CHƯƠNG 33
Nhiều người sốt sắng thờ phượng vào sáng Chúa nhật lại trở nên bất cần đức tin hẳn khi tối đến. Trong lúc đi thăm các nhà thờ, tôi đã nghe nhiều mục sư dặn dò con chiên là vài tiếng sau phải trở lại nhà thờ để giữ trọn ngày Sabbath. Tôi chưa hề đếm kỹ lưỡng, nhưng như thường lệ, chỉ khoảng một nửa chấp hành chuyện này. Tôi đã thử đến vào buổi phụng vụ tối Chúa nhật, thường là để xem mấy màn nghi lễ thú vị như cầm rắn hay chữa bệnh, hoặc có lần là cả “mật nghị hội thánh” đem một anh ra xử vì tội tơ tưởng vợ người ta. Tối đó, sự hiện diện của tôi khiến họ dè chừng và anh bạn đó được tạm tha.
Nhưng tôi chủ yếu giới hạn chuyện tìm hiểu so sánh giáo phái trong phạm vi ban ngày.
Harry Rex từng giúp một anh người Mễ tên Pepe thuê chỗ mở nhà hàng cách quảng trường một khối nhà. Pepe khá phát đạt trong những năm 1970 nhờ những món cay ngon lành. Ớt là thứ phải có mỗi khi Pepe nấu ăn, bất chấp các khách hàng da trắng thường la oai oái vì cay rát cổ.
Vào ngày Chúa nhật, rượu bị cấm trên toàn Hạt Ford, không được bán lẻ lẫn phục vụ ở nhà hàng. Nhưng Pepe có phòng hậu với một chiếc bàn dài và cửa luôn khóa. Anh cho Harry Rex và bạn bè dùng phòng đó, ăn uống gì tùy thích, và quan trọng nhất là margarita Pepe pha ngon cực kỳ. Chúng tôi thưởng thức nhiều món ngon lạ vị và uống margarita để chống cay. Tiệc kín này thường tầm hơn chục người, đều là nam giới, trẻ trung, và chỉ phân nửa có vợ. Harry Rex dọa nếu chúng tôi hé miệng về phòng hậu này của Pepe thì ông sẽ cắt cổ hết.
Cảnh sát thành phố Clanton từng mở cuộc bố ráp, nhưng Pepe thì giả vờ chẳng biết nửa chữ tiếng Anh, còn cửa vào phòng hậu luôn khóa, lại được che chắn khá kỹ. Pepe tắt đèn quán cho êm chuyện, và suốt 20 phút, chúng tôi chờ trong bóng tối, vừa uống vừa dỏng tai nghe mấy cảnh sát cố tìm cách nói chuyện với Pepe. Mà thật tình, tôi chẳng hiểu sao lúc đó chúng tôi lại lo lắng đến thế. Vì thẩm phán thành phố, Harold Finkley, đang ngồi cuối bàn nốc ly margarita thứ tư hay thứ năm gì đó rồi.
Mấy tối Chúa nhật ở nhà Pepe thường kéo dài và huyện náo, vui chơi xong chúng tôi cũng chẳng đủ sức để lái xe về, thế là hôm đó tôi đi bộ về văn phòng, ngủ trên sofa. Tôi đang nằm ngáy giữa bầu không khí thoang thoảng mùi tequila thì chuông điện thoại đổ hồi lúc nửa đêm. Là một phóng viên tôi quen biết ở tờ nhật báo Memphis.
“Anh có tường thuật buổi điều trần ân xá ngày mai không?” anh ấy hỏi.
Ngày mai á? Cái đầu váng vất men rượu của tôi chẳng biết mai là ngày gì.
“Ngày mai sao?” Tôi lúng búng hỏi lại.
“Ngày mai, 18 tháng 9,” anh trả lời chậm rãi, rõ ràng.
Tôi mơ hồ chắc chắn năm hẳn là 1978.
“Mà điều trần ân xá gì vậy?” Tôi hỏi, cố tỉnh táo.
“Cho Danny Padgitt. Anh không biết sao?”
“Không!”
“Đã lên lịch điều trần lúc 10:00 sáng tại Parchman.”
“Anh đùa tôi rồi!”
“Không. Tôi cũng vừa biết tin. Có vẻ họ không báo tin đến chỗ anh rồi.”
Tôi ngồi đó trong bóng tối một hồi lâu, nguyền rủa cái bang lạc hậu này xử lý công chuyện một cách lố bịch không thể chấp nhận nổi. Có lý gì lại chấp nhận cân nhắc ân xá cho Danny Padgitt chứ? Đã tám năm trôi qua từ ngày phán quyết. Hắn chịu hai án tù chung thân, mỗi án ít nhất cũng ngồi tù mười năm chứ. Chúng tôi cứ nghĩ rằng hắn sẽ phải ở yên trong tù ít nhất 20 năm.
Lúc 3:00 sáng, tôi lái xe về nhà, ngủ vật vờ thêm hai tiếng, rồi gọi điện đánh thức Harry Rex, rõ ràng cũng không đủ tỉnh táo để làm gì. Tôi mua hai bánh xúc xích và cà phê ly đúp rồi gặp Harry Rex ở văn phòng ông tầm 7:00 sáng. Chúng tôi đều ũ rũ, bực bội, và vừa kiểm lại sách luật vừa gắt lên những câu cay độc, vung vẩy chửi thề, không phải nhắm vào nhau mà nhắm vào cái quy trình mơ hồ vô lương tâm mà đám lập pháp dựng lên cách đây 30 năm. Hướng dẫn luật chỉ toàn những định nghĩa mơ hồ, tạo quá nhiều điều kiện cho đám chính trị gia và tay chân tác oai tác quái.
Vì các công dân tuân thủ luật pháp có bao giờ dính dáng gì đến chuyện ân xá, nên nó cũng không thuộc ưu tiên xử lý cập nhật của hội đồng lập pháp. Và vì hầu hết tù nhân của bang đều nghèo khó hoặc là người da đen, chẳng thể thao túng hệ thống, nên thật dễ để dí cho họ bản án nghiêm khắc rồi đẩy họ đi xa. Nhưng với một phạm nhân có tiền, có quan hệ, thì hệ thống ân xá là cái mê cung của những luật lệ tréo ngoe mâu thuẫn để cho Hội đồng Ân xá thi ân giáng phúc.
Nhờ một điều khoản nào đó trong luật hình sự và luật ân xá mà hai bản án chung thân “liên tiếp” của Danny Padgitt thành hai bản án “đồng thời.” “Nghĩa là song song, cùng một lần ấy,” Harry Rex cố giải thích.
“Thì sao?” tôi thắc mắc.
“Nó được áp dụng khi một bị cáo chịu nhiều cáo buộc. Nếu liên tiếp thì là 80 năm tù, nhưng thường thì chỉ 10 năm, là đồng thời đấy.”
Tôi lại lắc đầu phản đối, làm Harry Rex cáu luôn vì hết cách giải thích.
Cuối cùng tôi cũng gọi được cảnh sát trưởng Tryce McNatt. Giọng ông cũng có vẻ say nguội dù ông thuộc một hội thánh kiêng rượu tuyệt đối. McNatt cũng không biết gì về phiên điều trần ân xá. Tôi hỏi ông có định tham dự không, nhưng hôm nay ông bận nhiều cuộc họp quan trọng rồi.
Tôi còn muốn gọi cả thẩm phán Loopus, nhưng ông đã thành người thiên cổ từ sáu năm trước. Ernie Gaddis cũng đã nghỉ hưu, giờ đang câu cá ở dãy núi Smoky rồi. Người kế nhiệm ông, Rufus Buckley, thì sống ở Hạt Tyler, và tôi cũng không có số liên lạc.
Tám giờ sáng, tôi nhảy lên xe, cầm theo cái bánh chưa ăn và ly cà phê nguội lạnh.
Sau một tiếng lái xe về hướng tây Hạt Ford, đồi núi dần biến mất, mặt đất bắt đầu bằng phẳng hẳn khi vào vùng Châu thổ. Đây là vùng nông nghiệp trù phú mà dân tình lại nghèo, nhưng tôi chẳng còn tâm trí nào để ngắm cảnh và bình luận chuyện xã hội. Tôi chỉ đang lo ngại phiên điều trần ân xá này là phiên kín miễn dự khán.
Tôi còn lo chuyện đặt chân vào Parchman, nơi ai cũng kháo nhau là một địa ngục trần gian.
Sau hai tiếng, những hàng rào cao và dây thép gai hiện ra. Tôi rẽ vào cổng chính, báo với quản giáo gác cổng rằng tôi là phóng viên đến dự phiên điều trần ân xá. “Đi thẳng, rẽ trái ở tòa nhà thứ hai,” anh vừa chỉ vừa viết lại tên tôi.
Có một cụm tòa nhà nằm sát xa lộ, một dãy nhà thô không khác gì nhà phố. Tôi dừng lại ở tòa nhà Quản trị A, chạy hộc tốc vào tìm thư ký trưởng. Và cô ấy lại bảo tôi chạy sang tòa nhà kế đó, tầng hai. Đã 10:00 rồi.
Cuối hành lang có mấy người đang đang đứng lảng vảng trước một phòng. Một là quản giáo, một là cảnh sát tuần tra bang, một thì mặc bộ vest nhăn nhúm.
“Tôi đến dự buổi điều trần.”
“Trong kia,” viên quản giáo vừa nói vừa đưa tay chỉ cho tôi. Khỏi cần gõ, tôi mở cửa bước vào, đúng kiểu một phóng viên bạo dạn. Trong phòng đã đâu vào đấy, và chắc chắn họ chẳng ngờ đến sự hiện diện của phóng viên này.
Có năm người trong Hội đồng Ân xá, họ ngồi một hàng sau chiếc bàn chính giữa phòng, mỗi người đều có bảng tên đặt trước mặt. Một chiếc bàn khác kê dọc tường, nơi tụ tập của hội nhà Padgitt, Danny, bố mẹ, một ông chú và Lucien Wilbanks. Bên kia tường là bàn của nhân viên ân xá và nhà tù.
Tất cả đều nhìn tôi như người trên trời rơi xuống. Tôi thì chỉ quan tâm mỗi Danny Padgitt, và ngay lập tức, chúng tôi đều không giấu sự khinh miệt dành cho nhau.
“Tôi giúp được gì không?” một ông bự con, ăn mặc xuề xòa ngồi chính giữa bàn cất tiếng hỏi. Đấy là Barrett Ray Jeter, chủ tịch hội đồng. Như bốn người còn lại, ông ta được Thống đốc chỉ định chức vụ này để đền đáp đóng góp cho mình trong kỳ tranh cử.
“Tôi đến dự buổi điều trần của Padgitt,” tôi nói.
“Phóng viên đấy!” Lucien nói như quát. Trong một thoáng, tôi tưởng như mình sắp bị bắt ngay tại chỗ và bị tống vào hốc sâu nhất của nhà tù địa ngục này cả đời.
“Của tờ nào?” Jeter hỏi tiếp.
“ Thời báo Hạt Ford ,” tôi trả lời.
“Tên?”
“Willie Traynor.” Tôi nhìn thẳng Lucien khi lão ném cho tôi ánh mắt thù hằn.
“Đây là phiên điều trần kín, anh Traynor à” Jeter tuyên bố. Luật không nói rõ khi nào thì điều trần kín hay mở, nên thường luôn là kín.
“Vậy ai được tham dự?” Tôi hỏi gặng.
“Hội đồng Ân xá, phạm nhân được xét ân xá, gia đình, nhân chứng, luật sư của phạm nhân và bất kỳ nhân chứng nào của bên chống.”
“Bên chống” nghĩa là gia đình nạn nhân, nhưng bị nhắc đến như thể kẻ xấu.
“Còn cảnh sát trưởng của hạt chúng tôi thì sao?” tôi hỏi.
“Ông ấy cũng được mời.”
“Cảnh sát trưởng của chúng tôi không nhận được thông báo nào. Tôi vừa nói chuyện với ông ấy cách đây ba tiếng. Thật ra, ở Hạt Ford chẳng một ai biết tin về phiên điều trần này trước nửa đêm qua.” Nghe tôi nói vậy, đám Hội đồng Ân xá bắt đầu gãi đầu gãi tai. Đám nhà Padgitt thì quây lại bên Lucien.
Bằng phương pháp loại trừ, tôi nhanh chóng suy luận mình là một nhân chứng và muốn dự khán màn kịch này. Tôi nói, to và rõ hết sức có thể, “Vì ở đây không có ai khác ở Hạt Ford làm bên chống, nên tôi là nhân chứng.”
“Anh không thể vừa là phóng viên vừa là nhân chứng được,” Jeter nói.
“Có chỗ nào trong Bộ luật Mississippi viết vậy không?” Tôi vừa nói vừa vung vẩy quyển sách luật mượn của Harry Rex.
Jeter quay sang gật đầu với một anh trẻ tuổi mặc vest đen. “Tôi là luật sư của Hội đồng Ân xá,” anh ta từ tốn bảo tôi, “anh được làm chứng trong buổi điều trần này, anh Traynor, nhưng không được tường thuật.”
Tôi dự tính sẽ bất chấp, tường thuật hết mọi chi tiết rồi viện đến Tu chính án Thứ nhất. “Thì cứ vậy đi,” tôi trả lời. “Luật do các anh đặt mà.” Chưa đầy một phút, ranh giới đã được vạch ra rõ ràng, một bên là tôi, và bên kia là tất cả những người còn lại.
“Bắt đầu tiến hành,” Jeter tuyên bố, và tôi bắc ghế ngồi với một đám người dự khán khác.
Luật sư của Hội đồng Ân xá đọc biên bản sơ bộ. Anh ta trích dẫn những điểm chính trong bản án của Padgitt và cẩn thận tránh nhắc đến từ “liên tiếp” hay “đồng thời”. Dựa trên hồ sơ “mẫu mực” trong quá trình ở tù của phạm nhân, Danny Padgitt được đánh giá là “thụ án tốt,” một từ mơ hồ do hệ thống ân xá bịa ra chứ không phải do lập pháp của bang ấn định. Trừ đi thời gian ở trong trại giam của hạt chờ ra tòa, giờ phạm nhân đã đủ tư cách để được xét ân xá.
Công chức thụ lý hồ sơ của Danny thì kể lể dài dòng về mối quan hệ của mình với phạm nhân. Bà ta kết luận với quan điểm vu vơ rằng Danny đã “thật tâm hối hận”, “thay đổi con người,” “không còn là mối đe dọa với xã hội”, thậm chí còn sẵn sàng trở thành “công dân gương mẫu.”
Phải tốn bao nhiêu tiền để có cả mớ văn hoa ca tụng đó vậy? Tôi không thể kìm nổi thắc mắc đó. Tốn bao nhiêu vậy? Và nhà Padgitt phải sục sạo bao lâu mới tìm được người chịu mở túi cho họ đút tiền vào?
Tiếp theo đến lượt Lucien. Giờ không có Gaddis, cảnh sát trưởng McNatt hay thậm chí là Hank Hooten tội nghiệp, chẳng có một ai để phản bác, nên lão tự tin vung vẩy những ý kiến hoang đường về vụ án, nhất là về chứng cứ ngoại phạm “vô cùng xác đáng” từ lời của Lydia Vince. Lão còn trơ tráo nói rằng bồi thẩm đoàn đã phân vân về phán quyết có tội. Tôi chỉ muốn chộp lấy gì đó mà ném vào mặt lão, mắng chửi lão và cả đám khốn kiếp này. Có lẽ làm thế sẽ khiến lão có được chút thành thật nào chăng
Tôi chỉ muốn hét lên, “Nếu vô tội thì làm sao hắn ân hận được chứ?”
Lucien bới móc chỉ trích phiên tòa năm xưa là bất công. Lão còn tự nhận lỗi là đã không nỗ lực để thay đổi địa điểm xử án sang một vùng khác của bang, nơi người ta sáng suốt hơn và không định kiến. Đến lúc Lucien đóng cửa hố phân giữa mặt lão, hai người trong hội đồng đã có vẻ buồn ngủ.
Bà Padgitt là người tiếp theo, đứng lên nói về những lá thư hai mẹ con gửi cho nhau trong tám năm qua, những năm tháng dài như cả thế kỷ. Qua những lá thư, bà đã thấy con mình trưởng thành, tăng tiến đức tin, khao khát được tự do để phục vụ cho đồng bào mình.
Phục vụ cần sa loại nặng hơn chứ gì? Hay là whisky bắp sạch hơn?
Vì theo sách, đến đoạn này là phải khóc, nên bà mẹ của hắn cũng rớt ra mấy giọt nước mắt. Tất cả chỉ là một phần của vở kịch lớn, và có vẻ cũng chẳng tác động gì mấy đến những cái đầu vốn đã có quyết định sẵn ở bàn hội đồng. Thật sự, nhìn mặt họ, tôi đã biết thừa kết quả rồi.
Người cuối cùng phát biểu là Danny, một bài nói rất khéo, vừa chối tội vừa thể hiện sự hối lỗi. “Tôi đã học được từ những sai lầm của mình,” làm như thể cưỡng hiếp và giết người là tội vặt, chẳng khiến ai bị tổn hại gì vậy. “Giờ tôi là con người khác hẳn rồi.”
Theo lời hắn, đây là kết quả của cơn lốc tinh thần tích cực mà hắn được hưởng khi vào Parchman, từ làm tình nguyện ở thư viện, hát trong ca đoàn, làm ở nông trại, cho đến các buổi tuyên truyền ở trường học để khiến đám nhóc sợ không còn dám phạm tội.
Ở bàn hội đồng, hai người chăm chú lắng nghe, một người gà gật, hai người kia thì vẻ mặt trầm ngâm nhưng nhìn qua đôi mắt, tôi chỉ thấy mỗi cái đầu rỗng tuếch.
Danny cũng nhỏ vài giọt nước mắt, chốt lại bằng câu van xin cảm động xin được thả.
“Có bao nhiêu nhân chứng của bên chống?” Jeter hỏi.
Tôi đứng lên, nhìn quanh một lượt, chẳng thấy ai là người Hạt Ford cả, “Có lẽ chỉ mình tôi thôi.”
“Mời anh, anh Traynor.”
Tôi chẳng biết nói gì, cũng không biết ở mấy chỗ thế này, lời nào được phép lời nào không. Nhưng theo những gì tôi chứng kiến nãy giờ, tôi cho rằng muốn nói gì cũng được, dù Jeter hẳn sẽ bắt tôi dừng ngay nếu tôi phạm đến chuyện nhạy cảm.
Tôi nhìn từng người ở bàn hội đồng, cố hết sức để lờ đi những ánh mắt hình viên đạn từ phía đám Padgitt, rồi bắt đầu mô tả sống động nhất vụ cưỡng hiếp và giết người. Tôi nói hết mọi thứ có thể nhớ được, còn nhấn mạnh sự thật rằng hai đứa trẻ đã phải chứng kiến một vài phần của cuộc hành hung giết người.
Tôi vừa nói vừa sợ Lucien phản đối, nhưng hóa ra xung quanh cứ im lặng như tờ. Năm vị hội đồng ngái ngủ bỗng nhiên tỉnh táo hẳn, ai cũng chăm chăm nhìn tôi, nuốt lấy từng chi tiết ghê rợn. Tôi còn mô tả các vết thương, họa lên cảnh tượng thương tâm khi Rhoda trút hơi thở cuối trên tay ông Deece, miệng thều thào, “Là Danny Padgitt. Là Danny Padgitt.”
Tôi gọi Lucien là kẻ dối trá, mỉa mai trí nhớ kém cỏi của ông ta hẳn đã quên gần sạch chuyện ở phiên tòa năm ấy. Bồi thẩm đoàn mất chưa đến một tiếng để ra phán quyết có tội.
Và với trí nhớ đến cả tôi cũng phải kinh ngạc, tôi thuật lại màn diễn thảm hại của Danny trên bục nhân chứng, những lời dối trá sau để che đậy lời dối trá trước, hoàn toàn không có chút sự thật nào. “Đáng ra anh ta phải bị truy tố tội khai man,” tôi khẳng định.
“Và khi xong phần làm chứng, thay vì về lại ghế, anh ta bước tới chỗ bồi thẩm đoàn, chỉ tay vào mặt các bồi thẩm mà nói, ‘Các người mà kết tội tôi thì tôi sẽ xử hết, xử không chừa một ai’.”
Một thành viên hội đồng tên là Horace Adler liền bật dậy ngay, hỏi đám nhà Padgitt, “Có thật thế không?”
“Có trong biên bản tòa mà,” tôi nói ngay trước khi Lucien có cơ hội nói dối lần nữa. Về phía mình, lão cũng chầm chậm đứng dậy.
“Có thật thế không, ông Wilbanks?” Adler hỏi gặng.
“Anh ta đã đe dọa bồi thẩm đoàn?” một hội đồng viên khác cũng hỏi theo.
“Tôi có biên bản tòa đây,” tôi tự tin tuyên bố. “Và tôi sẵn lòng mời quý vị xem qua.”
“Có thật thế không?” Adler hỏi đến lần thứ ba.
“Trong phòng xử hôm đó có đến 300 người,” tôi nói, đưa mắt nhìn Lucien, cảnh cáo không lời với ông ta - Đừng làm thế. Đừng nói dối làm gì.
“Im lặng, anh Traynor,” một hội đồng viên bảo tôi.
“Có trong biên bản tòa đây,” tôi nhắc lại.
“Đủ rồi!” Jeter hét lên.
Lucien đứng đờ ra đó, cố nghĩ cách, trong khi mọi người chăm chăm chờ lão. “Tôi không nhớ hết mọi chuyện,” cuối cùng lão cũng mở miệng, và tôi khịt mũi khinh bỉ lớn hết sức có thể. “Có lẽ thân chủ của tôi đã nói gì đó tạo cảm giác như thế, nhưng đấy chỉ là một thoáng xúc động, và trong hoàn cảnh căng thẳng như thế, có thể buột miệng ra những lời như vậy mà. Nhưng hãy xem xét bối cảnh...”
“Bối cảnh cái con khỉ!” Tôi hét lên, bước tới trước mặt như thể chuẩn bị giáng cho lão một đấm. Một quản giáo bước lên, tôi cũng đứng lại. “Nó nằm trong biên bản tòa giấy trắng mực đen đây này!” Đến lúc này tôi không kìm nổi sự giận dữ được nữa. Rồi tôi quay sang hội đồng, “Sao các người có thể ngồi đó và để họ nói dối như thế? Các người không muốn nghe sự thật sao?”
“Anh còn gì muốn nói nữa không, anh Traynor?” Jeter hỏi.
“Có! Tôi mong hội đồng này không biến hệ thống tư pháp thành trò hề và để kẻ này tự do chỉ sau tám năm tù. Hắn được ngồi đây thay vì ở dãy buồng tử tù đã là may mắn lắm rồi. Và tôi mong lần tới các vị tổ chức điều trần ân xá cho hắn, nếu như còn có lần tới, thì mong các vị mời một vài công dân ở Hạt Ford, cảnh sát trưởng hay công tố viên. Và các vị có thể thông báo cho gia đình được chứ? Họ có quyền ở đây để các vị nhìn vào mặt họ trước khi thả tự do cho kẻ giết người này.”
Tôi ngồi xuống, lửa giận vẫn bừng bừng. Tôi trừng mắt nhìn Lucien Wilbanks và quyết định sẽ chuyên tâm trừng trị lão cho đến hết đời lão hay đời tôi, không thể nào đội trời chung với lão khốn này được. Jeter tuyên bố tạm nghỉ, và tôi cho là họ cần thời gian để ngồi lại với nhau trong phòng hậu mà tính tiền. Có lẽ họ sẽ gọi nhà Padgitt đến để chung chi thêm cho một vài hội đồng viên. Để chọc giận luật sư của hội đồng, tôi lôi giấy ra hí hoáy viết lại những ghi chú cho bài báo mà gã đã cấm tôi viết.
Sau 30 phút, hội đồng về lại phòng để tiếp tục điều trần, trông mặt ai cũng có vẻ lén la lén lút như vừa phạm tội. Jeter yêu cầu bỏ phiếu. Hai phiếu thuận, hai phiếu chống và một phiếu trắng. “Lần này, đơn ân xá bị bác bỏ,” Jeter tuyên bố và bà Padgitt liền bật khóc. Bà ôm Danny trước khi hắn bị quản giáo kéo đi.
Khi đứng dậy ra về, Lucien và nhà Padgitt đi ngang qua tôi, sát rạt. Tôi cứ lờ họ đi, mắt cắm xuống sàn, kiệt sức, chuếnh choáng.
“Tiếp theo là Charles D. Bowie,” Jeter gọi, và một đám người mới từ từ đi vào. Tôi nghe loáng thoáng gì đó về tội xâm hại tình dục, nhưng giờ chẳng còn hơi sức nào để lo chuyện gì khác. Tôi rời phòng, ra hành lang, nửa trông nửa sợ gặp mặt đám Padgitt, gì cũng được, vì tôi muốn xong việc với chúng cho rồi.
Nhưng đám nhà Padgitt đã đi hết, chẳng thấy bóng dáng ai khi tôi ra khỏi tòa nhà rồi lái xe qua cổng chính nhà tù quay về Clanton.