PHẦN BA CHƯƠNG 31
Năm năm hai tháng sau khi Lester Klump cha và Lester Klump con đặt chân vào biệt thự Hocutt, đại dự án cải tạo này mới được hoàn thành. Gian khổ đã qua và kết quả thật mỹ mãn.
Khi chấp nhận tiến độ ì ạch của họ, tôi đã xác định phải dầm dề với cái nhà này và chịu khó kiếm thêm mối quảng cáo để trang trải. Trong năm xây dựng cuối cùng, tôi đã hai lần ngốc nghếch cố thử dọn vào nhà sống giữa đống vôi vữa. Tôi chẳng phiền lắm với bụi, mùi sơn, hành lang ngổn ngang, điện đài chập chờn, thiếu nước nóng, lò sưởi và điều hòa, nhưng tôi không thể chịu nổi tiếng búa cưa từ sáng sớm. Họ không làm việc từ sớm tinh mơ, một chuyện sau này tôi biết là hơi lạ với dân xây dựng, nhưng 8:30 sáng vẫn là quá sớm với tôi. Tôi thích ngủ đến tận 10:00 cơ. Chuyện đó không thể nào thay đổi được, nên sau mỗi lần cố gắng bất thành, tôi đều phải lủi thủi về lại căn hộ cũ, nơi yên ắng hơn đôi chút.
Suốt năm năm trời, chỉ có duy nhất một lần tôi chậm chi trả cho ông Klump. Tôi không chấp nhận vay tiền để cải tạo nhà, dù Stan Atcavage luôn sẵn sàng. Sau giờ làm mỗi ngày thứ Sáu, tôi ngồi lại với Lester con, thường là ở một cái bàn gỗ ép đặt ở hành lang, uống một lon bia, tính toán chi phí nhân công và vật liệu trong tuần, thêm 10%, rồi viết chi phiếu cho anh. Suốt hai năm đầu, mỗi lần như vậy tôi đều ghi chép lại đầy đủ để theo dõi tổng chi phí cải tạo nhà. Nhưng qua năm thứ ba, tôi chẳng buồn làm thế nữa. Tôi chẳng muốn biết ngôi nhà này đã đốt bao nhiêu tiền của tôi.
Tôi đến khánh kiệt vì nó, nhưng mặc kệ. Và bây giờ, cái hố đen hút tiền đã ngậm miệng, tôi đã đi dây trên bờ vực vỡ nợ đủ lâu, đã thành công vượt qua, và giờ có thể bắt đầu tiếp tục công cuộc tích trữ tiền bạc, đồng thời có được một thứ kỳ vĩ thể hiện được thời gian, công sức và số tiền khổng lồ tôi đã đầu tư.
Ngôi nhà này được tiến sĩ Miles Hocutt xây dựng vào khoảng năm 1900. Nó mang đậm phong cách Victoria với hai mái đầu hồi cao ở mặt tiền, một trụ tháp chạy dọc bốn tầng nhà, và mái hiên dài chạy dọc hai bên hông nhà. Qua năm tháng, nhà Hocutt đã sơn màu lam rồi vàng cho ngôi nhà, và ông Klump còn tìm ra một khu vực được sơn màu đỏ tươi ẩn dưới ba lớp sơn khác. Tôi chọn phong cách an toàn, với tông màu trắng, đi kèm màu be và nâu sáng, mái thì sơn màu đồng. Nhìn bên ngoài, nó chỉ là một ngôi nhà phong cách Victoria rất bình thường, nhưng rồi sẽ được nâng cấp đáng kể trong những năm sau.
Vào bên trong nhà, lớp áo gỗ tâm thông mới bóng đã phục hồi vẻ đẹp thời ban đầu của sàn nhà cả ba tầng. Những bức tường ngăn phòng và hành lang được phá bỏ tạo không gian thoáng đãng. Bố con nhà Klump, dưới sự thúc ép của tôi, cũng đã chịu phá bỏ hoàn toàn căn bếp và xây lại bếp mới ở tầng hầm thượng. Lò sưởi trong phòng khách vốn đã sập hẳn dưới áp lực của dàn máy dập, tôi còn xóa sổ luôn thư viện và phá thêm tường để khi bước vào phòng giải lao là ta có thể nhìn xuyên qua thư viện cũ thấy được căn bếp từ xa. Tôi cho lắp thêm cửa sổ khắp nơi, vì thiết kế ban đầu của ngôi nhà không khác gì bản vẽ xây hang động.
Ông Klump bảo là cả đời chưa hề uống champagne, nhưng vui vẻ nhấp một ngụm trong buổi lễ mừng công nho nhỏ nơi chái hiên. Tôi đưa ông tờ chi phiếu cuối cùng, mong là thế, bắt tay nhau, nhờ Wiley Meek chụp một tấm, rồi khui chai ăn mừng.
Nhiều phòng trong nhà vẫn trống không, phải mất thêm vài năm trời mới trang trí hết chỗ này, ngoài ra công việc này đòi hỏi thợ thầy với hiểu biết và thị hiếu cao hơn những người tôi có thể tìm được nơi đây. Dù nguyên nửa nhà trong tình trạng tường không phòng trống, nhưng trông vẫn nguy nga vô cùng. Phải tổ chức tiệc ăn mừng mới được!
Tôi đã mượn 2000 đô của Stan, đặt rượu vang và champagne từ Memphis về và tìm được một người nấu tiệc có tiếng ở Tupelo (người nấu tiệc duy nhất ở Clanton lại chỉ chuyên về sườn nướng và cá da trơn, trong khi tôi lại muốn tiệc này phải có chút đẳng cấp mới được).
Danh sách khách mời chính thức lên đến 300 người, bao gồm mọi người tôi quen biết trong thành phố, thậm chí cả vài người không quen. Còn danh sách không chính thức là bất kỳ ai được tôi hớn hở hẹn hò, “Hoàn công xong là sẽ có tiệc tưng bừng.” Tôi còn mời bà ngoại BeeBee và vài người bạn của bà từ Memphis đến. Tôi có mời bố, nhưng có lẽ ông quá bù đầu với mấy chuyện lạm phát và thị trường chứng khoán. Tôi mời cả bà Callie và ông Esau, mục sư Thurston Small, Claude, ba thư ký ở tòa án, hai giáo viên, một trợ lý huấn luyện viên bóng rổ, một giao dịch viên ngân hàng, và anh luật sư mới mở văn phòng ở Clanton, tổng cộng 12 người da đen, và hẳn nếu quen biết nhiều hơn thế tôi đã mời thêm rồi. Tôi quyết tâm biến buổi này thành tiệc bất phân chủng tộc đầu tiên ở Clanton.
Harry Rex đem đến rượu lậu và một đĩa lớn dồi trường khiến bà con tưng bừng hết mức. Bubba Crockett và hội Hang Cáo đến trong tình trạng phê thuốc và sẵn sàng tiệc tùng tới bến. Ông Mitlo là người duy nhất mặc tuxedo đến dự. Piston cũng xuất hiện, rồi lẻn ra về qua cửa sau với một túi đầy đồ ăn nhẹ đắt tiền. Woody Gates và ban Country Boys chơi nhạc hàng giờ trên sân khấu là chái hiên bên. Nhà Klump cũng dắt toàn bộ nhân công đến dự, đây là khoảnh khắc tự hào của họ và tôi bảo đảm họ được hưởng mọi công trạng xứng đáng. Lucien Wilbanks đến hơi muộn và gần như ngay lập tức khơi ra cuộc cãi vã om sòm về chính trị với tham nghị viên Theo Morton. Bà nghị Rex Ella thì bảo tôi rằng suốt 20 năm qua, đây là buổi tiệc lớn nhất, tưng bừng nhất Clanton này. Cảnh sát trưởng mới, Tryce McNatt cũng đến dự cùng vài cảnh sát viên không mặc đồng phục. (T. R. Meredith đã qua đời vì ung thư ruột một năm trước rồi.) Một người tôi yêu mến, thẩm phán Reuben V. Atlee, đóng đô ở phòng bí mật, say sưa kể nhiều câu chuyện rất hấp dẫn về tiến sĩ Miles Hocutt. Mục sư Millard Stark của Hội thánh First Baptist chỉ nán lại được mười phút trước khi nhận ra tiệc này có rượu. Mục sư Cargrove của Hội thánh Trưởng Lão thì có uống champagne và có vẻ khá rành về nó. Baggy uống đến mức đến tận chiều hôm sau tôi mới tìm ra ông ngủ li bì ở một phòng tầng hai. Cặp sinh đôi Stuke, chủ cửa hàng ngũ kim, đến dự tiệc trong bộ đồ yếm mới tinh giống nhau. Họ đã 70 tuổi, sống với nhau, chẳng lấy vợ, và hầu như ngày nào cũng mặc áo quần đôi. Trong thư mời, tôi đã nói rõ “Trang phục tự chọn” cơ mà.
Tôi đã cho dựng hai cái lều trắng lớn ở bãi cỏ sân trước, mà vẫn không đủ chỗ cho mọi người. Tiệc bắt đầu từ một giờ chiều thứ Bảy, đến tận nửa đêm, khi đồ ăn đồ uống hết sạch mới chịu tàn. Đến 10:00 tối, Woody Gates và ban nhạc đã mệt rã rời, rượu cạn sạch, chỉ còn ít bia không lạnh, đồ ăn cũng chỉ còn vài miếng tortilla. Mọi người ai cũng đã đi mấy vòng quanh nhà để nhìn ngắm và thưởng thức rồi.
Cuối giờ sáng hôm sau, tôi đổ trứng cho bà ngoại và các bạn của bà. Chúng tôi ngồi ở hiện trước, uống cà phê và ngắm đống tàn tích khổng lồ của đêm tiệc. Tôi phải mất cả tuần mới dọn dẹp sạch hết chỗ đó.
Qua nhiều năm tháng ở Clanton, tôi đã được nghe nhiều câu chuyện kinh dị về nhà tù bang ở Parchman. Nó nằm ở vùng nông thôn trải dài ở Châu thổ, khu vực nông nghiệp trù phú nhất của bang này, cách Clanton hai tiếng đi xe về phía Bắc. Điều kiện sống trong tù rất thảm, các nhà trại chen chúc tù nhân, ngột ngạt vào mùa hè và lạnh cóng vào mùa đông, đồ ăn sơ sài, y tế yếu kém, bạo lực tình dục, lao động cưỡng bức, quản giáo ác ôn, và danh sách thảm hại này dường như nói mãi không hết.
Khi nghĩ về Danny Padgitt, một suy nghĩ khá thường xuyên, tôi luôn thấy nhẹ nhõm vì tin rằng ít ra Parchman sẽ cho Padgitt cái hắn đáng phải chịu. Hắn không bị cột vào ghế trong phòng ngạt đã là may mắn lắm rồi.
Nhưng hóa ra tôi đã nhầm.
Vào cuối thập niên 1960, trong nỗ lực giảm tải cho nhà tù Parchman, bang đã xây dựng hai nhà tù vệ tinh cho nó. Kế hoạch là đưa một ngàn tù nhân không bạo lực đến chỗ giam giữ nhân văn hơn. Họ sẽ được đào tạo nghề, thậm chí còn được ra làm việc bên ngoài nhà tù. Một trong hai nhà tù vệ tinh đó nằm gần thị trấn Broomfield, cách Clanton ba tiếng lái xe về phía Nam.
Thẩm phán Loopus đã qua đời vào năm 1972. Trong phiên tòa xử Danny Padgitt, nhân viên tốc ký cho ông là một cô gái trẻ chất phác tên Darla Clabo. Cô ấy làm việc cho thẩm phán Loopus vài năm, và khi ông qua đời, cô cũng lên đường đi xa. Khi cô bước vào văn phòng tôi vào một chiều hè năm 1977, tôi đã có cảm giác quen quen.
Darla giới thiệu qua là tôi nhớ ra mình đã gặp cô ấy ở đâu. Suốt năm ngày liền trong phiên tòa xử Padgitt, cô đã ngồi ngay dưới ghế thẩm phán, cạnh bàn để vật chứng, ghi lại từng lời một của tất cả mọi người. Hiện giờ cô sống ở Alabama, và đã lái xe năm tiếng để nói cho tôi một chuyện, nhưng trước hết, cô bắt tôi phải thề giữ bí mật.
Quê cô ở Broomfield. Hai tuần trước, cô về thăm mẹ thì thấy một gương mặt quen đang đi trên vỉa hè vào tầm giờ ăn trưa. Chính là Danny Padgitt đang đi với một gã khác. Cô giật mình thảng thốt, đến nỗi trượt chân khỏi rìa lề đường, suýt thì ngã lăn ra đường.
Hai người họ bước vào một quán cạnh đó, ngồi ăn trưa thong thả. Darla quan sát họ qua cửa sổ nhưng không vào. Có khả năng Danny có thể nhận ra cô, dù cô không rõ chuyện đó thì có gì để cô sợ đến thế.
Người đi cùng hắn mặc bộ đồng phục vốn khá quen mắt ở Broomfield, quần xanh thẫm, áo sơ mi trắng ngắn tay với dòng chữ “Cơ sở Cải huấn Broomfield” rất nhỏ trên túi áo. Gã đi giày cao bồi và không đeo súng. Cô giải thích cho tôi biết là các quản giáo quản lý tù nhân làm việc ngoài nhà tù được chọn có đem theo vũ khí hay không. Thật khó để hình dung có người đàn ông da trắng nào ở Mississippi lại tình nguyện từ chối đem súng nếu được phép, nhưng cô cho rằng có lẽ Danny không muốn vệ sĩ riêng của mình mang theo súng.
Danny mặc quần vải thô trắng, áo sơ mi trắng, có lẽ do trại phát. Hai người vui vẻ ăn trưa khá lâu và chuyện trò như hai người bạn tốt. Ngồi trong xe của mình, Darla quan sát họ ra khỏi quán. Cô bám theo từ khá xa khi họ thong thả rảo bộ qua vài khối nhà rồi vào tòa nhà văn phòng vùng của Sở Xa lộ Mississippi. Sau đó, viên quản giáo ra xe của nhà tù và lái đi.
Sáng hôm sau, mẹ của Darla vào Sở Xa lộ với cớ là đệ yêu cầu sửa đường. Bà bị nhân viên thông báo thẳng thừng rằng họ không có quy trình này, và vừa tiếp tục phàn nàn về chuyện đường xá bà vừa đưa mắt tìm một thanh niên trẻ mà Darla đã mô tả cẩn thận. Hắn đang cầm một bảng kẹp giấy, trông không khác gì một nhân viên giá áo túi cơm đi làm cho có lệ.
Bạn của mẹ Darla có con trai làm bàn giấy ở trại Broomfield và anh đã xác nhận rằng Danny Padgitt được chuyển đến đó từ hè 1974.
Kể xong, cô hỏi thẳng tôi, “Anh sẽ vạch trần chuyện của hắn chứ?”
Đầu óc tôi vẫn còn quay cuồng, nhưng tôi có thể hình dung được bài báo sẽ thế nào. “Tôi sẽ điều tra chuyện này. Rồi xem xét theo những gì mình tìm được.”
“Xin anh đấy. Như thế này thật quá sức vô lý.”
“Thật không thể tin nổi.”
“Thằng khốn đó đáng ra phải ở dãy buồng tử tù.”
“Đúng.”
“Tôi đã trải qua bốn phiên tòa xử án giết người với thẩm phán Loopus, nhưng vụ này hằn trong ký ức tôi nhất”
“Tôi cũng vậy.”
Cô ấy lại bắt tôi thề lần nữa, rồi để lại địa chỉ của mình vì muốn nhận số báo sẽ in chuyện này.
Sáng hôm sau, tôi bật dậy từ lúc 6:00 sáng, rồi cùng Wiley lái xe đến Broomfield. Vì cả chiếc Spitfire lẫn Mercedes đều dễ thu hút sự chú ý ở bất kỳ thành phố nhỏ nào tại Mississippi, nên chúng tôi đi bằng chiếc Ford của Wiley. Chúng tôi dễ dàng tìm được nhà tù cách thành phố hơn bốn cây số, cũng như tìm được văn phòng Sở Xa lộ. Đến trưa, tôi và Wiley vào vị trí dọc Phố chính. Vì chắc chắn Danny Padgitt sẽ nhận ra cả hai, nên chúng tôi buộc lòng phải tìm cách ẩn mình trên đường phố tấp nập của một thị trấn lạ mà không khiến ai sinh nghi gì. Wiley ngồi nép mình trong xe, máy ảnh sẵn sàng. Tôi thì cầm tờ báo che kín mặt ngồi trên ghế băng.
Ngày đầu tiên, chẳng thấy bóng dáng Danny đâu, thế là chúng tôi về lại Clanton và sáng hôm sau lại lên đường tiếp tục chiến dịch Broomfield. Lúc 11:30, một chiếc xe tù đỗ lại trước mặt văn phòng Xa lộ. Viên quản giáo đi vào trong, đón tù nhân, rồi cả hai rảo bộ đi ăn.
Trang nhất tờ Thời báo ngày 17 tháng 7 năm 1977 là bốn tấm ảnh lớn, một tấm chụp Danny Padgitt rảo bộ trên hè phố, cười đùa với viên quản giáo, một tấm chụp họ đi vào quán City Grill, một tấm chụp tòa nhà Sở Xa lộ, và tấm cuối chụp cổng của nhà tù Broomfield. Trang sau là bài báo: PADGITT KHÔNG Ở TÙ MÀ RA TRẠI
Bốn năm sau khi bị kết tội đã cưỡng hiếp tàn bạo và sát hại Rhoda Kassellaw, bị tuyên án chung thân ở nhà tù tiểu bang Parchman, Danny Padgitt đã được chuyển đến nhà tù vệ tinh mới của bang ở Broomfield. Sau ba năm ở đó, hắn được hưởng mọi biệt đãi của một phạm nhân có quan hệ rộng, với công việc văn phòng ở Sở Xa lộ bang, có quản giáo kiêm bảo vệ riêng, được ngồi lâu giờ thưởng thức bánh kẹp pho mát và sữa lắc ở các quán ăn trong vùng, nơi các thực khách chưa hề nghe đến tên hắn hay tội ác hắn đã phạm...
Bài báo được tôi viết theo cách hiểm nhất, giận dữ nhất có thể. Tôi đã ép cô phục vụ ở City Grill kể hết là hắn chỉ toàn ăn bánh kẹp pho mát với khoai tây chiên, mỗi tuần ba lần và luôn là người trả tiền. Tôi đã gọi hơn chục cuộc cho Sở Xa lộ cho đến khi tìm được một nhân viên cấp cao biết gì đó về Danny Padgitt. Ông ta không chịu trả lời các câu tôi hỏi và tôi cho ông ta lên báo không khác gì một kẻ tội phạm. Mọi nỗ lực xâm nhập nhà tù Broomfield đều vô ích. Tôi nêu ra hết mọi nỗ lực của tôi để phanh phui chuyện này, tạo cảm giác như đám quan liêu đang cố che đậy cho Padgitt. Không ai ở Parchman biết chút gì, hoặc có lẽ nếu biết họ cũng chẳng muốn nói. Tôi đã gọi cho ủy viên xa lộ (một viên chức dân cử), giám đốc nhà tù Parchman (may phước là chức vụ được chỉ định), Trưởng Sở Tư pháp bang, Phó Thống đốc và cả Thống đốc. Họ đều bận, hẳn rồi, nên tôi quay sang hỏi chuyện đám lính lác của họ và cho họ hình ảnh của lũ dở hơi.
Tham nghị viên Theo Morton có vẻ bị sốc. Ông đã hứa sẽ xử lý triệt để chuyện này và gọi lại cho tôi. Nhưng đến lúc chuyện đã lên báo mà tôi vẫn chưa thấy cuộc gọi đâu.
Phản ứng của Clanton khá đa chiều. Khi tôi ra đường, nhiều người réo gọi hoặc chặn tôi lại, thể hiện sự giận dữ và muốn phải có hành động gì đó. Họ thật sự tin là khi Padgitt bị án chung thân và bị dắt đi tay trong còng thì hắn sẽ phải sống cả đời ở địa ngục Parchman. Vài người thì thờ ơ và muốn quên quách Padgitt cho rồi. Hắn là chuyện đã quá cũ.
Còn có những người chán nản, ngạc nhiên một cách yếm thế. Họ nghĩ nhà Padgitt lại ra tay, tìm đúng người, chi đủ tiền để biến chuyện không thể thành có thể như bao lần khác. Harry Rex nằm trong số này. “Có gì mà ầm ĩ chứ? Chúng từng mua mấy đời Thống đốc rồi mà.”
Tấm hình Danny Padgitt rảo bộ trên phố, tự do tuyệt đối, đã khiến bà Callie sợ hãi kinh hoàng. “Tối qua bà ấy không ngủ,” ông Esau lúng búng với tôi khi tôi đến nhà bà ăn trưa vào thứ Năm tuần đó. “Giá mà anh không tìm thấy hắn thì hơn.”
May thay, mấy tờ báo ở Memphis và Jackson đánh hơi thấy câu chuyện đó, và tiếp sức cho nó. Họ khiến tình hình căng đến nỗi các chính trị gia phải ra tay. Thống đốc, Trưởng Sở Tư pháp và tham nghị viên Morton liền đua nhau gây sức ép đưa Padgitt về lại Parchman.
Hai tuần sau khi bài báo đăng, Danny Padgitt đã được “thuyên chuyển về lại” nhà tù bang.
Ngay hôm sau, tôi nhận hai cuộc điện thoại, một gọi đến văn phòng, một gọi đến nhà khi tôi còn ngủ. Giọng nói khác nhau nhưng cùng thông điệp. Tôi chết chắc rồi.
Tôi liền báo cho FBI ở Oxford và hai đặc vụ đã tìm đến Clanton. Tôi còn tung tin cho một phóng viên ở Memphis, và chẳng mấy chốc, cả thành phố biết tôi đã bị đe dọa đến mức FBI phải can thiệp. Suốt một tháng, cảnh sát trưởng McNatt cho một xe tuần tra túc trực trước văn phòng tôi trong giờ làm việc, một cảnh sát khác thì gác ở lối vào nhà buổi tối.
Sau bảy năm yên bình, giờ tôi lại phải quen với khẩu súng bên mình.