CHƯƠNG 26
Một năm sau khi mua tờ báo, tôi gửi lại cho bà ngoại BeeBee tờ chi phiếu 55.000 đô, trả đủ cả gốc tôi mượn lẫn lãi 10%. Khi đưa tiền cho tôi, bà không nói gì đến tiền lãi, cũng chẳng bắt tôi ký giấy nợ. Trả 10% là hơi cao, nhưng tôi mong làm thế sẽ khiến bà thấy ngại mà gửi tờ chi phiếu lại. Tôi hồi hộp gửi nó đi rồi chờ hồi âm, và đúng như tôi dự đoán, một tuần sau đã có thư từ Memphis đến.
William thương mến. Bà đã mở chi phiếu của cháu ra xem. Bà không dự tính sẽ nhận lại số tiền này và hiện giờ bà cũng không có việc gì để dùng đến. Dù có vẻ sẽ không xảy ra, nhưng nếu sau này vì lý do đặc biệt gì đó mà bà cần đến nó, thì ta sẽ bàn bạc sau. Thấy cháu trả lại tiền khiến bà vô cùng tự hào về cháu và an tâm về nhân cách của cháu. Thành tựu của cháu trong chưa đầy một năm khiến bà quá tự hào và vui sướng khi kể cho bạn bè về người cháu tổng biên tập và nhà xuất bản báo chí thành đạt.
Thú thật là bà đã hơi lo khi cháu về nhà sau khi tốt nghiệp Syracuse. Có vẻ cháu thiếu định hướng và động lực, tóc lại hơi dài. Nhưng cháu đã chứng minh là bà đã nhầm, lại còn cắt tóc ngắn nữa. Cháu đã thành một quý ông, trong cả ngoại hình và hành xử.
Cháu là cả thế giới của bà, William à, bà thương cháu vô cùng. Nhớ viết thư thăm bà thường xuyên hơn nhé. Thương cháu, BeeBee
Tái bút: Anh chàng tội nghiệp trút hết áo quần và bắn cả thành phố giờ thế nào rồi? Dân tình ở đó đúng là thú vị thật!
Bà ngoại BeeBee đã có hai đời chồng. Người chồng đầu tiên mất vào năm 1924 vì một chứng bệnh hay ho gì đó. Rồi bà tái hôn với một thương gia buôn vải bông, ông bà chỉ có một mụn con là người mẹ yểu mệnh của tôi. Ông ngoại tôi cũng mất vào năm 1938, để lại cho bà cả gia tài. Bà không tái hôn nữa, và sống những năm tháng tam tuần để đếm tiền, chơi bài và du lịch. Là đứa cháu độc nhất, tôi mặc định là người thừa kế của bà, dù thật sự tôi chẳng rõ gia tài của bà nhiều chừng nào.
Nếu bà ngoại mong nhận thư thì chắc chắn tôi sẽ viết.
Tôi mừng rỡ xé tấm chi phiếu vừa nhận lại, ra nhà băng và mượn thêm 50.000 đô từ Stan Atcavage. Hardy vừa tìm được một máy in cũ nhưng mới sử dụng chưa được bao lâu ở Atlanta, và tôi quyết định xuống tiền 108.000 đô để mua nó. Cái máy in cổ đại đã được ra đường, và phòng in của tờ báo thực sự khoác lớp áo hiện đại của thế kỷ 20. Nhờ đó tờ Thời báo cũng có diện mạo mới, chữ rõ hơn, hình nét hơn, thiết kế đẹp hơn. Con số phát hành của chúng tôi đã lên đến 6000 và tờ báo đang trên đà tăng trưởng lợi nhuận vững vàng. Cuộc bầu cử thành phố năm 1971 lại càng khiến tôi chắc chắn về chuyện này.
Tôi thật sự kinh ngạc trước số người chạy đua vào các chức vụ công ở Mississippi. Mỗi hạt được chia thành năm quận và mỗi quận có một cảnh sát được bầu lên, đeo phù hiệu, đeo súng và đồng phục tự chọn. Nếu đủ tài chính, mà chắc chắn ai cũng đủ, thì cảnh sát sẽ lắp thêm đèn hiệu lên xe và có quyền dừng xe bất kỳ ai, bất kỳ lúc nào thấy có vi phạm gì đó. Mấy cảnh sát quận này chẳng cần được đào tạo hay rèn luyện gì cả. Họ cũng không phải báo cáo cho cảnh sát trưởng hạt hay cảnh sát trưởng thành phố, người duy nhất giám sát họ là các cử tri bốn năm một lần. Theo lý thuyết, họ chỉ là những người truyền lệnh triệu tập, nhưng khi được bầu lên rồi, mấy cảnh sát này không kìm được ma lực của khẩu súng và quyền bắt người.
Càng viết nhiều phiếu phạt, họ càng kiếm bộn tiền. Đây chỉ là công việc bán thời gian với mức lương trung bình, nhưng ít nhất một trong năm cảnh sát dân cử ở mỗi hạt xem đây là cần câu cơm chính. Và chính người này là nguồn cơn rắc rối.
Mỗi hạt đều có một Thẩm phán Hòa bình, danh hiệu thời 1971 cho một nhân viên tư pháp mà lại không hề được đào tạo về pháp lý. Họ không cần học vấn hay kinh nghiệm gì. Phiếu bầu là tất cả. Thẩm phán Hòa bình này phụ trách phán xử mọi người mà cảnh sát dân cử đưa về, quan hệ của hai người họ khá là thân ái và phần nào đáng ngờ. Mấy tài xế dân ngoài bang mà bị cảnh sát dân cử Hạt Ford bắt lại thường sẽ bị Thẩm phán Hòa bình hành cho ra bã.
Và thế là mỗi hạt có năm giám sát viên, năm ông chúa nhỏ thật sự nắm quyền lực. Để lấy lòng người ủng hộ, họ cho lát đường, sửa cống nước, rải sỏi các lối đi nhỏ. Với người đối địch, họ chẳng làm được gì nhiều. Quy định của mọi hạt đều do Hội đồng Giám sát thực hiện.
Mỗi hạt đều có một cảnh sát trưởng, thu thuế viên, định thuế viên, thư ký tòa và điều tra viên, tất cả đều do dân cử. Các hạt nông thôn có chung một tham nghị viên và một hạ nghị viên. Thời năm 1971, còn có các chức vụ dân cử như ủy viên xa lộ, ủy viên dịch vụ công, ủy viên nông nghiệp, thủ quỹ bang, kiểm toán bang, trưởng công tố bang, phó thống đốc và thống đốc.
Tôi cứ nghĩ đây là một bộ máy lố bịch và cồng kềnh cho đến khi các ứng viên cho những vị trí này bắt đầu tìm đến tờ Thời báo đặt quảng cáo. Một cảnh sát dân cử rất tồi ở Quận 4 (hay còn bị gọi là Tứ Tàn) có đến 11 đối thủ khi cuộc tranh cử chỉ mới chớm đầu tháng 1. Hầu hết mấy anh nghèo này lả lướt vào tòa soạn của chúng tôi với một “tuyên bổ” được vợ viết ra trên tờ giấy vở. Tôi cứ kiên nhẫn đọc chúng, chỉnh sửa, thậm chí là vắt óc cố hiểu xem họ viết gì. Rồi tôi nhận tiền và chạy cho họ mẩu quảng cáo bé xíu, mà hầu như cái nào cũng bắt đầu với “Sau vài tháng cầu nguyện..” hoặc “Nhiều người đã ngỏ ý muốn tôi tranh cử...”
Đến cuối tháng 2, cả hạt chỉ chăm chăm vào cuộc bầu cử đến tháng 8 mới diễn ra. Cảnh sát trưởng Coley có hai đối thủ đáng gờm. Hạn chót để đăng ký tham gia tranh cử là tháng 6, và lão vẫn chưa có động thái gì, khiến dân tình xôn xao có khi năm nay lão không ra tranh cử nữa.
Nhưng mà thật ra hễ liên quan đến bầu cử, một chút chuyện nhỏ xíu cũng đủ khuấy động dư luận ở đây rồi.
Bà Callie vẫn giữ quan niệm của người xưa là ăn ở nhà hàng chỉ tốn tiền và do đó còn là tội nữa. Danh sách tội tiềm tàng của bà nhiều hơn hầu hết mọi người, nhất là so với tôi. Phải mất sáu tháng tôi mới thuyết phục được bà ghé quán Claude ăn trưa ngày thứ Năm. Lập luận của tôi là nếu tôi thanh toán thì bà đâu có phí phạm tiền bạc, nên sẽ không mắc tội gì, còn tôi thì thêm một tội nữa cũng đâu nhằm nhò gì. Thật sự, đi ăn ngoài là một trong những chuyện làm tôi thoải mái nhất thì có.
Tôi chẳng lo về chuyện dân tình thấy tôi đi cùng một phụ nữ da đen ở trung tâm thành phố, vì tôi có màng đến dư luận đâu. Tôi cũng không lo về chuyện mình là người da trắng duy nhất ở quán Claude. Cái khiến tôi bận tâm nhất và cũng là lý do khiến tôi lần lữa bữa ăn trưa này là làm sao để đưa bà Callie lên và xuống chiếc Triumph Spitfire bé xíu của tôi cơ.
Bà và ông Esau có một chiếc Buick từng chở được một lần cả tám đứa con của họ, và dù có tăng thêm năm chục cân bà Callie vẫn có thể ra vào ghế trước chiếc đó dễ dàng.
Với tình hình hiện nay, bà chẳng giảm cân được đâu. Chứng huyết áp cao và mức cholesterol cao của bà là mối quan ngại lớn của các cô cậu nhà Ruffin. Năm nay bà đã 60 tuổi, dù vẫn khỏe mạnh, nhưng nguy cơ đang chực chờ.
Chúng tôi bước ra đường và bà đứng trơ ra nhìn xe tôi. Hôm đó trung tuần tháng 3, trời đang gió và có thể có mưa nên tôi phải bật mui lên, khiến chiếc xe hai chỗ này trông còn bé hơn bình thường.
“Tôi không chắc là được đâu,” bà nói luôn. Phải mất sáu tháng để mời bà ra ngoài ăn, nên tôi không đời nào để bị hủy phút chót. Tôi mở cửa xe và bà nhìn vào với ánh mắt nghi ngại.
“Anh có gợi ý gì không?”
“Có, cứ theo phương pháp quay đằng hậu vào trước.”
Cuối cùng cách đó cũng thành, bà vào được xe, và tôi nổ máy lái xe trong tình trạng vai chen vai. “Dân da trắng lái mấy chiếc xe vui thật đấy,” bà hồ hởi nói như thể lần đầu đi máy bay vậy. Tôi gạt cần số, lăn bánh ra đường, cả hai cười nói vui vẻ.
Đến trước tòa soạn, tôi xuống xe giúp bà chui ra và giờ mới biết hóa ra vào lại dễ hơn ra nhiều. Vào trong, tôi giới thiệu bà với Margaret Wright và Davey Bigmouth Bass, rồi dẫn bà đi tham quan một vòng. Bà đã tò mò muốn biết về máy in mới vì đã thấy chất lượng in ấn cải thiện rõ rệt. “Ở đây ai là người dò bài vậy?” bà thầm thì hỏi.
“Là bà chứ ai nữa,” tôi hí hửng trả lời. Theo lời bà, hiện giờ chúng tôi chỉ mắc ba lỗi chính tả mỗi tuần. Và mỗi bữa ăn trưa ngày thứ Năm, tôi đều nhận danh sách lỗi mà bà soạn sẵn cho.
Hai chúng tôi rảo bộ quanh quảng trường rồi vào quán Claude, quán ăn da đen kế bên tiệm giặt ủi. Ông Claude đã mở quán nhiều năm rồi và đồ ăn của ông chắc chắn là ngon nhất thành phố. Ông không cần thực đơn vì hôm đó ông nấu món gì thì thực khách cứ việc ăn món đó. Thứ Tư có cá da trơn, thứ Sáu là đồ nướng, nhưng bốn ngày còn lại thì phải chờ ông Claude giới thiệu mới biết có món gì. Ông ra tiếp chúng tôi, trên người còn đeo tạp dề dính dầu mỡ, chỉ cho chúng tôi một bàn cạnh khung cửa kính mặt tiền. Quán đang phục vụ nửa công suất và có vài ánh mắt hiếu kỳ bắt đầu hướng về phía chúng tôi.
Lạ là bà Callie chưa hề gặp ông Claude. Tôi cứ tưởng mọi người da đen ở Clanton phải gặp nhau ít nhất một lần rồi, nhưng bà Callie mới giải thích là không phải vậy. Ông Claude sống ở vùng nông thôn ngoại ô, và dân Hạ trấn kháo nhau rằng ông không hề đi nhà thờ. Bà Callie cũng chẳng có mong muốn gặp mặt ông làm gì. Hai người từng cùng dự một tang lễ cách đây vài năm, nhưng chưa hề chuyện trò.
Tôi giới thiệu họ với nhau, và khi nghe cái tên, ông Claude buột miệng, “Nhà Ruffin. Toàn là bác sĩ.”
“Tiến sĩ,” bà Callie chỉnh lại.
Ông Claude là người ăn to nói lớn, kiếm tiền bằng món ăn và lại không đi nhà thờ, nên ngay lập tức bà Callie đã thấy không ưa rồi. Ông cũng hiểu ý dù chẳng bận tâm làm gì, và quay đi hét gọi ai đó ở sau bếp. Một cô phục vụ dọn trà đá và bánh mì bắp lên, hai thứ này bà Callie cũng không ưa. Theo lời bà thì trà loãng và gần như không có đường, bánh mì bắp lại thiếu muối và để nguội, một chuyện không thể chấp nhận được. “Đây là nhà hàng, bà Callie,” tôi nói nhỏ, “bà cứ thả lỏng đi mà.”
“Tôi đang cố đây.”
“Không dám đâu. Gặp thứ gì bà cũng cau mày thì làm sao tận hưởng được một bữa ngon chứ?”
“Cái nơ của anh đẹp đấy.”
“Cảm ơn bà.”
Có lẽ trong tất cả, bà Callie là người khoái trá nhất về tủ đồ được nâng cấp của tôi. Bà đã giải thích cho tôi biết là dân Negro thích diện đẹp và rất có ý thức thời trang. Khi nói chuyện, bà vẫn gọi mình là Negro.
Với các phong trào quyền dân sự đang nổi lên và các vấn đề phức tạp mà nó khơi ra, giờ khó mà biết nên gọi người da đen thế nào. Những người da đen lớn tuổi, tầng lớp cao như bà Callie thích được gọi là Negro. Những người ở tầng lớp thấp hơn thì là “dân da màu.”
Dù tôi chưa hề nghe bà Callie dùng từ này, nhưng cũng không phải là chuyện lạ khi những người da đen tầng lớp cao gọi những người da đen tầng lớp thấp nhất là “mọi đen.”
Tôi không tài nào hiểu nổi mấy kiểu tầng lớp và tên gọi này, nên tôi cứ gọi “người da đen” cho lành. Những người cùng màu da với tôi ở phía bên này đường ray thì có nguyên cả từ điển để mô tả người da đen, và trong số đó không mấy từ mang nghĩa yêu quý.
Lúc đó, tôi là người duy nhất không phải Negro ở quán Claude, nhưng chẳng ai thấy phiền vì chuyện này.
“Hai người ăn gì nào?” Ông Claude hét lên từ sau quầy. Cạnh quầy có một tấm bảng đen giới thiệu món ớt Texas, gà chiên và sườn heo áp chảo. Bà Callie biết thịt gà và thịt heo quá nhiều đạm đối với bà, nên hai chúng tôi đều gọi món ớt.
Rồi bà Callie kể cho tôi về khu vườn. Rau quả vụ đông của bà tốt lắm và hai vợ chồng đang chuẩn bị gieo hạt cho vụ hè. Niên lịch Nông dân dự báo hè năm nay sẽ nóng nhẹ, lượng mưa trung bình (dù thật ra năm nào họ chẳng nói thế), nên bà đang háo hức trông chờ thời tiết ấm áp và những bữa trưa tại hiên trước, chỗ chuẩn mực nhất cho nghi thức đó. Tôi hỏi hạn về Alberto, người anh cả, và sau nửa tiếng chuyện trò, bà nhắc đến cậu con út Sam. Cậu ấy đã về Milwaukee, ở với Roberto, vừa làm vừa đi học bổ túc ban đêm. Toàn bộ con cháu của bà đều khỏe cả.
Rồi bà muốn nói về “Hank Hooten tội nghiệp.” Bà nhớ rõ anh ta ở phiên tòa, dù anh ta chưa hề có lời nào với bồi thẩm đoàn. Tôi nói luôn cho bà những tin tức mới nhất tôi nhận được. Hiện giờ anh ta đang ở trong một căn phòng với bốn bức tường đệm mút, chắc cũng không sớm ra khỏi đó đâu.
Thực khách bắt đầu kéo đến đầy quán. Ông Claude bước ra, trên tay là một chồng đĩa, và nói thẳng với chúng tôi, “Ăn xong thì về được rồi.” Bà Callie cố tỏ ra khó chịu vì hành động này, nhưng ai cũng biết Claude có tiếng thấy khách ăn xong là tiễn ngay. Vào những ngày thứ Sáu, khi có vài khách da trắng đến ăn đồ nướng và quán hết bàn, ông sẽ đặt giờ cho khách luôn, nói rõ to, “Cho anh 20 phút.”
Bà cố tỏ ra mình chẳng thích trải nghiệm vừa rồi - đi ăn nhà hàng, khăn trải bàn rẻ tiền, đồ ăn, Claude, giá cả, đông người, đủ thứ. Nhưng đó chỉ là giả vờ thôi. Trong lòng bà vui thầm vì được một quý ông da trắng trẻ tuổi lịch lãm mời đi ăn. Bạn bè của bà, làm gì có ai được như vậy.
Về đến Hạ trấn, khi tôi nhẹ nhàng giúp bà chui ra khỏi xe, bà đưa tay vào túi xách lấy ra một mảnh giấy nhỏ. Tuần này chỉ có hai lỗi, cả hai đều ở mục quảng cáo ngắn do Margaret phụ trách.
Tôi tiễn bà đến cổng. “Vừa rồi cũng không đến nỗi tệ nhỉ?”, tôi nói.
“Tôi đã được vui lắm. Cảm ơn anh. Thứ Năm tuần tới anh ghé nhà tôi chứ?” Tuần nào, bà cũng hỏi câu đó, dù bà biết thừa câu trả lời rồi.