CHƯƠNG 25
Một ngày giá lạnh cuối tháng 1, có mấy tiếng súng nổ vang đâu đó ở quảng trường. Lúc tôi đang ngồi ở bàn làm việc, thong thả đánh máy câu chuyện về ông Lamar Farlowe và cuộc hội ngộ của ông với tiểu đoàn lính nhảy dù tại Chicago, thì một viên đạn găm thẳng vào ô kính cửa sổ tầng ngay trên đầu tôi. Thế là tuần này có tin đăng bài rồi.
Viên đạn găm vào tòa nhà tôi là viên thứ hai hay thứ ba trong cả loạt đạn nã điên cuồng. Tôi liền nằm xuống sàn, đầu óc quay cuồng. Súng của mình đâu? Đám Padgitt đang tấn công cả thành phố sao? Hay lão Durant và hai con lão đang tới xử mình? Tôi bò lồm cồm đến chỗ chiếc cặp táp, tiếng súng vẫn nổ đùng đoàng bên ngoài, nghe có vẻ như vang lên từ bên kia đường, nhưng vào lúc hoảng loạn thế này đầu óc tôi không chắc nổi chuyện đó. Một viên nữa găm vào văn phòng tôi, rồi tiếng súng nghe còn gần hơn.
Tôi xổ cặp táp ra mới nhớ là khẩu súng chắc đang nằm ở căn hộ hoặc xe tôi rồi. Giờ trong tay không có vũ khí, tôi chẳng khác gì con cá nằm trên thớt, vô phương tự vệ. Harry Rex và Rafe chắc sẽ chán tôi lắm.
Tôi sợ đến mức đờ người ra bất động. Rồi chợt nhớ ra Bigmouth Bass đang ở trong văn phòng tầng dưới, và như mọi đàn ông thực thụ ở Clanton, trên người ông lúc nào cũng có cả kho súng. Trong bàn làm việc của ông còn có mấy khẩu súng ngắn, trên tường treo hai khẩu súng săn phòng khi nổi hứng muốn đi săn hươu trong giờ nghỉ trưa. Bất kỳ ai muốn xử tôi đều sẽ gặp sự phản kháng quyết liệt của các nhân viên dưới quyền tôi. Có hy vọng rồi.
Ngoài quảng trường bỗng im bặt trong giây lát, rồi tiếng la hét hoảng loạn nổ ra. Lúc đó tầm 2:00 chiều, giờ tất bật ở khu trung tâm thành phố. Tôi bò dưới bàn làm việc, đúng kiểu được dạy khi có cảnh báo gió lốc. Tiếng Bigmouth đâu đó dưới lầu vọng lên, “Ở yên trong văn phòng anh đi.” Tôi ghé mắt nhìn xuống, thấy ông đang cầm một khẩu 30 ly, một hộp đạn, nép mình vào gờ hành lang chờ đợi bất kỳ điều gì sẽ xảy ra.
Tôi chẳng hiểu nổi có thằng nào điên đến nỗi nổ súng loạn xạ ngay chỗ này. Trong phạm vi quanh quảng trường Clanton tổng cộng phải có đến cả ngàn khẩu súng. Mọi chiếc bán tải đậu ở đây đều có hai súng trường dưới gờ cửa sổ xe và một khẩu shotgun dưới ghế. Dân tình lại quá máu me muốn được lỗi chúng ra! Và họ sẽ bắn trả ngay thôi. Lúc đó, chuyện sẽ rất kinh khủng.
Rồi tiếng súng lại vang lên. Dựa theo tiếng súng, tôi biết chúng không lại gần tôi được, và thằng tôi vẫn bò dưới bàn, nhưng hơi thở đã bắt đầu trở lại bình thường, đầu óc bắt đầu vận động phân tích. Tôi dần nhận ra cuộc tấn công này không nhắm vào tôi. Tôi chỉ tình cờ ở gần mục tiêu mà thôi. Tiếng còi hụ vang lên, rồi thêm vài tiếng súng, tiếng la hét. Gì đây trời!
Điện thoại dưới lầu đổ chuông và ai đó chộp lấy nghe máy ngay lập tức.
Rồi Bigmouth hét lên từ tầng dưới, “Willie! Ổn chứ?”
“Ổn!”
“Có tay bắn tỉa trên nóc tòa án.”
“Hay!”
“Nấp kín vào!”
“Yên tâm!”
Tôi nhẹ nhõm được đôi chút, nhích ra để với lấy cái điện thoại, bấm số gọi đến nhà Wiley Meek, nhưng có vẻ ông đã lên đường tới đây rồi. Thế là tôi bò ra phía ban công, mở một cánh cửa hiên. Rõ ràng cánh cửa mở ra đã thu hút tay bắn tỉa. Ô cửa cách đầu tôi hơn một mét vỡ toang, kính rơi xuống như mưa. Tôi liền nằm sấp xuống sàn, sợ đến nín thở. Tiếng súng vẫn chát chúa vang lên liên tiếp. Dù là ai, chắc chắn hắn đang hoảng lên vì chuyện gì đó.
Tám phát súng, mỗi phát càng inh tai hơn vì giờ tôi đã nằm kề cánh cửa mở. Hắn dừng 15 giây nạp đạn rồi lại nã thêm tám phát nữa. Tôi nghe tiếng kính vỡ, tiếng đạn dội trên gạch, đạn xuyên vào khung gỗ. Rồi tất cả chìm vào im lặng.
Tôi lồm cồm nhỏm dậy, kéo một cái ghế dựa, lấy nó chắn mà bò đi. Hành lang có một dãy chấn song bằng thép, cộng thêm cái ghế trước mặt, tôi tự tin mình đã được che chắn kĩ rồi. Thật sự, tôi không chắc tại sao mình lại thấy phải nhích về phía tay súng, nhưng tôi mới 24 tuổi, lại là chủ một tờ báo biết rằng mình có thể viết cả một câu chuyện dài hơi về vụ việc đầy giật gân này. Tôi cần thêm chi tiết viết bài.
Nhìn hé qua cái ghế và dãy chấn song, tôi đã thấy được tay bắn tỉa. Trên mái vòm bèn bẹt của tòa án có một đình bát giác đỉnh vòm với bốn ô cửa mở. Hắn đóng chốt ở đó, đang ló mặt ra một ô. Hình như hắn da đen, tóc bạc trắng, và hình ảnh đó càng khiến tôi thấy ớn lạnh hơn. Gặp phải một tên loạn thần thứ dữ rồi.
Hắn đang nạp đạn, rồi nhích người ra bắt đầu bắn vu vơ xuống dưới. Có vẻ hắn ở trần, một chuyện quái gở, vì trời đang âm một độ và đã có dự báo chiều nay có thể có tuyết rơi nhẹ. Bản thân tôi đang lạnh cóng dù trên người là một chiếc áo vest len lông cừu bảnh bao mua ở cửa hàng ông Milto.
Ngực hắn lại màu trắng với những sọc đen, trông hệt như ngựa vằn. Đây là một người đàn ông da trắng tô vẽ vài phần da đen.
Người xe đều đã dạt đi hết. Cảnh sát thành phố đã phong tỏa các ngả đường, tản ra và nấp sau xe họ. Trong khung kính một cửa hàng, có cái đầu ló ra dáo dáo quan sát rồi lặn mất hút ngay lập tức. Tiếng súng tạm im ắng, tay bắn tỉa đang thu mình. Ba cảnh sát hạt liền nhanh chân chạy vào tòa án. Vài phút trôi qua mà dài dằng dặc.
Wiley lao nhanh lên những bậc thang vào văn phòng và tiến tới cạnh tôi. Ông thở mạnh đến nỗi tôi tưởng như ông đã chạy một mạch từ ngôi nhà ngoại ô đến tận đây. “Hắn bắn trúng ta!” ông thì thầm, như thể sợ tay bắn tỉa nghe được, mắt thì nhìn quanh mấy chỗ kính vỡ.
“Hai lần,” tôi xác nhận luôn.
“Hắn ở đâu?” ông vừa hỏi vừa cầm máy ảnh gắn lens chụp xa lên, sẵn sàng vào việc.
“Đình bát giác,” tôi chỉ tay về phía đó rồi dặn dò. “Cẩn thận đấy. Ta mà mở cửa là hắn bắn liền.”
“Anh có thấy hắn chưa?”
“Nam, da trắng, nhấn nhá da den.”
“Ồ, lại một đứa khùng.”
“Cúi đầu xuống.”
Chúng tôi thu người nấp thêm vài phút nữa. Ngày càng thêm nhiều cảnh sát kéo đến, họ hăng hái chạy quanh nhưng không rõ đi đâu, trông như một đám con nít vừa được thả ra sân chơi, hồ hởi vì có việc thú vị để làm nhưng không biết làm cách nào.
“Có ai bị thương không?” Wiley đột nhiên hỏi tôi, như sợ bỏ lỡ vài khung hình máu me.
“Sao tôi biết được chứ?”
Lại vài tiếng súng vang lên đanh gọn. Chúng tôi hé mắt ra nhìn và thấy hắn, đang nâng súng bắn lung tung. Wiley bắt đầu vào việc, chụp ảnh bằng lens tầm xa.
Baggy và mấy ông bạn giờ đang ở Phòng Luật trên tầng ba, không hẳn ngay dưới đình bát giác nhưng cũng không xa đó mấy. Thực sự họ là những người đang ở gần tay súng nhất lúc hắn bắt đầu màn tập bắn bia người này. Sau khi hắn nã được chín hay mười loạt đạt, họ bắt đầu thấy sợ thật sự, tin chắc mình sắp bị tấn công, nên quyết định phải tự cứu thân gấp. Xoay sở một hồi, họ cũng mở được ô cửa sổ vốn bị niêm phong chặt ở cái hốc nhậu đó. Chúng tôi thấy một sợi dây điện được ném ra khỏi cửa sổ, rơi xuống gần chạm mặt đất vốn cách đó phải hơn 12 mét. Tiếp theo, chân phải Baggy thò ra đặt trên bệ cửa một lát rồi lấy đà đẩy thân hình đẫy đà của ông lên. Chẳng ngạc nhiên khi Baggy đòi làm người ra trước.
“Chúa ơi.” Wiley nói với giọng như vừa bắt được vàng và nâng máy ảnh lên ngay. “Họ say quắc cần câu rồi.”
Bám vào sợi dây điện bằng hết sức bình sinh, Baggy lao mình qua khung cửa để xuống nơi an toàn. Nhưng kế hoạch của ông có vẻ không ổn cho lắm. Sợi dây căng như dây đàn dưới sức nặng của ông, hai tay ông căng cứng bám chặt nó. Rõ ràng là ở trong phòng còn nhiều dây nữa, và đám đồng tửu sẽ thả ông xuống từ từ.
Với hai tay vươn thẳng lên trên, quần ông cũng bị kéo theo lên, để lộ mảng da trắng nhợt trên đôi vớ đen. Baggy đâu quan tâm mấy đến diện mạo, có hay không có tay bắn tỉa cũng vậy.
Loạt súng tạm dừng, còn Baggy thì đong đưa ở đó, chầm chậm bị xoắn lại tấp về phía tòa nhà, vẫn chỉ mới xuống được một mét. Tôi có thể thấy Major đang điên cuồng giữ lấy sợi dây. Ông ấy chỉ có một chân thôi, và tôi lo là nó cũng sắp đi đời. Sau lưng ông còn có hai người nữa, có lẽ là Wobble Tackett và Chick Elliot, hai người còn lại trong bộ tứ đánh bài thường lệ.
Wiley bắt đầu cười, nhưng vừa cười vừa cố kìm lại, giọng trầm trầm làm rung cả người.
Mỗi lần tay súng tạm nghỉ là dân tình hít một hơi, đảo mắt nhìn quanh cầu mong nó hết thật luôn cho rồi. Nhưng súng vẫn đều đều nổ, và mỗi loạt đạn càng khiến chúng tôi lo lắng hơn.
Hai phát súng vang lên. Baggy oằn người như vừa bị bắn, dù trên thực tế, tay bắn tỉa không đời nào thấy được ông, và cú oằn đột ngột vừa rồi rõ ràng đã khiến chân còn lại của Major chịu không nổi. Sợi dây bung ra rơi tự do và Baggy hét lên khi lao xuống một dãy hoàng dương do hội Nữ tử Liên bang trồng. Đám cây đã hứng bớt lực rơi và độ dẻo dai của chúng như tấm bạt nhún hất Baggy qua một bên, đáp đất như một trái dưa bở và thành người duy nhất bị thương trong toàn bộ vụ việc này.
Tôi nghe thấy mấy tiếng cười xa xa.
Wiley thì chẳng màng gì đến ông bạn đồng nghiệp, tập trung tối đa ghi lại cảnh này. Những tấm ảnh đó sẽ được lén chuyền tay nhau khắp Clanton suốt nhiều năm cho mà xem.
Baggy nằm yên bất động một hồi khá lâu. “Cứ để lão gàn nằm yên đó,” một cảnh sát gào lên.
“Tiên tửu trường sinh bất tử mà,” Wiley cũng nói vọng vào.
Cuối cùng, Baggy cũng ngoi đầu dậy. Hệt như con chó vừa bị xe tải tông, ông bò vào bụi hoàng dương vừa cứu mạng mình, ẩn nấp chờ qua cơn bão.
Một chiếc xe cảnh sát đỗ cách Trà Quán ba nhà. Tay bắn tỉa liền nã một tràng về phía đó, và khi thùng xăng xe nổ tung, chúng tôi liền quên béng Baggy. Chuyện này đã lên một tầm mới khi khói đen mù mịt bắt đầu phun ra từ dưới gầm xe, còn có vài ánh lửa nữa. Tay bắn tỉa như vừa có được trò mới, và trong vài phút toàn nhắm xe mà bắn. Chắc chắn chiếc Spitfire của tôi là món đồ chơi bắt mắt, nhưng may thay có lẽ nó quá nhỏ.
Đến đoạn này, hắn phát cuồng luôn rồi, chuyển sang loạn lên. Hai cảnh sát hạt đã lên được mái vòm, và khi họ nhảy vào đình bát giác, tay bắn tỉa đã rũ rượi nằm nghỉ chờ họ.
“Bắt được hắn rồi!” một cảnh sát hét lên báo cho Coley. Chúng tôi chờ thêm hai mươi phút trong im lặng. Từ xa có thể thấy đôi giày wingtip và vớ đen của Baggy ló ra dưới bụi hoàng dương, nhưng chỉ thế thôi. Major trên kia, tay cầm ly, nhìn xuống, hét gì đó về phía Baggy chắc đang mê man bất tỉnh.
Thêm toán cảnh sát xông vào tòa án. Chúng tôi thở phào nhẹ nhõm, ngã người ra ghế, nhưng mắt vẫn dán chặt về phía đình bát giác. Bigmouth, Margaret và Hardy cũng lên ban công quan sát với chúng tôi. Đứng ở tầng dưới, họ đã thấy màn tiếp đất của Baggy rồi. Chỉ có mình Margaret tỏ ra quan tâm không biết ông ấy thế nào.
Chiếc xe cảnh sát trúng đạn vẫn tiếp tục cháy cho đến khi đội cứu hỏa tới dập. Cửa tòa án bật mở và vài nhân viên công vụ của hạt bước ra, phả khói thuốc mù cả trời. Hai cảnh sát giúp đưa Baggy ra khỏi bụi hoàng dương. Ông đi không nổi, rõ ràng là đang đau lắm. Họ đưa ông lên một xe cảnh sát tuần tra rồi chở đi.
Nhìn lại về phía đình bát giác, thay chỗ tay súng giờ là một cảnh sát hạt, thành phố đã trở lại bình yên. Năm người chúng tôi liền xuống lầu, và như toàn bộ cư dân ở thành phố này, đua nhau chạy đến chỗ tòa án.
Tầng ba đã bị phong tỏa. Hiện không có phiên tòa nào, nên cảnh sát trưởng Coley thông báo mọi người đến phòng xử án và ông sẽ tường trình ngắn gọn vụ việc. Khi bước vào phòng, tôi thấy Major, Chick Elliot và Wobble Tackett được một cảnh sát hộ tống đi xuống. Rõ ràng họ quá say, cười ngặt nghẽo và gần như không đứng nổi nữa.
Wiley bước xuống tầng dưới để thăm dò. Xác tay súng sắp được đưa đi, và ông muốn chụp được mặt hắn. Tóc trắng, mặt đen, vẽ vằn vện - có quá nhiều thắc mắc để giải đáp mà.
Rõ ràng cảnh sát bắn tỉa đã không hoàn thành nhiệm vụ. Tay súng bắn tỉa được xác minh là Hank Hooten, luật sư làm trợ lý Ernie Gaddis truy tố Danny Padgitt. Anh ta đã bị bắt, không hề hấn gì.
Khi cảnh sát trưởng Coley công bố chuyện này, ai nấy đều bàng hoàng và hoang mang. Mọi người vốn đã khá bồn chồn rồi, và chuyện này lại quá khó tin. “Chúng tôi tìm thấy anh Hooten ở cầu thang dẫn lên đình bát giác,” Coley tiếp tục nói, nhưng tôi chẳng còn tâm trí nào để ghi lại. “Anh ta không kháng cự và hiện giờ đã hoàn toàn bị khống chế.”
“Anh ta mặc gì?” có người hỏi.
“Chẳng mặc gì?”
“Không mặc gì sao?”
“Tuyệt đối không có gì trên người. Anh ta bôi một thứ màu đen, có lẽ là xi đánh giày, lên mặt và ngực, còn lại thì trần như nhộng.”
“Anh ta dùng vũ khí gì?” tôi hỏi.
“Chúng tôi tìm thấy hai khẩu súng trường hạng nặng, hiện giờ tôi chỉ nói được thế.”
“Anh ta có nói gì không? “Không một lời.”
Wiley cho biết họ đã lấy ga trải giường quấn lại cho Hank rồi tống vào băng ghế sau một xe tuần tra. Ông đã chụp được vài tấm, nhưng không mấy hy vọng có hình đẹp. “Cả chục cảnh sát vây quanh anh ta mà.”
Rồi hai chúng tôi lên xe đến bệnh viện xem tình hình Baggy thế nào. Tối hôm trước vợ ông trực ca đêm ở phòng cấp cứu, vậy mà sáng nay bị gọi dậy kêu đến bệnh viện gấp nên khi chúng tôi đến nơi, bà không mấy vui vẻ. “Chỉ gãy tay thôi,” bà nói, rõ ràng là thất vọng khi nó không nặng như bà tưởng. “Vài vết bầm dập trầy trợt nữa. Lão ngốc đó đã làm trò gì vậy?” Tôi và Wiley chỉ biết đưa mắt nhìn nhau.
“Lão say chứ gì?” bà hỏi tiếp. Baggy lúc nào chẳng say. “Tôi chẳng rõ nữa. Ông ấy bị rơi khỏi cửa sổ phòng tầng trên của tòa án.”
“Ôi trời. Lão say cái chắc rồi.”
Tôi kể sơ về chuyện Baggy cố thoát thân, nói sao cho có vẻ như ông đã làm một chuyện hào hùng giữa làn đạn chí mạng. “Từ tầng ba á?” bà hỏi.
“Phải.”
“Vậy là lão đang chơi bài, uống rượu thì bỗng nổi hứng nhảy xuống từ tầng ba.”
“Căn bản là thế,” Wiley đáp liền.
Tôi chẳng ngăn kịp và vội lấp liếm, “Không hẳn thế đâu.” nhưng bà ấy đã quay người bước đi rồi.
Lúc chúng tôi vào phòng, Baggy đang nằm ngáy o o. Đã có sẵn rượu, lại thêm thuốc an thần, không li bì mới lạ. “Rồi ông ấy sẽ ước gì mình không bao giờ tỉnh lại,” Wiley thì thầm.
Và Wiley nói đúng. Giai thoại Baggy nhảy lầu trở thành câu chuyện thú vị được người ta nhắc đi nhắc lại suốt vài năm sau đó. Wobble Tackett thề thốt rằng Chick Elliot là người buông dây trước, còn Chick thì cãi rằng cái chân còn lại của Major không trụ nổi nên mới ra cớ sự này. Nhưng ai thả trước cũng chẳng thành vấn đề, vì dân tình trong thành phố ai cũng nghĩ rằng ba lão bạn già ngốc nghếch của Baggy ở Phòng Luật cố tình thả ông xuống bụi hoàng dương thì có.
Hai ngày sau, Hank Hooten được đưa đến bệnh viện tâm thần bang ở Whitfield, và anh ta sẽ phải ở đó vài năm. Ban đầu tội danh bị truy tố của Hank là cố sát cả nửa thành phố Clanton, nhưng rồi các cáo buộc cũng giảm dần. Người ta đồn rằng Hank kể với Ernie Gaddis là anh không chủ ý bắn ai cả, cũng không muốn hại ai, nhưng anh chỉ giận cái thành phố này vì không thể cho Danny Padgitt bản án tử hình.
Sau đó, mọi người kháo nhau rằng họ chẩn đoán Hank bị tâm thần phân liệt. “Thằng khùng”, ai cũng kết luận vậy.
Dù gì, ở Hạt Ford xưa giờ, chưa ai mất trí một cách hoành tráng như vậy.