← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 24

Đầu tháng 11, tôi trở lại Hạt Tishomingo để hỏi thêm thông tin từ cảnh sát trưởng Spinner. Chẳng ngạc nhiên khi biết rằng cuộc điều tra vụ giết Malcolm Vince chẳng có tiến triển gì. Ông dùng chữ “gọn gàng sạch sẽ” phải đến mấy lần, nghĩa là toàn bộ chứng cứ chỉ có một thi thể và hai viên đạn không thể dò được dấu vết. Người của ông đã hỏi chuyện mọi người quen biết và đồng nghiệp của Malcolm mà chẳng xác định được có ai có động cơ gây ra chuyện đó với anh.

Spinner cũng đã hỏi chuyện cảnh sát trưởng Mackey Don Coley, và chẳng ngạc nhiên khi lão không tin vụ án mạng này có liên quan gì đến phiên tòa xử Danny Padgitt ở Hạt Ford. Có vẻ hai ông cảnh sát trưởng này có chút hiềm khích trong quá khứ, và tôi cũng thấy vui hơn phần nào khi Spinner chốt lại một câu, “Lão Coley đó còn chẳng bắt nổi một đứa nhóc mà.”

Tôi bật cười thích thú, nói thêm vào, “Phải, ông ta và nhà Padgitt gắn bó xưa giờ rồi.”

Spinner nghe đến đây mới nói thật với tôi, “Tôi bảo với lão là cậu đang hỏi dò khắp nơi.” Lão bảo, “Thằng nhóc đó sẽ tự chuốc họa vào thân. Tôi chỉ muốn báo cho cậu biết vậy thôi.”

“Cảm ơn ông. Quan điểm của tôi và Coley khác nhau lắm.”

“Vài tháng nữa là đến kỳ bầu cử rồi mà.”

“Phải. Nghe nói Coley có hai ba đối thủ gì đó.”

“Một là đủ rồi.”

Nói hết chuyện, cảnh sát trưởng Spinner hứa sẽ gọi cho tôi nếu phát hiện thêm tình tiết gì mới, nhưng cả hai chúng tôi đều biết sẽ chẳng bao giờ có chuyện đó. Tôi rời Iuka và lên đường đến Memphis.

Cảnh sát tuần tra Durant khá hài lòng khi biết Sam Ruffin vẫn sợ nơm nớp huyết lệnh đang treo lơ lửng trên đầu. Harry Rex đã chuyển lời giúp tôi về chuyện Sam vẫn đang chạy trốn nhưng mong mỏi được về nhà gặp mẹ.

Durant vẫn chưa tái hôn. Ông ta đang khá cô đơn, cực kỳ cay đắng và bẽ mặt vì chuyện bị vợ cắm sừng. Ông ta tuôn một tràng với Harry Rex về chuyện cuộc đời vợ ông đã bị hủy hoại, hai đứa con giờ trở thành trò cười và bị bắt nạt vì chuyện của mẹ mình. Đám nhóc da trắng chế giễu chúng mỗi ngày, còn đám nhóc da đen, bạn cùng lớp mới của chúng năm nay, thì chảnh chọe và mỉa mai về chuyện đó.

Cả hai cậu con trai của ông đều là tay thiện xạ và kẻ săn mồi khát máu, ba cha con nhà Durant đã thề sẽ cho Sam Ruffin một viên đạn vào đầu ngay khi có cơ hội. Họ còn biết rõ chỗ ở của nhà Ruffin tại Hạ trấn. Khi nghĩ đến chuyến hồi hương thường niên vào kỳ Giáng Sinh của những người da đen đến miền Bắc lập nghiệp, Durant đã nói thẳng, “Thằng nhóc đó mà lẻn về nhà, chúng tôi sẽ chờ sẵn,” gã nói chắc như đinh đóng cột với Harry Rex.

Gã cũng có chút thù hằn với tôi vì tôi thân thiết với bà Callie và anh chị của Sam. Gã còn đoán rất đúng về chuyện tôi là mối liên lạc của nhà Ruffin.

Sau mấy câu chuyện trò với gã Durant trở về, Harry Rex liền cảnh báo tôi, “Tốt hơn hết cậu đừng dây vào chuyện này. Thằng cha này điên lắm.”

Nhưng mà có thêm một người mong tôi chết đâu phải là chuyện to tát gì với tôi.

Đến ngày hẹn, tôi gặp Sam ở một quán ven đường xa lộ nội bang, cách Tennessee tầm hơn cây số. Bà Callie đã nhờ tôi gửi bánh, thư và một ít tiền mặt, tất cả bỏ trong một thùng các-tông chiếm hết ghế khách trong chiếc Spitfire. Hai năm trời, đây là lần đầu tiên bà liên lạc được với con trai út của mình. Sam cố đọc một lá thư của bà, nhưng rồi lại xúc động quá không đọc nổi bèn cho lại vào bì thư. “Em nhớ nhà lắm,” cậu nói với tôi khi đưa tay gạt nước mắt, cố giấu phút yếu lòng khỏi ánh mắt các tài xế đang ăn cạnh đó. Một cậu bé sợ hãi, lạc lối.

Tôi thuật lại cuộc chuyện trò với Harry Rex, không giấu chuyện gì. Sam đã quá ngây thơ khi nghĩ rằng chỉ cần cậu hứa tránh xa Hạt Ford, lâu lâu mới về nhà thăm là gã Durant sẽ chấp thuận. Cậu chẳng hiểu rõ sự thù hận mà cậu đã khơi lên. Tuy nhiên, có vẻ cậu cũng hiểu được mối nguy đang chực chờ mình ở đó.

“Hắn sẽ giết cậu, Sam à,” tôi nói với giọng nghiêm túc hết sức.

“Và hắn sẽ thoát tội, phải không?”

“Với cậu chuyện đó thì quan trọng gì chứ? Cậu chết rồi mà. Bà Callie thà biết cậu sống khỏe ở miền Bắc còn hơn ngày nào cũng đi thăm cậu trong nghĩa trang Clanton.”

Cậu đã mua chút đồ Giáng Sinh, nhờ tôi chuyển quà cho bố mẹ và cả đại gia đình. Chúng tôi hẹn gặp nhau sau hai tuần rồi chia tay và rời quán. Khi gần đến chiếc Spitfire, đột nhiên tôi thấy cần giải quyết nhu cầu nên quay lại. Nhà vệ sinh nằm sau một quầy quà tặng nhỏ kế bên quán. Liếc nhìn qua cửa kính, tôi thấy Sam lén la lén lút nhảy lên một chiếc xe. Người ngồi sau tay lái là một phụ nữ da trắng, tầm bốn mấy tuổi. Có lẽ là Iris rồi. Có những người chẳng bao giờ chịu khôn lên nổi.

Vài ngày trước Giáng Sinh, nhà Ruffin lũ lượt kéo nhau về. Bà Callie bận rộn nấu nướng cả tuần và đã hai lần nhờ tôi ghé quầy tạp hóa mua giúp bà vài món đồ cần gấp. Tôi nhanh chóng làm quen với cả nhà và được chăm sóc ân cần vô cùng, biệt đãi lớn nhất là được quyền ăn bất kỳ lúc nào và bất kỳ món gì tôi muốn.

Lớn lên trong ngôi nhà đó, cuộc sống con cái bà Callie đã quen xoay quanh bố mẹ, anh chị em, Kinh Thánh và căn bếp. Trong dịp lễ, lúc nào trên bàn cũng có món ăn tươi nào đó cộng thêm hai hay ba món nằm sẵn trong lò. Hễ mỗi lần câu “Bánh hồ đào đã nướng xong!” vang lên là chấn động cả ngôi nhà, ngoài mái hiên thậm chí là lan ra cả đường phố. Cả nhà quây quần bên bàn ăn, chờ ông Esau thay mặt cả nhà dâng lời tạ ơn Chúa vì cho họ sức khỏe và của ăn họ sắp “chia nhau”, rồi cái bánh liền được cắt thành từng miếng dày để trên đĩa và nhanh chóng biến mất.

Nghi thức đó cũng tiếp tục lặp lại với bánh bí ngô, bánh dừa, bánh dâu tây, vân vân. Mà đấy chỉ là những món ăn vặt “cầm hơi” cho họ giữa những bữa ăn chính.

Không như mẹ mình, con cái nhà Ruffin không một ai có vẻ gì là thừa cân. Và tôi sớm hiểu ra tại sao. Họ kêu với mẹ là lâu nay chẳng được ăn như thế. Ở chỗ họ sống, đồ ăn đạm bạc, phần lớn là đồ đông lạnh và sản xuất hàng loạt. Lại còn nhiều món ăn bản xứ mà họ không thể nuốt nổi. Hơn nữa, ai cũng ăn vội. Cứ thế, họ thay nhau kể lể đủ thứ chuyện.

Tôi có cảm giác khi đã được tận hưởng những bữa ăn phong phú dồi dào của bà Callie rồi, thì mọi món khác ở mọi nơi khác chẳng thể nào thỏa mãn cái bụng của họ được nữa.

Carlota, vẫn đang độc thân và đang dạy về nghiên cứu đô thị ở UCLA, tham gia cực kỳ hăng hái khi câu chuyện bàn đến những xu hướng ẩm thực đang lan tràn ở California. Hiện thời, mốt đang là đồ ăn sống, bữa trưa là một đĩa cà rốt sống kèm cần tây sống, thêm một tách trà thảo mộc nhỏ xíu để dễ nuốt.

Gloria, đang dạy tiếng Ý ở Duke, được xem là người may mắn nhất trong số anh chị em vì vẫn còn được ở miền Nam. Cô và bà Callie ngồi lại so sánh và bình phẩm những công thức khác nhau cho mấy món quen thuộc như bánh mì bắp, thịt hầm Brunswick và thậm chí là cải búp. Mấy vụ này thường căng lên, đám đàn ông cũng nhảy vào góp ý, và đã có mấy lần thành cãi nhau ỏm tỏi.

Sau bữa trưa kéo dài ba tiếng, Leon (Leonardo) dạy sinh học ở Purdue rủ tôi lấy xe dạo một vòng. Leon là anh Ba trong nhà, có chút dáng vẻ của dân học thuật, một thứ mà mọi người khác đã xoay xở tránh được. Anh để râu, hút tẩu, mặc áo khoác vải tuýt với miếng đệm ở khuỷu tay, kèm cách nói với những từ ngữ như đã soạn bài sẵn.

Chúng tôi lướt qua đường phố Clanton trên xe của anh. Anh muốn biết về Sam và tôi kể hết, không chừa lại gì, cũng như nêu rõ quan điểm rằng tình hình quá nguy hiểm để Sam có thể đặt chân vào Hạt Ford.

Leon lại hỏi về phiên tòa xử Danny Padgitt. Tôi từng gửi nhiều số Thời báo cho mọi người trong nhà Ruffin. Một bài báo của Baggy đã nêu bật về lời đe dọa của Danny với bồi thẩm đoàn, còn bôi đậm câu trích nguyên văn lời hắn, “Các người mà kết tội tôi thì tôi sẽ xử hết, xử không chừa một ai.”

“Hắn có khả năng được ra tù không?” Leon hỏi.

“Có,” tôi ngập ngừng trả lời.

“Khi nào?”

“Chẳng ai rõ được. Hắn bị một án chung thân cho tội giết người, một án chung thân cho tội cưỡng hiếp. Mỗi tội tối thiểu phải ngồi tù mười năm, nhưng tôi nghe nói hệ thống ân xá của Mississippi hay tào lao lắm.”

“Vậy là tối thiểu mười năm?” Tôi chắc chắn là anh đang vừa nói vừa tính tuổi mẹ mình. Bà đã 55 tuổi rồi.

“Không ai biết chắc được. Có khả năng sẽ được giảm án tối thiểu vì chấp hành tốt.”

Đến đoạn này, Leon có vẻ cũng rối như tôi. Sự thật là, không một ai có chút hiểu biết về hệ thống tư pháp hoặc hệ thống cải huấn có thể trả lời dứt khoát thắc mắc của tôi về trường hợp của Danny. Ở Mississippi, ân xá là chuyện miễn bàn luận, và người ta ngại không dám hỏi han quá nhiều.

Leon bảo tôi là anh đã hỏi mẹ mình về phán quyết, hỏi rất nhiều. Hỏi cụ thể là bà bỏ phiếu án chung thân hay án tử hình? Và lần nào bà cũng trả lời là bồi thẩm đoàn đã thề sẽ giữ kín tuyệt đối chuyện đó. “Anh biết được gì không?” Leon hỏi tôi.

Tôi đâu biết gì nhiều. Khi nói chuyện với tôi, bà đã ngụ ý rất rõ là bà không đồng ý với phán quyết này, nhưng đó vẫn chưa phải câu trả lời dứt khoát. Nhiều tuần sau phán quyết, người ta đồn đoán đủ thứ chuyện. Hầu hết những người hay lai vãng ở tòa đều ủng hộ giả thuyết rằng có ba hay bốn bồi thẩm đã không chịu bỏ phiếu án tử hình. Bà Callie thường bị xem là nằm trong số đó.

“Nhà Padgitt có tác động gì họ không?” Leon hỏi tiếp. Xe lúc này đang đi vào con đường rợp bóng cây của trường Trung học Clanton.

“Đấy là giả thuyết có nhiều người ủng hộ nhất. Nhưng chẳng ai thật sự biết rõ gì. Lần gần nhất hạt này ra án tử hình cho một phạm nhân da trắng là từ 40 năm trước rồi.”

Leon dừng xe lại và chúng tôi nhìn đăm đăm vào cánh cổng gỗ sồi uy nghiêm của trường. “Vậy là cuối cùng cũng đã xóa bỏ phân tách chủng tộc.”

“Phải.”

“Tôi chưa hề nghĩ mình sẽ thấy được ngày này.” Anh cười với vẻ mãn nguyện vô cùng. “Tôi từng mơ được vào học ở đây. Hồi tôi còn nhỏ, bố tôi làm lao công ở đây, và mỗi thứ Bảy, tôi lại đến đây, đi dọc những hành lang, mê mẩn ngắm nhìn các phòng học. Tôi hiểu tại sao mình không được hoan nghênh ở đây, nhưng thật sự, tôi không bao giờ chấp nhận nổi lý do đó.”

Tôi cũng chẳng biết bình phẩm gì chuyện này, chỉ lắng nghe mà thôi. Lời Leon nói đậm giọng buồn hơn là giận.

Lát sau, chúng tôi lái xe đi, qua đường sắt, về lại Hạ trấn, và tôi vừa ngạc nhiên vừa thích thú khi thấy những chiếc xe đẹp mang biển số ngoài bang đang đỗ san sát trên đường. Những gia đình đông vui ra hiên ngồi tận hưởng khí trời, trẻ con chơi đầy sân nhà và đường phố. Lại thêm nhiều xe khác đến, xe nào nhìn qua cửa kính cũng đầy những hộp quà gói giấy sáng bóng.

“Nhà là nơi có mẹ,” Leon cảm thán. “Đến Giáng Sinh, ai cũng về nhà.”

Khi gần đến nhà bà Callie, Leon cảm ơn tôi vì đã kết thân với mẹ anh. “Mẹ tôi kể về anh suốt.”

“Toàn là vì mấy bữa trưa ấy mà,” tôi trả lời và cả hai cùng bật cười. Xe vừa đỗ lại trước cửa, chúng tôi đã ngửi thấy một mùi thơm phức từ trong nhà bay ra. Leon sáng mắt, hít một hơi dài, “Bánh bí ngô.” Đúng là người có kinh nghiệm.

Cả bảy giáo sư trong nhà đã nhiều lần thay nhau cảm ơn tôi vì tình bạn với mẹ họ. Bà đã kết thân với nhiều người, có nhiều bạn thân, nhưng trong hơn tám tháng qua, bà đặc biệt trân trọng thời gian thân thiết với tôi.

Hôm trước Giáng Sinh, đến cuối giờ chiều tôi mới từ biệt cả nhà ra về. Lúc đó họ đang chuẩn bị để đi lễ. Sau đó, sẽ là tặng quà cho nhau và ca hát. Trong nhà Ruffin, ông bà con cháu phải đến hơn 20 người, chắc chắn tối đó chẳng ai muốn ngủ đâu.

Tôi cũng đã xác định trước là thế nào mình cũng phải xin phép ra về. Thế nào cũng sẽ có những cái ôm, những giọt nước mắt vui sướng, hát hò và kể chuyện, những chuyện chắc chắn nhà Ruffin sẽ hoan nghênh tôi tham gia, nhưng tôi nghĩ nên để họ có thời gian gia đình riêng tư cho trọn vẹn.

Tôi đây biết gì về chuyện gia đình chứ?

Thế là tôi lái xe đến Memphis, chốn mà tôi đã trải qua mười năm thơ ấu chẳng biết trang trí Giáng Sinh là gì. Tôi và bố ra một nhà hàng món Hoa cách nhà không xa. Lúc cố nuốt món canh hoành thánh dở tệ, tôi không khỏi nghĩ đến cảnh náo động ở căn bếp bà Callie và biết bao món ngon liên tục được dọn lên.

Bố tôi đã rất cố gắng để tỏ ra quan tâm đến tờ Thời báo . Hàng tuần tôi gửi cho ông một bản như nghĩa vụ phải làm, nhưng chỉ sau vài phút chuyện trò, tôi đã biết ngay ông chưa hề đọc chữ nào. Tâm trí ông để hết vào điềm xấu của chiến tranh Đông Nam Á đối với thị trường chứng khoán rồi.

Chúng tôi ăn vội rồi ai đi đường nấy. Đáng buồn là, cả bố lẫn tôi, chẳng ai nghĩ đến chuyện tặng quà Giáng Sinh cho nhau.

Trưa chính ngày Giáng Sinh, tôi đến ăn tiệc ở nhà bà ngoại. Cảm giác chào đón nồng nhiệt ở đây khác hẳn. Bà còn mời ba người bạn góa tóc hoa râm ghé chơi, ăn thịt xông khói uống rượu sherry, và năm người chúng tôi uống đến hơi chuếnh choáng. Tôi góp vui bằng một vài câu chuyện ở Hạt Ford, có chuyện tôi kể đúng, có chuyện thì thêm mắm dặm muối cho vui. Đi chơi với Baggy và Harry Rex suốt, tôi cũng học được vài thuật kể chuyện mà.

Ba giờ chiều, tôi và bốn bà già ngấm rượu đều chìm vào giấc ngủ. Sáng hôm sau, tôi chuồn lẹ về lại Clanton.