← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 29

Tuần tiếp theo, tôi dành nguyên một trang báo cho cuộc khẩu chiến mà tôi đã mở ra. Trang báo đầy thư gửi tổng biên tập, tổng cộng 17 lá, chỉ có hai lá phần nào ủng hộ cảm giác phản chiến của tôi. Tôi bị nói là theo chủ nghĩa tự do, phản quốc, chính khách nhận vơ, và tệ nhất là tên hèn, vì tôi đã không khoác lên mình bộ áo lính. Mọi lá thư đều được ký đầy đủ họ tên một cách tự hào, không lá nào viết ẩn danh, họ là những người cuồng ái quốc đầy nhiệt huyết không ưa gì tôi và muốn cả hạt đều biết thế.

Tôi mặc kệ hết. Tôi đã khuấy động chuyện này và ít nhất giờ thành phố bắt đầu tranh luận về chiến tranh. Hầu hết tranh luận đều một chiều, nhưng tôi đã khơi lên cảm giác mạnh mẽ nơi nhiều người.

Phản ứng của dân tình trước mười bảy bức thư thật đáng kinh ngạc. Một nhóm học sinh trung học đã giúp giải cứu tôi khi đến tận tòa soạn để đưa tâm thư của mình. Chúng đầy nhiệt huyết phản chiến, chẳng hề muốn ra trận và hơn nữa, thấy thật kỳ cục khi hầu hết những lá thư ủng hộ cuộc chiến đều từ những người quá già để cầm súng ra trận. Tôi quá thích tuyên bố của chúng: “Máu của chúng tôi, đâu phải của ông bà.”

Nhiều học sinh đã lôi ra những lá thư tôi cho lên mặt báo và thẳng tay mạt sát. Becky thấy bị xúc phạm trước câu ông Robert Earl Huff nói, “...đất nước chúng ta được xây bằng máu của những người lính. Chiến tranh sẽ luôn ở bên chúng ta.”

Cô bé phản pháo rằng: “Chiến tranh sẽ luôn ở bên chúng ta bao lâu những kẻ ngu muội và tham tàn cố áp đặt ý mình lên người khác.”

Kirk Wallace thì phản đối lời chê bai toàn tập của bà Mattie Louise Ferguson đối với tôi. Trong đoạn cuối thư, cậu bé viết, “Đáng buồn thay, bà Ferguson có gặp người theo chủ nghĩa tự do, phản quốc, chính khách nhận vơ, cũng chẳng nhận ra được. Cuộc sống thui thủi ở Gò Chồn bảo vệ bà khỏi phải gặp mấy người như vậy mà.”

Tuần tiếp theo, tôi dành nguyên một trang nữa để đăng 31 lá thư của các học sinh. Còn có ba lá thư hộ chiến khác nữa, tôi cũng cho in nốt. Kết quả là lại thêm một đợt sóng thư tuôn đến, tất cả đều được tôi cho lên báo.

Bằng những trang giấy của tờ Thời báo , chúng tôi phản đối cuộc chiến cho đến tận Giáng Sinh, khi mọi người đột nhiên kêu gọi đình chiến để tận hưởng kỳ nghỉ lễ cho trọn vẹn.

Ông Max Hocutt qua đời đúng vào ngày đầu năm mới 1972. Bà Gilma gõ cửa sổ căn hộ tôi từ sáng sớm và lôi tôi ra khỏi giường. Đêm đó tôi mới ngủ được có năm tiếng sau cả tuần thiếu ngủ trầm trọng.

Tôi theo bà vào biệt thự cũ, lần đầu tiên tôi đặt chân vào đây sau nhiều tháng, và quá sốc khi thấy căn nhà này bị hư hoại quá nặng nề. Nhưng hiện giờ, có chuyện khẩn cấp hơn cần làm. Chúng tôi đến chân cầu thang chính, nơi bà Wilma đang chờ sẵn. Bà chỉ ngón tay nhăn nheo cong queo lên lầu, “Anh ấy trên đó. Phòng đầu tiên bên phải. Sáng nay, chúng tôi đã lên đó một lần rồi.”

Giới hạn của họ là lên lầu mỗi ngày một lần thôi. Hai bà sinh đôi này cũng đã đến nửa sau thất tuần, chỉ kém ông Max mấy tuổi.

Ông nằm trên một chiếc giường lớn, đắp một tấm ga trắng bẩn lên tận cổ. Da ông đã trắng bệch không khác gì màu tấm ga rồi. Tôi đứng cạnh ông một lát để kiểm tra hơi thở thật chắc chắn. Trước giờ, tôi chưa từng bị gọi đi xác nhận tình trạng tử vong bao giờ, mà chắc cũng không mấy người phải làm việc này. Sau một hồi đứng đó, tôi bảo đảm đây không phải là hai bà ấy tưởng nhầm, ông Max trông chẳng khác gì người đã chết cả tháng rồi.

Tôi xuống lầu, nơi bà Wilma và Gilma đang đợi. Họ nhìn tôi như thể trông đợi tôi sẽ có chẩn đoán mới về tình trạng anh mình.

“Tôi e rằng ông ấy đã qua đời.”

“Chúng tôi biết thế mà,” bà Gilma trả lời lặng lẽ.

“Giờ chúng tôi phải làm sao?” bà Wilma hỏi.

Dù đây là lần đầu tôi phải làm việc này, nhưng bước tiếp theo có vẻ khá rõ ràng rồi. “Có lẽ ta nên gọi ông Magargel ở nhà tang lễ.”

“Đã bảo rồi mà,” bà Wilma lên giọng với Gilma.

Hai người họ nói xong vẫn đứng yên tại chỗ, nên tôi bèn lấy điện thoại gọi ông Magargel. “Hôm nay là ngày đầu năm mới đấy,” ông càu nhàu. Rõ ràng cuộc gọi của tôi đã dựng ông dậy khỏi giường.

“Ông ấy chết rồi,” tôi nói.

“Cậu chắc chứ?”

“Chắc chắn. Tôi đã lên xem rồi.”

“Ông ấy nằm đâu?”

“Trên giường. Ông ấy đã ra đi trong bình an.”

“Người già hay có kiểu ngủ như chết lắm mà.”

Đến đoạn này, tôi phải tránh xa hai bà sinh đôi để họ khỏi phải nghe tôi tranh luận về chuyện anh trai họ đã chết thật hay chưa. “Ông ấy không ngủ, ông Magargel à. Ông ấy chết rồi.”

“Một tiếng nữa, tôi sẽ đến nơi.”

“Có việc gì chúng tôi cần làm không?” tôi hỏi luôn.

“Việc gì chứ?”

“Tôi không rõ. Báo cảnh sát hay gì đó?”

“Ông ấy bị giết à?”

“Không.”

“Thế sao cậu lại muốn báo cảnh sát?”

“Xin lỗi, tôi không hỏi nữa.”

Hai bà mời tôi đến căn bếp uống ly cà phê cho tỉnh người. Trên quầy bếp là một hộp Cream of Wheat, bên cạnh là một bát ngũ cốc lớn đã trộn sẵn. Rõ ràng hai bà ấy đang chuẩn bị bữa sáng cho anh mình, và khi thấy ông không xuống họ mới lên tìm.

Cà phê họ pha đắng không uống nổi, tôi phải cho thêm ít đường mới nuốt trôi. Họ ngồi bên kia bàn bếp, chăm chú nhìn từng cử động của tôi. Đôi mắt hai bà đỏ ngầu, nhưng không phải đang khóc.

“Chúng tôi không sống ở đây nổi,” bà Wilma mở lời, nói ra chuyện họ đã bàn thảo nhiều năm trời.

“Chúng tôi muốn cậu mua lại nơi này,” bà Gilma thêm vào. Rồi hai bà ấy tiếp tục, mỗi người nói nửa câu, nhưng luôn hợp ý nhau.

“Chúng tôi sẽ bán nó cho cậu.”

“Với giá một trăm ngàn...”

“Chúng tôi sẽ lấy tiền...”

"Rồi di Florida...."

“Florida?” tôi thắc mắc.

“Ở đó có bà con.”

“Bà ấy sống ở làng hưu dưỡng.”

“Chỗ đó đẹp lắm.”

“Họ lại chăm sóc tốt...”

“Melberta lại ở gần đó.”

Melberta sao? Vậy mà lâu nay tôi cứ tưởng bà ấy còn ở đây, chỉ là đang ẩn mình đâu đó. Họ giải thích rằng mấy tháng trước đã cho bà em của mình đến một nhà chăm sóc đâu đó ở bắc Tampa. Giờ họ muốn đến đó sống những ngày tháng còn lại. Căn biệt thự thân thương này quá rộng với sức họ. Với hông đau, gối mỏi, mắt kém, một ngày một lần leo lên “24 bậc thang” theo lời bà Gilma, là một cực hình với họ, chưa kể nguy cơ bị ngã chết. Họ cũng không đủ tiền để tu sửa nó cho hợp với người già, không muốn phí tiền trả cho người dọn dẹp, cắt cỏ và giờ, với sự ra đi của ông anh, lại phải tìm thêm cả tài xế.

“Chúng tôi muốn cậu mua lại chiếc Mercedes luôn...”

“Chúng tôi đâu lái xe...”

“Max luôn chở chúng tôi đi..”

Lâu lâu một lần, chỉ để có cái mà cười, tôi lại ngó nghiêng đồng hồ cây số của chiếc Mercedes. Mỗi năm, nó chỉ chạy tầm ngàn cây số. Không như ngôi nhà, chiếc xe này gần như mới cóng.

Ngôi nhà có sáu phòng ngủ, bốn tầng và một tầng hầm, bốn hay năm phòng vệ sinh, phòng ăn và phòng khách, thư viện, nhà bếp, những mái hiên dài và rộng giờ đã sập hết, và một phòng gác mái mà tôi chắc mẩm là đầy kho tàng gia tộc được cất giấu từ nhiều thế kỷ trước. Phải mất vài tháng mới dọn sạch nơi này trước khi tiến hành cải tạo. 100.000 đô là giá hời để mua một căn biệt thự lớn thế này, nhưng bán báo khắp cả bang sợ cũng không đủ tiền để tu bổ nó.

Còn đám động vật nữa chứ. Mèo, chim, thỏ, sóc, cá vàng nhan nhản khắp nơi, chỗ này chẳng khác gì cái sở thú.

Đúng là tôi đã thử tìm nhà, nhưng nói thật, khoản tiền thuê nhà 50 đô mỗi tháng quá hời đến nỗi tôi chẳng nỡ dọn đi đâu khác. Hiện giờ tôi chỉ mới 24 tuổi, độc thân, lại đang hưởng thụ cảm giác tài khoản ngân hàng tăng dần đều. Có lý do gì để tôi phải mạo hiểm tài chính để mua cái hố đen hút tiền này chứ?

Thế mà chỉ hai ngày sau tang lễ, tôi đã ký giấy mua nhà.

Vào một ngày thứ Năm lạnh lẽo ẩm ướt tháng 2, tôi tấp chiếc Mercedes trước cổng nhà Ruffin ở Hạ trấn. Ông Esau đang ngồi trước hiên liền hỏi ngay, “Anh vừa đổi xe à?”

“Không, tôi vẫn giữ chiếc nho nhỏ đó. Đây là xe của ông Hocutt."

“Tôi tưởng nó màu đen chứ” Ở Hạt Ford này vốn chỉ có vài chiếc Mercedes mà.

“Thật ra, nó cần được sơn lại.” Giờ chiếc Mercedes đang khoác lớp áo màu hạt dẻ sẫm. Tôi phải đem nó đến tiệm để xóa hình cặp dao mà ông Hocutt đã sơn, rồi bỗng nảy ra ý đổi màu cho nó.

Chẳng mấy chốc, người ta đã đồn nhau là tôi lừa nhà Hocutt để mua rẻ chiếc Mercedes. Thật sự, tôi đã trả đúng giá xe cũ theo quy định là 9.500 đô. Vụ chuyển nhượng đã được phê chuẩn bởi thẩm phán Reuben V. Atlee, người cầm cân công lý lâu năm của Hạt Ford. Ông còn phê chuẩn việc tôi mua lại ngôi nhà với giá 100.000 đô, một con số có vẻ quá thấp cho đến khi hai người định giá do tòa chỉ định ước lượng giá trị của nó là 75 và 85 ngàn đô. Một người còn nói rõ ràng việc tu sửa biệt thự Hocutt sẽ “cần đến chi phí khổng lồ chưa từng thấy.”

Thật ra, Harry Rex, luật sư của tôi, đã cố cho tôi thấy rõ câu này trong biên bản định giá để mong tôi đổi ý.

Hôm nay, ông Esau có vẻ kiệm lời, và khi tôi vào trong nhà, bầu không khí cũng không khác gì mấy. Như lâu nay vẫn vậy, vào giờ này trong tuần, khắp nhà sẽ đẫm mùi thịt nướng của con gì đó trong lò, hôm nay là thịt thỏ.

Nhưng trái ngược với mùi sảng khoái đó là vẻ mặt u sầu của bà Callie. Ông Esau lấy ra một phong thư, “Đây là giấy gọi nhập ngũ. Của Sam.” Ông thả trên bàn để tôi tự xem, rồi đứng lên rời căn bếp.

Trong bữa ăn, tôi thấy rõ hai vợ chồng họ đều có vẻ lặng lẽ, băn khoăn và hoang mang. Ông Esau có lúc nghĩ rằng việc đúng đắn là để Sam thực hiện những gì mà tổ quốc cần. Nhưng bà Callie thì thấy mình đã mất Sam một lần rồi, và không thể nào chịu nổi ý nghĩ phải mất cậu lần nữa.

Tối đó, tôi gọi cho Sam báo tin dữ. Cậu ấy đang ở Toledo thăm Max mấy ngày. Chúng tôi nói chuyện điện thoại hơn một tiếng, và tôi kiên quyết thuyết phục cậu ấy ý thức rằng cậu không có việc gì phải nhập ngũ cả. May thay, Max cũng cùng cảm thức đó.

Trong tuần tiếp theo, tôi tiếp tục gọi điện cho Sam, Bobby, Al, Leon, Max, và Mario, ai cũng nhất trí về quyết định dành cho Sam. Cả cậu ấy lẫn các anh đều không tin rằng cuộc chiến này là vì chính nghĩa, nhưng Mario và Al thì rất lo ngại chuyện phạm luật. Tôi là người phản chiến kịch liệt nhất, Bobby và Leon thì khá trung dung. Sam thì nghe ai nói cũng thấy đúng, đổi ý kiến liên tục. Đây là một quyết định khó khăn nhất đời, nhưng tôi để ý thấy, Sam ngày càng muốn nói chuyện với tôi lâu hơn. Việc cậu ấy đang lẩn trốn suốt hai năm qua sẽ rất có ích cho vụ này.

Sau hai tuần hỏi han ý kiến, Sam lặn tăm một mạch. Một đêm nọ, cậu gọi cho tôi từ Ontario và nhờ tôi báo bố mẹ là cậu ổn cả. Sáng sớm hôm sau, tôi lái xe đến Hạ trấn báo tin cho ông Esau và bà Callie rằng con trai họ đã có quyết định sáng suốt nhất đời.

Với họ, Canada có vẻ xa vạn dặm, nhưng tôi bảo họ, Việt Nam còn xa hơn thế nhiều.