CHƯƠNG 28
Một tuần trước Lễ Tạ ơn năm 1971, Clanton chấn động khi một người con thành phố đã bỏ mạng tại chiến trường. Pete Mooney, thượng sĩ 19 tuổi, đã mất trong một cuộc tập kích.
Tôi không quen nhà Mooney, nhưng Margaret thì có. Chính bà báo tin này cho tôi và còn xin nghỉ phép vài ngày. Bà và nhà Mooney là hàng xóm đã lâu. Con trai bà và Pete Mooney là bạn thân từ nhỏ.
Tôi đã bỏ chút thời gian kiểm lại kho lưu trữ và phát hiện ra vào năm 1966, Marvin Lee Walker, một cậu da đen, là người con đầu tiên của mảnh đất này bỏ mạng khi tham gia chiến tranh tại Việt Nam. Chuyện xảy ra từ trước khi ông Caudle bắt đầu quan tâm đến mảng cáo phó, và bài báo trên tờ Thời báo viết về chuyện đó quá sơ sài, sơ sài đến mức không chấp nhận nổi. Chuyện đó mà lại không được lên trang nhất. Thay vào đó, bị nhét vào trang ba, với ba trăm chữ và không có cái ảnh nào. Thời đó, Clanton đâu biết đến quốc gia châu Á kia.
Nên với họ đây chỉ là chuyện về một cậu thanh niên không thể học cao, có lẽ chẳng được bầu cử và thậm chí còn chẳng dám uống nước ở đài phun nước trước tòa án, bị giết ở một đất nước mà chẳng mấy người ở Clanton xác định được vị trí trên bản đồ. Cái chết của cậu ấy là chuyện chính đáng, vì sự nghiệp quốc gia mà.
Từ nhà mình, Margaret cung cấp thêm những thông tin tôi cần để viết bài. Pete tốt nghiệp trường Trung học Clanton vào năm 1970. Cậu ấy nằm trong đội tuyển bóng bầu dục và bóng chuyền của trường, đã được khen thưởng hai lần. Cậu ấy còn là một học sinh khá, dự định làm việc hai năm để tích lũy tiền rồi sau đó vào đại học. Nhưng thật không may, cậu lại quá hợp chỉ tiêu tuyển quân, và đến tháng 12 năm 1970 thì nhận giấy báo nhập ngũ.
Theo lời Margaret, đây là chuyện tôi không được cho lên mặt báo, nhưng Pete đã lần lữa chuyện trình diện để tham gia thao luyện. Hai bố con nhà Mooney đã cãi nhau nhiều tuần về cuộc chiến này. Cậu con trai muốn đi Canada để khỏi phải dây vào chuyện này. Nhưng ông bố lại sợ con trai mình sẽ thành kẻ trốn nhập ngũ, thanh danh gia đình sẽ bị hủy hoại, đủ thứ. Ông chỉ thẳng mặt đứa con trai này là một thằng hèn. Ông Mooney từng đi lính ở Triều Tiên, và tuyệt đối không chấp nhận phong trào phản chiến. Bà Mooney cố giúp hai bố con hòa giải, nhưng trong lòng bà không nỡ để con mình xông vào cuộc chiến ở một đất nước lạ hoắc hơ. Cuối cùng, Pete cũng chịu thua, lên đường rồi trở về trong thùng gỗ.
Tang lễ diễn ra ở nhà thờ First Baptis, hội thánh mà nhà Mooney tham dự rất tích cực. Pete được rửa tội ở đây vào năm 11 tuổi, và gia đình cũng như bạn bè nguôi ngoai phần nào khi thấy giờ cậu đang ở bên Chúa, dù tuổi đời còn quá trẻ để được gọi về nhà Cha.
Tôi ngồi với vợ chồng Margaret. Đây là lần đầu tiên tôi dự tang lễ của một người lính 19 tuổi. Dồn hết tâm trí vào cỗ quan tài, tôi cố tránh những tiếng nấc, tiếng khóc vang lên rải rác. Huấn luyện viên đội bóng bầu dục trung học của cậu có bài điếu văn khiến cả nhà thờ phải đổ lệ, trong đó có cả tôi.
Tôi chỉ thấy được cái lưng của ông Mooney đang ngồi ở hàng ghế đầu. Có lẽ ở đây, không ai đau khổ bằng ông ấy.
Sau một tiếng trong nhà thờ, chúng tôi đưa linh cữu đến nghĩa trang Clanton, được hành lễ theo nghi thức quân đội đầy đủ. Lúc quân nhạc thổi bài “Taps,” bài tiễn đưa quân nhân về nơi yên nghỉ, mẹ của Pete bỗng thét lên tiếng khóc xé lòng, khiến tôi phải ớn lạnh. Bà cứ bám vào quan tài đang hạ xuống huyệt. Bố của Pete cũng không thể trụ nổi nữa, ông khuỵu gối, phải nhờ vài chấp sự hội thánh đỡ lấy.
Khi rảo bộ một mình qua những con phố về văn phòng, trong đầu tôi cứ vang vang “Thật phí hoài, thật phí hoài.” Và tối đó, một mình trong màn đêm, tôi nguyền rủa bản thân vì quá im lặng, quá hèn nhát. Tôi là tổng biên tập của một tờ báo mà, chết tiệt! Dù tôi có nhận ra giá trị của chức vụ đó hay không, thì tôi vẫn là tổng biên tập duy nhất ở thành phố này. Và nếu tôi tâm tư về một vấn đề gì đó, chắc chắn tôi có đủ sức và đủ quyền để cho nó lên báo.
Trước Pete Mooney, hơn 50.000 chiến sĩ là đồng bào của cậu đã ngã xuống, dù cho con số báo cáo thương vong của quân đội thường không đáng tin cho lắm.
Năm 1969, Tổng thống Nixon và Cố vấn An ninh Quốc gia, Henry Kissinger, đã nhận ra họ không thể nào thắng cuộc chiến Việt Nam, hay đúng hơn là nước Mỹ không nên cố làm gì nữa. Nhưng họ giữ kín chuyện này. Họ vẫn tiếp tục tuyển quân, tiếp tục theo đuổi chiến lược vô luân là vờ như tin tưởng vào một kết quả thắng lợi.
Từ lúc Nixon quyết định làm như thế cho đến khi chiến tranh chấm dứt vào năm 1973, gần 180.000 đồng bào tôi đã mất, trong đó có Pete Mooney.
Trang nhất số báo hôm đó, nửa trên là ảnh Pete mặc quân phục, nửa dưới là bài xã luận của tôi:
!!! blockquote ""
Văng tục ngay trên báo có thể khiến vài người phàn nàn, nhưng tôi mặc kệ. Phải nói thật mạnh mới có thể rọi được chút ánh sáng vào cái đầu u mê của những người cuồng ái quốc ở Hạt Ford. Trước khi những lá thư và cuộc gọi góp ý ồ ạt đổ về tòa soạn, tôi đã kết được một người bạn đáng giá.
Khi tôi trở về sau bữa trưa thường lệ với bà Callie vào thứ Năm, Bubba Crockett đã chờ sẵn trong văn phòng tôi. Anh mặc quần jean, đi giày bốt, áo sơ mi vải dạ, tóc để dài, và sau khi giới thiệu bản thân, anh liền cảm ơn tôi về bài xã luận hôm trước. Anh đang có chuyện cần được nói ra, còn tôi thì đang đầy bụng nên giờ ngồi một chỗ nghe anh kể cả buổi có vẻ cũng hợp lý.
Bubba sinh trưởng ở Clanton, tốt nghiệp trung học ở đây năm 1966. Bố anh có một vườn ươm cách thành phố ba cây số về phía Nam, nghề chính nhà anh là trồng trọt. Anh nhận lệnh nhập ngũ vào năm 1967 và liền hăng hái lao vào cuộc chiến. Đơn vị của anh đến miền Nam Việt Nam đúng vào thời điểm xảy ra cuộc chiến Tết Mậu Thân. Mới hai ngày ra chiến trường anh đã mất ba người bạn thân thiết.
Nỗi kinh hoàng chiến tranh trong anh thật không thể nào diễn tả nổi. Anh đã chứng kiến những người bị thiêu, đã nghe những tiếng la hét cầu cứu, anh đã vấp chân lên những xác người, đã lôi xác đồng đội ra khỏi bãi chiến trường, đã trải qua những trận triền miên không ngủ, không thực phẩm, hết đạn, và những nỗi kinh hoàng trong màn đêm. Tiểu đoàn của anh đã mất cả trăm người chỉ trong năm ngày đầu lâm trận. “Sau một tuần, tôi biết thế nào mình cũng chết” anh nói mà đôi mắt ươn ướt. “Lúc đó, tôi trở thành một người lính giỏi, rất giỏi. Phải như thế mới sống sót được.”
Anh đã bị thương hai lần, dù chỉ bị thương nhẹ, điều trị ở bệnh viện dã chiến là đủ. Nhưng bị thương như thế thì không được cho về nhà. Anh nói về sự chán nản khi phải nhảy vào cuộc chiến mà chính phủ không để cho họ thắng. “Lính của chúng ta giỏi hơn bên họ. Khí tài của chúng ta áp đảo họ hoàn toàn. Chỉ huy của chúng ta cực kỳ xuất sắc, nhưng đám người ở Washington không để họ chiến đấu, chiến đấu thật sự ấy.”
Bubba biết nhà Mooney, và chính anh đã khuyên nhủ Pete đừng lên đường nhập ngũ. Anh đã đứng từ xa quan sát tang lễ và nguyền rủa tất cả mọi người.
“Lũ người ngu ngốc đó vẫn ủng hộ chiến tranh, anh tin nổi không? Hơn 50.000 ngàn người chết ta mới chịu rút quân, và mấy người này vẫn cãi cùn với ta trên đường phố Clanton rằng đây là cuộc chiến vì chính nghĩa.”
“Họ đâu cãi với anh,” tôi nói.
“Đúng. Tôi đã tẩn vài kẻ như thế rồi mà. Anh có chơi bài không?”
Tôi không chơi, nhưng đã nghe nhiều chuyện giật gân về dân chơi bài ở thành phố này, nên nghe hỏi vậy, tôi liền nghĩ có lẽ vụ này thú vị đây. “Có chơi sơ sơ,” tôi vừa nói vừa tính kiếm một quyển sách dạy chơi bài hoặc nhờ Baggy kèm cặp.
“Chúng tôi chơi bài vào mỗi tối thứ Năm, trong một nhà kho ở vườn ươm Trong hội, có mấy người từng đi lính. Có lẽ anh nên đến chơi thử.”
“Tối nay á?”
“Phải, tầm 8:00. Chơi nhẹ nhàng thôi, còn uống bia, ăn lẩu, kể chuyện thời chiến. Các bạn tôi muốn gặp anh lắm.” “Tôi sẽ đến,” tôi vừa đáp vừa tìm cách gặp Baggy ngay.
Chiều đó, bốn lá thư được chuồi dưới cửa tòa soạn, cả bốn đều chỉ trích tôi và lời tôi chỉ trích chiến tranh. Ông E. L. Green, một cựu binh đã trải hai cuộc thế chiến, người đăng ký lâu năm của tờ Thời báo và đang cân nhắc lại chuyện đặt báo này.
Ông nói: Nếu ta không ngăn chặn chủ nghĩa đó, nó sẽ lan đến mọi ngóc ngách của thế giới. Rồi một ngày, nó sẽ đến bên cửa nhà ta, và chúng ta sẽ bị con cháu mình chất vấn tại sao chúng ta không có can đảm để ngăn chặn trước khi nó lan tràn.
Anh của ông Herbert Gillenwater đã hy sinh trong chiến tranh Triều Tiên. Ông nhắn nhủ tôi:
Cái chết của anh ấy thật thương tâm và tôi vẫn đau khổ vì chuyện đó mỗi ngày. Nhưng anh ấy là một người lính, một anh hùng, một người Mỹ đầy tự hào, và cái chết của anh ấy đã ngăn chặn chúng. Khi chúng ta quá sợ không dám chiến đấu, thì chúng ta sẽ bị khuất phục.
Ông Felix Toliver ở Lùm Rậm thì cho rằng có lẽ tôi đã ở miền Bắc quá lâu, nơi dân chúng toàn là đám sợ cầm súng. Ông khẳng định bao lâu nay, đa số quân nhân là những thanh niên dũng cảm miền Nam, và nếu tôi không tin thì cứ tìm hiểu một chút sẽ thấy ngay. Tỷ lệ thương vong của lính miền Nam trong hai cuộc chiến tranh ở châu Á cao hơn hẳn miền Bắc. Và ông kết luận đầy hùng hồn:
Tự do của chúng ta được mua bằng cái giá là sinh mạng của vô số người lính can trường. Nhưng nếu chúng ta quá sợ không dám chiến đấu thì sẽ thế nào? Hitler và quân Nhật hẳn vẫn còn nắm quyền. Phần nhiều thế giới văn minh hẳn đã thành tàn tích. Chúng ta sẽ bị cô lập và cuối cùng bị diệt vong.
Tôi đã định đọc hết mọi lá thư gửi đến nhưng vốn mong sẽ có một hai người ủng hộ bài xã luận của tôi. Tôi chẳng phiền khi bị chỉ trích. Họ càng chỉ trích tôi càng thấy mình đã đúng. Qua thời gian, tôi ngày càng lì lợm chẳng ngán chuyện gì, một phẩm chất vốn rất cần thiết để làm tổng biên tập.
Sau khi được Baggy huấn luyện cấp tốc, tôi chỉ thua 100 đô trên sới bạc với Bubba và các bạn. Họ còn mời tôi lần sau ghé chơi tiếp.
Xong phần bài bạc, đám đôi mươi chúng tôi ngồi quây quần bên bàn. Có ba người đã tham chiến ở Việt Nam, là Bubba, Darrell Radke, con của chủ một công ty sản xuất khí propane, và Cedric Young vốn bị thương nặng ở chân. Người còn lại là anh của Bubba, David, không được nhập ngũ vì mắt kém, và tôi nghĩ lý do có lẽ là vì hút quá nhiều cần sa.
Chúng tôi bàn tán sôi nổi về ma túy. Trước khi đi lính, cả ba cựu quân nhân này đều chưa hề thấy hay nghe nói đến cần sa ma túy gì cả. Chuyện ma túy xuất hiện ở đường phố Clanton vào thập niên 1960 chỉ là chuyện cười với họ. Theo họ kể, ở nơi đóng lính, người ta dùng ma túy đầy đường. Mỗi khi chán hay nhớ nhà là lôi cần sa ra hút, và còn hút để bình tâm giữa chiến trận. Bệnh viện dã chiến đầy thương binh với những loại thuốc giảm đau mạnh nhất, và Cedric đã nghiện morphin trong chưa đầy hai tuần bị thương.
Hùa theo không khí, tôi cũng kể vài câu chuyện chơi thuốc hồi đại học, nhưng so với họ, tôi chỉ là kẻ nghiệp dư. Và tôi không nghĩ những chuyện họ kể có gì phóng đại. Chẳng trách chúng ta thua trận, ai cũng phê mà.
Họ bày tỏ sự ngưỡng mộ với bài xã luận của tôi và sự cay đắng vì bị đẩy đến chiến trường Việt Nam. Cả ba đều mang trên mình những vết sẹo chiến tranh, Cedric thì thể hiện ra mặt, còn Bubba và Darrel có vẻ âm ỉ hơn, một cơn thịnh nộ bị kìm nén và rất muốn được bung ra, nhưng biết bung ra với ai?
Họ còn kể cho nhau những câu chuyện chiến trường kinh khủng. Tôi đã nghe rằng các cựu binh không muốn nói về trải nghiệm chiến trường, nhưng ba người này thì không. Và sao lại phải thế, khi nó có vẻ là liều thuốc giảm đau cho họ.
Hầu như tối thứ Năm nào, họ cũng chơi bài, và tôi là khách mời luôn được chào đón. Đến nửa đêm, tôi xin phép ra về, còn họ vẫn ngồi lại, uống rượu, hút thuốc và nói về Việt Nam. Với tôi, chừng đó chuyện chiến tranh trong một ngày là quá đủ rồi.