nhiều điều.
Khuôn mặt trẻ trung của cậu đã hằn nhiều nét của một đời chui lủi. Theo thói quen, cậu cứ đảo mắt dáo dác ngó quanh suốt. Khi nói chuyện, cậu cố hết sức để nhìn thẳng vào mắt tôi, nhưng chỉ được vài giây là hết. Đúng như tôi dự đoán, cậu nói năng nhẹ nhàng, rõ ràng và lịch sự. Và giọng cậu không giấu nổi lòng biết ơn khi tôi sẵn sàng liều mình tìm cách giúp cậu.
Cậu cảm ơn tôi vì đã làm bạn với mẹ cậu. Bobby ở Milwaukee đã cho cậu xem những bài trên tờ Thời báo . Chúng tôi nói về các anh chị cậu, hành trình cậu chuyển từ UCLA đến Duke, rồi Toledo, rồi Grinnell ở Iowa. Cậu không thể nào sống tiếp như thế được nữa. Cậu ấy quá mong mỏi có giải pháp cho chuyện ở nhà để cậu sớm được sống như một người bình thường. Cậu đã học xong trung học ở Milwaukee, và dự định sẽ vào trường luật. Nhưng sống chui lủi thế này thì sao mà làm được.
“Hiện giờ em đang chịu nhiều sức ép lắm,” cậu tâm sự. “Bảy anh chị của em đều làm tiến sĩ mà.”
Tôi bèn kể hết cho cậu về chuyện không thấy có biên bản truy tố, cuộc chuyện trò với cảnh sát trưởng Coley, và những gì Harry Rex kể về tình hình ông Durant. Sam cảm ơn ríu rít về những thông tin này và về sự hào hiệp của tôi.
“Không có nguy cơ bị bắt đâu,” tôi đảm bảo với cậu. “Tuy nhiên, vẫn có nguy cơ ăn đạn.”
“Em thà bị bắt còn hơn,” cậu đáp ngay.
“Tôi cũng vậy.”
“Ông ta đáng sợ lắm,” Sam nói về ông Durant, rồi kể luôn một câu chuyện mà tôi không mấy theo kịp. Có vẻ giờ Iris sống ở Memphis. Sam vẫn giữ liên lạc với bà. Bà đã kể cho Sam vài chuyện khủng khiếp về chồng cũ của mình và hai cậu con trai cũng như những lời họ đe dọa bà. Bà tuyệt đối không được đặt chân vào Hạt Ford nữa. Tính mạng bà cũng đang gặp nguy hiểm. Hai đứa con trai hết lần này đến lần khác nói rõ là chúng hận bà và không bao giờ muốn gặp lại bà nữa.
Iris hoàn toàn suy sụp, lòng đầy cảm giác tội lỗi, tâm lý không còn ổn định.
“Là lỗi của em cả,” Sam nói. “Mẹ em đâu dạy em làm những việc như vậy.”
Chúng tôi chuyện trò trong một tiếng, rồi hứa vài tuần nữa sẽ gặp lại nhau. Sam đưa cho tôi hai lá thư, mỗi lá dài mấy tờ, nhờ tôi gửi cho bố mẹ, rồi chào tạm biệt. Cậu lẩn vào đám đông người mua sắm trong trung tâm thương mại và tôi không khỏi dấy lên những câu hỏi đau lòng. Một cậu bé 18 tuổi như thế thì trốn ở đâu? Làm sao để cậu sống qua ngày? Nhất là Sam không phải kiểu giang hồ đã học cách sinh tồn bằng nắm đấm trên đường phố.
Tôi kể cho Harry Rex về cuộc gặp với Sam ở Memphis. Mục tiêu của tôi là tìm cách thuyết phục ông Durant tha cho Sam.
Vì đã chắc mẩm rằng mình nằm trong danh sách đen của đám nhà Padgitt rồi nên tôi chẳng muốn phải gây thù chuốc oán với bất kỳ ai nữa. Tôi bắt Harry Rex thề giữ bí mật, và hoàn toàn tin chắc ông ấy sẽ bảo vệ tôi như người trung gian hòa giải.
Sam sẽ chịu rời Hạt Ford vĩnh viễn, học cho xong trung học và đại học ở miền Bắc rồi có lẽ ở lại đó cả đời luôn. Cậu ấy đơn giản chỉ muốn gặp lại bố mẹ, ghé thăm Clanton một chuyến thật nhanh, rồi tiếp tục sống mà không phải cảnh giác mọi nơi mọi lúc.
Harry Rex chẳng quan tâm, cũng không muốn can dự. Ông hứa với tôi sẽ chuyển lời cho ông Durant, nhưng không mấy lạc quan về kết quả. “Gã là một thằng trời đánh mà,” ông nhắc câu đó đến mấy lần.