← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 32

Đến giờ vẫn chưa có máu đổ. Các mối đe dọa vẫn còn đó, nhưng qua thời gian, chúng bớt đáng ngại hơn nhiều. Tôi vẫn luôn đem súng theo mình, dù không phải lúc nào cũng nằm ngay trong người, nhưng tôi cũng dần bớt để ý đến nó. Thật khó để tin là nhà Padgitt sẽ liều mạng lãnh cơn thịnh nộ khi thủ tiêu tổng biên tập của tờ báo địa phương. Dù không phải cả thành phố đều quý mến tôi như ông Caudle năm xưa, nhưng độ phản xung vẫn quá lớn để nhà Padgitt dám làm liều.

Lần này, chúng kín tiếng và nhẫn nhịn đến lạ. Thật ra từ sau khi Mackey Don Coley bị phế truất vào năm 1971, nhà Padgitt lại thể hiện sự sắc sảo trong biệt tài ứng phó của mình. Danny đã gây quá nhiều sự chú ý rồi, nên chúng quyết tâm không để bị lôi ra trước công luận lần nữa. Chúng thu mình sâu hơn vào cồn Padgitt, tăng cường an ninh và trông chờ hão huyền vào chuyện cảnh sát trưởng tân cử, T. R. Meredith, hay người kế nhiệm ông, Tryce McNatt, sẽ chui vào túi mình. Chúng mở rộng trang trại cần sa và tuồn hàng đi bằng máy bay, thuyền, xe bán tải và xe tải giả danh chở gỗ.

Với sự sắc sảo lâu nay, khi đánh hơi thấy ngành cần sa bắt đầu có nguy cơ cao, chúng liền chuyển tiền vào các việc kinh doanh hợp pháp. Chúng mua một công ty thầu xây dựng xa lộ và nhanh chóng biến nó thành nhà thầu tin cậy cho các dự án của chính quyền. Chúng mua luôn một nhà máy nhựa đường, một nhà máy bê tông Redi-Mix và các bãi cung cấp sỏi ở phía bắc của bang. Xây dựng xa lộ là một ngành có tiếng tham nhũng ở Mississippi, và nhà Padgitt lại là dân chơi quá sõi trong mảng này.

Tôi đã quan sát, tìm hiểu hoạt động của chúng hết sức có thể. Thời bấy giờ, vẫn chưa có Luật Tự do Thông tin và luật yêu cầu công vụ phải công khai. Tôi biết tên tuổi vài công ty mà nhà Padgitt đã mua, nhưng không thể nào dò được dấu vết của chúng. Tôi chẳng có gì để viết bài, vì bề ngoài, mọi chuyện làm ăn đó đều hợp pháp.

Tôi vẫn chờ, nhưng không hy vọng lắm. Rồi một ngày, Danny Padgitt sẽ trở lại, và khi đó hắn sẽ nhảy lên cồn, lặn mất tăm không còn chút dấu vết nào nữa. Hoặc có khi hắn làm ngược lại cũng nên.

Ở Clanton, không mấy người không đi lễ nhà thờ. Những người đi lễ biết chính xác ai không làm như họ, và hầu như ai cũng tỏ thái độ “đến dự lễ với chúng tôi đi.” Câu chào quen thuộc, “Hẹn gặp hôm Chúa nhật,” thật ra có ý là, “Nhớ đến dự lễ nhé.”

Năm đầu tiên ở đây, tôi nhận tới tấp những lời mời khéo như vậy. Và khi người ta biết rằng ông chủ kiêm tổng biên tập của tờ Thời báo không đi lễ nhà thờ thì tôi trở thành kẻ tai tiếng nhất thành phố. Nhưng tôi quyết định mặc kệ vậy.

Hằng tuần, Margaret phụ trách chuyên trang Tôn giáo, bao gồm danh sách lễ nhà thờ của mọi giáo phái trong vùng. Còn có vài quảng cáo của một số cộng đoàn giàu có, thông báo về lễ hồi tâm, lễ hòa giải, những bữa tối họp đoàn và vô số hoạt động khác.

Từ chuyên trang này và sổ danh bạ, tôi đã lập danh sách mọi nhà thờ ở Hạt Ford. Tổng cộng có đến 88 nhà thờ, nhưng con số này không cố định, vì giáo dân dao động, và giáo đoàn có thể hợp rồi tan. Mục tiêu của tôi là đến thăm từng cái một, chuyện chắc chắn xưa giờ tôi chưa hề làm nhưng sẽ giúp tôi được những người chăm đi lễ nhà thờ xem trọng.

Các phái Cơ Đốc ở đây đa dạng đến rối rắm. Tôi thật không hiểu tại sao những người tự nhận mình theo cùng một giáo lý căn bản lại chia rẽ đến vậy? Về căn bản, họ đồng ý với nhau rằng (1) Chúa Jesus là con Thiên Chúa, (2) Ngài sinh ra bởi người nữ đồng trinh, (3) Ngài sống cuộc đời hoàn hảo, (4) bị người Do Thái bách hại, và bị người La Mã đóng đinh, (5) sau ba ngày, Ngài sống lại và lên trời, (6) và (dù chuyện này thì mỗi phái một khác) phải theo Chúa Jesus bằng cách nhận phép rửa tội và giữ đức tin để được vào thiên đàng.

Giáo lý khá là rõ ràng, nhưng chi tiết thì lại rối như quỷ. Ở Clanton, không có giáo hội Công giáo, Giám nhiệm hay Mặc Môn. Hạt này chủ yếu là phái Baptist, nhưng phân nhánh cực kỳ. Tiếp theo là phái Ngũ tuần, và rõ ràng họ cũng đấu đá nhau như ở phái Baptist.

Năm 1974, tôi bắt đầu cuộc phiêu lưu thăm hết mọi nhà thờ ở Hạt Ford. Đầu tiên là nhà thờ Binh đoàn Phúc âm, một nhà thờ phái Ngũ tuần sôi động nằm bên con đường lát sỏi cách thành phố ba cây số. Theo bài quảng cáo, buổi lễ bắt đầu lúc 10:30, và tôi kiếm một chỗ ở mấy hàng ghế cuối, cách xa trung tâm hết sức có thể. Tôi được chào đón rất nồng hậu, và họ bắt đầu kháo nhau là có khách thiện chí tìm hiểu vừa đến. Tôi nhìn quanh, thấy toàn gương mặt lạ. Mục sư Bob mặc bộ vest trắng, áo sơ mi xanh thẫm, cà vạt trắng và mái tóc đen dày của ông được chải keo dính chặt vào đầu. Khi ông cất lời thông báo, cộng đoàn bắt đầu hò reo. Họ còn vẫy tay tạo thành con sóng và hét hò khi ca viên hát solo. Phải một tiếng sau, mới bắt đầu vào bài giảng, lúc đó tôi đã muốn ra về lắm rồi, nhưng cũng cố ngồi lại nghe 45 phút cho hết bài giảng vốn chỉ khiến tôi mơ hồ và mệt mỏi. Nhiều lần, nhà thờ như rung chuyển vì màn giậm chân hết lực của mọi người. Các cửa sổ rung lên trước tinh thần và tiếng hò reo dữ dội. Mục sư Bob “đặt tay” lên ba người đang mắc những chứng bệnh khá là mơ hồ, và họ nói mình đã được lành. Rồi một chấp sự đứng lên, bắt đầu trình diễn một thứ tiếng lạ tôi chưa nghe bao giờ. Ông nắm chặt tay, mắt nhắm nghiền, tuôn ra một loạt những lời lạ tai theo cách trôi chảy đều đặn. Tôi thấy đây không phải diễn, không phải giả vờ. Sau vài phút, một cô khá trẻ trong ca đoàn bắt đầu dịch những câu ông nói ra tiếng Anh. Hóa ra đấy là một khải tượng Chúa ban xuống thông qua người chấp sự này, nói rằng có những người mắc tội không thể tha thứ. “Hãy ăn năn!” Mục sư Bob hét lên, và mọi cái đầu trong nhà thờ liền cúi xuống.

Lỡ chấp sự đang nói về tôi thì sao? Tôi liếc mắt nhìn quanh, hết hồn khi thấy cửa chính đã bị khóa, còn có hai chấp sự khác đứng gác.

Nhưng rồi tinh thần trong nhà thờ cũng dịu dần đi, và sau hai tiếng ngồi ở đó, tôi phóng vút ra ngoài. Phải kiếm một ly uống cho lại hồn mới được.

Bài viết nhẹ nhàng khoan khoái về chuyến thăm nhà thờ Binh đoàn Phúc âm của tôi được đăng lên chuyên trang Tôn giáo của số kế tiếp. Tôi nhắc đến bầu khí nồng hậu ấm áp trong nhà thờ, màn solo rất hay của cô Helen Hatcher, bài giảng hùng hồn của mục sư Bob và đủ thứ khác.

Khỏi cần phải nói, bài này được người đọc phản hồi quá tích cực.

Và thế là tôi đều đặn thăm các nhà thờ, ít nhất cũng mỗi tháng hai lần. Tôi đã ngồi với bà Callie và ông Esau, nghe mục sư Thurston Small giảng suốt hai tiếng 12 phút. Thật ra, tôi luôn tính giờ các bài giảng. Bài ngắn nhất là của mục sư Phil Bish ở nhà thờ Giám lý Hiệp nhất Karaway, 17 phút. Nhà thờ đó cũng giành luôn giải nơi lạnh lẽo nhất, vì hôm tôi đến đó là vào tháng 1 mà máy sưởi lại hỏng, nên có lẽ nhờ thế bài giảng mới ngắn như vậy. Tôi cũng ngồi với Margaret ở nhà thờ First Baptist Clanton, nghe mục sư Millard Stark giảng bài thường niên về tội uống rượu. Hôm đó, quá đen cho tôi khi vẫn còn cơn say nguội từ buổi quá chén hôm trước và mục sư Stark cứ nhìn tôi cả buổi.

Tôi còn tìm được nơi hội thánh Nhà tạm Mùa gặt hành lễ ở phòng hậu của một tiệm sửa xe bỏ hoang tại Beech Hill, ngoài tôi ra, ở đó chỉ có thêm sáu người chống mắt nghe một ông Ngôn sứ Peter mắt trắng dã nói về ngày tận thế cận kề bằng màn quát mắng như tát nước vào mặt suốt gần cả tiếng. Tuần đó, bài của tôi chỉ có vài dòng chiếu lệ.

Nhà thờ Hội thánh Đấng Christ ở Clanton thì không có nhạc cụ nào. Sau này mới có người giải thích cho tôi là nhạc cụ bị cấm chiếu theo Kinh Thánh. Nhưng tôi cũng đã được nghe một bài solo rất hay và viết khá dài để tán thưởng, dù cho phần phụng vụ thì chẳng có gì thú vị cả. Ngược lại, khi tôi đến nhà nguyện Núi Pisgah ở Hạ trấn, bục giảng nằm lọt thỏm giữa đủ thứ trống, đàn, kèn và dàn loa. Dọn đường cho bài giảng là nguyên một chương trình ca nhạc, cả cộng đoàn đứng lên hát hò nhảy múa. Theo lời bà Callie thì Núi Pisgah là “nhà thờ hạ lưu.”

Số 64 trong danh sách của tôi, là nhà thờ Độc lập Gò Calico, nằm sâu trong vùng đồi ở phía đông bắc của hạt. Theo lưu trữ của tờ Thời báo , thì năm 1965, ông Randy Bovee đã bị rắn đuôi chuông cắn hai lần trong một buổi phụng vụ tối Chúa nhật ở nhà thờ này. Ông Bovee qua khỏi, nhưng họ phải tạm cất mấy con rắn một thời gian. Tuy nhiên, chuyện này đã khiến dân chúng xôn xao nhiều, và khi cột báo thăm nhà thờ của tôi ngày càng nổi, có vài người đã hỏi liệu tôi có định đến Gò Calico không.

Tôi luôn trả lời bằng câu cửa miệng, “Tôi dự định đến thăm mọi nhà thờ mà.”

“Nhưng họ không thích khách lạ đâu,” Baggy cảnh báo trước cho tôi như thế.

Tôi đã được chào đón quá nồng hậu ở mọi nhà thờ tôi đến, cả da trắng và da đen, lớn hay nhỏ, ở thành phố hay nông thôn, nên tôi không thể hiểu nổi làm sao có Cơ Đốc nhân nào lại thô lỗ với khách muốn tìm hiểu chứ.

Sự thật gần đúng như thế, người ở Gò Calico không thô lỗ, nhưng cũng chẳng vui vẻ gì trước sự hiện diện của tôi. Tôi muốn xem đám rắn, nhưng xem từ chỗ an toàn ở dãy ghế cuối cơ. Tôi tìm đến nhà thờ họ vào một tối Chúa nhật, chủ yếu bởi người ta kháo nhau rằng “họ không đem rắn ra khi còn ánh mặt trời.” Tôi đã lục lọi trong Kinh Thánh xem thử có lý do nào để làm thế không, nhưng chẳng thấy gì.

Tối hôm đó, tôi cũng không thấy rắn đâu, chỉ có những nắm tay đấm thùm thụp vào ngực khi mục sư thúc giục chúng tôi “hãy than khóc và kêu van vì tội lỗi của mình!”. Ca đoàn hát ngâm nga ậm ờ theo nhịp đàn guitar điện và trống, lại còn thêm một điệu nhảy kiểu thổ dân cổ đại. Đến đoạn này, tôi muốn về lắm rồi, nhất là vì chẳng thấy rắn đâu cả.

Nhưng bỗng tôi thoáng thấy một gương mặt vừa quen vừa lạ. Gầy gò, xanh xao, hốc hác, tóc muối tiêu. Tôi không nhớ ra là ai, nhưng biết là từng gặp rồi. Người đó ngồi ở hàng thế thứ hai và có vẻ lạc điệu với bầu khí hỗn loạn của buổi phụng vụ. Nhiều lần có vẻ như anh ta đang cầu nguyện, nhưng khi mọi người đứng thì anh lại ngồi. Cộng đoàn có vẻ vừa chấp nhận vừa làm ngơ anh.

Bỗng anh quay lại nhìn thẳng vào tôi. Là Hank Hooten, cựu luật sư gây ra màn xả súng ở Clanton hồi năm 1971! Anh đã bị trói gô đem đến bệnh viện tâm thần, và có tin đồn là được xuất viện sau vài năm. Nhưng từ đó, chẳng ai thấy anh đâu cả.

Suốt hai ngày sau đó, tôi cố sức lùng tìm Hank Hooten. Những cuộc gọi đến bệnh viện tâm thần bang chỉ đi vào ngõ cụt. Hank có một người anh ở Lùm Rậm, nhưng lại không chịu gặp tôi. Tôi đã thử dò hỏi ở Gò Calico, nhưng hiển nhiên, chẳng ai chịu hé lời nào với kẻ lạ như tôi.