CHƯƠNG 34
Buổi điều trần lên trang nhất tờ Thời báo Hạt Ford số tiếp theo. Tôi viết ra mọi chi tiết mình nhớ được, và trang năm là bài xã luận nghiêm khắc của tôi về tiến trình điều trần. Tôi gửi báo cho mọi thành viên Hội đồng Ân xá, cả luật sư hội đồng, và trong cơn hăng, tôi gửi luôn cho mọi thành viên hội đồng lập pháp của bang, Trưởng Sở Tư pháp, Phó Thống đốc và Thống đốc. Hầu hết đều làm ngơ, nhưng luật sư của Hội đồng Ân xá thì không.
Anh ta viết cho tôi một bức thư dài thể hiện sự quan ngại sâu sắc về “sự vi phạm có chủ ý đối với quy trình của Hội đồng Ân xá.” Anh ta còn tính ngồi lại với Trưởng Sở Tư pháp để “đánh giá mức độ nghiêm trọng của vấn đề” và có những hành động sẽ khiến tôi phải lãnh “những hậu quả nặng nề.”
Luật sư của tôi, Harry Rex, bảo đảm rằng chính sách điều trần kín của Hội đồng Ân xá rõ ràng là vi hiến, vi phạm trắng trợn Tu chính án Thứ nhất, và ông sẵn sàng biện hộ cho tôi trước tòa án liên bang. Với mức phí giảm giá, hẳn rồi.
Tôi cáu tiết gửi thư hồi đáp cho gã luật sư, chúng tôi cứ tranh cãi bằng đường bưu điện vài tháng cho đến khi gã có vẻ không còn hứng thú đeo bám tôi nữa.
Rafe, người lùng thân chủ cho Harry Rex, có một đồ đệ tên Buster, một tay cao bồi lực lưỡng khi nào cũng kè kè vài khẩu súng bên mình. Tôi thuê Buster với giá 100 đô một tuần để vào vai vệ sĩ. Vài tiếng một ngày, Buster sẽ lảng vảng ở tiền sảnh tòa soạn, hoặc ngồi trước đường vào nhà tôi, ở hiên nhà hay bất kỳ nơi nào cho mọi người dễ thấy và nhận ra rằng Willie Traynor là yếu nhân đủ tầm cỡ để có vệ sĩ. Nếu nhà Padgitt dám lại gần để nổ súng thì thế nào cũng phải lãnh vài phát bắn trả.
Sau vài năm tăng cân đều và bất chấp cảnh báo của bác sĩ, bà Callie cuối cùng cũng chịu thua. Sau một lần đi khám có vẻ rất nặng, bà tuyên bố với ông Esau rằng sẽ ăn kiêng, giới hạn 1.500 calo mỗi ngày, trừ thứ Năm, vì tôi ấy mà. Một tháng trôi qua, và tôi chẳng thấy bà có vẻ giảm được cân nào. Nhưng ngày thứ Năm sau bài báo về buổi điều trần, đột nhiên trông bà như đã sụt liền mấy chục cân.
Thay vì chiên gà, bà lại cho vào lò nướng. Thay vì nghiền khoai tây trộn bơ và kem rồi phủ một lớp nước sốt thịt, bà lại đem khoai đi hấp. Vẫn ngon, nhưng hơi lạ với cái bụng của tôi vốn đã quen với lượng mỡ màng kha khá hàng tuần.
Sau khi cầu nguyện, tôi đưa bà hai lá thư Sam gửi. Như thường lệ, bà mở thư đọc ngay trong khi tôi cắm cúi ăn. Và như thường lệ, bà mỉm cười rồi cuối cùng lau nước mắt. “Nó ổn cả, bà nói, mà đúng thế thật.
Với sự ngoan cường điển hình của nhà Ruffin, Sam đã lấy bằng đại học đầu tiên, ngành kinh tế, và đã dồn tiền để học trường luật. Cậu nhớ nhà vô cùng, và chán nản thời tiết ở Canada. Nói thẳng là cậu nhớ mẹ và nhớ món mẹ nấu.
Tổng thống Carter đã ân xá cho mọi thanh niên trốn nhập ngũ, và Sam đang vật lộn chọn lựa giữa ở lại Canada hay về nhà. Nhiều đồng bạn ly hương của cậu đã thề sẽ ở lại và nhập quốc tịch Canada, và cậu cũng bị ảnh hưởng bởi tinh thần của họ. Cậu còn có người yêu ở đó nữa, dù chưa kể cho bố mẹ.
Có lúc chúng tôi bàn về chuyện trên báo, nhưng thường là nói về mục cáo phó hay thậm chí là mục quảng cáo. Vì bà Callie đọc hết không sót chữ nào, nên bà biết ai đang rao bán ổ chó con và ai muốn mua máy cắt cỏ cũ còn tốt. Và vì tuần nào cũng đọc hết từng chữ, nên bà biết nông trại này rộng chừng nào hay có mảnh đất nào đang rao bán. Bà nắm rất rõ giá cả thị trường. Có lúc chúng tôi đang ăn thì một chiếc xe chạy qua, bà sẽ hỏi, “Đó là chiếc gì vậy?”
“Plymouth Duster 1971,” tôi trả lời.
Và bà có thể nói ngay, “Nếu trong tình trạng tốt, nó tầm 2.500 đô đấy.”
Có lần Stan Atcavage cần bán một thuyền đánh cá dài bảy mét mà ông vừa tịch biên, tôi liền gọi cho bà Callie. Bà bảo, “Cách đây ba tuần, có một ông ở Karaway cần mua thuyền.” Tôi kiểm lại và tìm thấy mẩu tin quảng cáo đó. Ngay hôm sau, Stan đã bán được thuyền cho ông ấy.
Bà rất thích các thông cáo pháp lý, một trong những mảng thu lợi nhất của tờ báo. Chứng thư, tịch biên, đệ đơn ly hôn, chứng thực di chúc, tuyên bố phá sản, xác nhận sở hữu đất, hàng chục loại thông cáo pháp lý phải đăng trên tờ báo của hạt theo quy định của luật. Chúng tôi nhận hết, với giá cả phải chăng.
“Tôi thấy tài sản của ông Everett Wainwright đang được xác thực thừa kế,” bà Callie bảo.
“Tôi không nhớ đã đăng cáo phó của ông ấy lúc nào nữa.” tôi nói, miệng vẫn nhồm nhoàm. “Ông ấy mất khi nào nhỉ?”
“Năm hay sáu tháng trước. Thời gian qua đâu nhiều cáo phó.”
“Gia đình họ đưa gì thì tôi đăng cái đó thôi. Bà biết ông ấy à?”
“Ông ta có một cửa hàng tạp hóa gần đường ray từ lâu lắm rồi.” Nghe giọng, tôi thấy bà chẳng quan tâm ông Everett Wainwright này lắm.
“Ông ấy là người tốt hay xấu?”
“Ông ta có hai mức giá, giá cho dân da trắng và dân Negro. Hàng có bao giờ dán nhãn giá đâu, và cũng chỉ có mình ông ta đứng thu tiền. Khách hàng da trắng đi vào gọi, ‘Ông Wainwright, lon sữa đặc này nhiêu tiền?’ là ông ta hớn hở, ‘38 xu.’ Mới phút sau, tôi vào hỏi, ‘Ông Wainwright, lon sữa đặc này bao nhiêu tiền vậy?’ Là ông quát, ‘54 xu.’ Ông ta cũng chẳng thèm giấu giếm chuyện đó. Chẳng quan tâm luôn.”
Gần chín năm trời, tôi đã nghe bà kể nhiều chuyện cũ. Nhiều lúc tôi tưởng đã nghe hết sạch rồi, nhưng hóa ra kho chuyện của bà Callie là vô tận.
“Vậy sao bà lại mua hàng ở đó?”
“Đó là cửa hàng duy nhất chúng tôi được vào. Ông Monty Griffin có một cửa hàng lớn hơn ở sau rạp chiếu phim cũ, nhưng cách đây 20 năm, chỗ đó vẫn là cấm địa.”
“Ai cấm bà?”
“Ông Monty Griffin. Ông ta chẳng quan tâm ta có tiền hay không, chỉ không muốn có dân Negro đặt chân vào cửa hàng mình thôi.”
“Và ông Wainwright cũng chẳng quan tâm chuyện tiền bạc?”
“Quan tâm chứ. Ông ta chẳng muốn tiếp chúng tôi, nhưng lại muốn lấy tiền chúng tôi.”
Bà còn kể câu chuyện về một cậu da đen đang tha thẩn quanh cửa hàng thì bị ông Wainwright lấy chổi đánh đuổi. Để trả thù, cậu bé đột nhập vào cửa hàng ông một hoặc hai lần mỗi năm suốt một thời gian dài mà không bị phát hiện. Cậu trộm thuốc lá, kẹo và bẻ hết mọi cán chổi.
“Có đúng là họ hiến toàn bộ tiền của ông ta cho nhà thờ Giám lý?” bà hỏi.
“Tin đồn là thế.”
“Bao nhiêu?”
“Tầm trăm ngàn đô.”
“Họ đã kháo nhau là ông ta cố mua vé vào thiên đàng.” Từ lâu tôi quen với những chuyện đồn rất chính xác mà bà Callie nghe được về bên kia đường ray. Nhiều bạn của bà làm giúp việc cho các gia đình ở đó mà. Những người giúp việc biết hết mọi chuyện.
Bà Callie lại bàn đến chuyện đời sau, vì bà rất lo cho phần hồn của tôi. Bà lo tôi không thành một Cơ Đốc nhân đàng hoàng, lo tôi không được “tái sinh” hay “cứu rỗi.” Theo bà, phép rửa tội nhận khi còn nhỏ hoàn toàn không đủ. Khi đến một độ tuổi nhất định, tuổi có thể nhận trách nhiệm, thì để được “cứu rỗi” khỏi kiếp địa ngục đời đời, người đó phải vào nhà thờ (còn nhà thờ nào thì là chuyện tranh cãi vô tận) và công khai tuyên xưng đức tin vào Chúa Jesus Christ.
Bà Callie vẫn còn nặng ưu tư vì tôi chưa chịu làm vậy.
Và sau khi đã thăm 77 nhà thờ khác nhau, tôi phải thừa nhận rằng đại đa số người dân Hạt Ford có cùng niềm tin như bà, dù có nhiều biến thể khác nhau. Một phái rất mạnh là Hội thánh Đấng Christ. Họ bám vào quan niệm lạ lùng rằng họ, và chỉ có họ mà thôi, được tiền định sẽ lên thiên đàng. Mọi hội thánh khác đều rao giảng “giáo điều hệ phái.” Và họ, như nhiều phái khác, còn tin rằng một khi người ta đã đạt được sự cứu rỗi thì vẫn có thể bị mất đi vì hành xử xấu xa. Phái Baptist, phái có đông người theo nhất, thì tin vào “được cứu rỗi một lần là đủ.” Giáo lý này có vẻ rất dễ chịu đối với một số tín hữu Baptist dễ sa ngã mà tôi quen biết ở đây.
Tuy nhiên, tôi vẫn không phải là kẻ hoàn toàn vô vọng. Bà Callie quá mừng khi thấy tôi đi lễ nhà thờ và hấp thụ phúc âm. Bà tin chắc và cầu nguyện liên tục mong một ngày Chúa vươn tay ra chạm đến trái tim tôi và tôi sẽ quyết định theo Ngài, rồi bà và tôi sẽ được ở cùng nhau trên thiên đàng đời đời. Bà Callie thật sự sống hết mình vì ngày bà “về nhà vinh phúc.”
Bà bảo tôi, “Chúa nhật tuần này, mục sư Small sẽ chủ trì bàn tiệc của Chúa,” đấy là câu cửa miệng của bà để mời tôi cùng bà đi dự lễ nhà thờ. Nhưng mà mục sư Small giảng quá dài, tôi không chịu nổi.
“Cảm ơn bà, nhưng Chúa nhật này tôi lại đi thăm nhà thờ khác.”
“Xin Chúa chúc lành cho anh. Lần này là chỗ nào vậy?”
“Nhà thờ Baptist Nguyên khởi Maranatha.”
“Tôi chưa hề nghe tên nhà thờ đó.”
“Có trong sổ danh bạ điện thoại mà.”
“Nó nằm ở đâu vậy?”
“Đâu đó ở Dumas, hình như là vậy.”
“Của dân da đen hay da trắng?”
“Tôi chẳng biết nữa.”
Nhà thờ thứ 78 trong danh sách của tôi là nhà thờ Baptist Nguyên khởi Maranatha, như hạt ngọc nằm dưới chân đồi, kề bên một con lạch nhỏ, dưới bóng tán sồi ít nhất cũng phải 200 năm tuổi rồi. Nhà thờ sơn trắng, dài và hẹp, với mái tôn khá dốc và gác chuông vươn cao chìm trong tán sồi. Cửa trước đang mở rộng, chào đón tất cả mọi người đến thờ phượng. Một phiến đá đặt cạnh cửa đề năm khánh thành - 1813.
Tôi nhẹ nhàng ngồi vào hàng ghế sau, chỗ quen thuộc thường lệ, cạnh một quý ông ăn vận đẹp với tuổi đời chắc cũng bằng nhà thờ này. Sáng đó, có 58 người dự lễ. Các cửa sổ đều mở rộng, đón làn gió nhẹ thổi qua các tán cây len vào xoa dịu những bồn chồn của buổi sáng tất bật. Suốt một thế kỷ rưỡi, người ta đã quy tụ về đây, ngồi trên những hàng ghế này, nhìn qua những khung cửa này, ngắm những cái cây này, và thờ phượng một Chúa duy nhất. Ca đoàn hát một bài thánh ca nhẹ nhàng đưa tâm hồn tôi trôi dạt êm đềm trong cảm giác của một thời xa xưa.
Mục sư J. B. Cooper là một người khá vui tính. Tôi đã gặp ông vài lần trong nhiều năm chạy quanh viết cáo phó. Một lợi ích khi đi thăm các nhà thờ trong hạt là tôi có dịp làm quen với mọi mục sư ở đây. Chuyện này giúp cho các bài cáo phó của tôi phong phú hơn hẳn.
Mục sư Cooper nhìn xuống đàn chiên và nhận ra người khách lạ duy nhất là tôi. Ông gọi tên tôi, chào mừng tôi, và đùa vài câu về chuyện được đưa tin tử tế trên tờ Thời báo . Sau bốn năm thăm thú với 77 bài báo khá sinh động và tốt tính về các nhà thờ, giờ tôi chẳng thể nào lẻn vào một buổi phụng vụ mà không bị chú ý.
Đến bây giờ tôi vẫn thường bị bất ngờ vì những gì tôi gặp ở các nhà thờ vùng quê. Thường thì các bài giảng ầm ĩ và kéo dài, và nhiều lần tôi tự hỏi sao những người này có thể chịu đựng hết tuần đến tuần khác những lời mắng nhiếc thậm tệ lên án bất kỳ việc gì họ làm trong tuần qua. Ở vùng quê Mississippi, chuyện gì cũng là tội, và không chỉ những tội căn bản được viết trong Thập điều đâu. Tôi đã nghe nhiều lời rủa sả cay độc đối với truyền hình, phim ảnh, chơi bài, tạp chí, sự kiện thể thao, đồng phục cổ vũ viên, xóa bỏ phân tách chủng tộc, các nhà thờ đa chủng tộc, Disney (vì nó chiếu vào các tối Chúa nhật), khiêu vũ, uống rượu xã giao, tình dục trong hôn nhân, đủ mọi thứ.
Nhưng mục sư Cooper thì rất nhẹ nhàng. Bài giảng của ông, dài 28 phút, nói về sự khoan dung và yêu thương. Yêu thương là thông điệp chính của Đấng Christ. Đấng Christ chỉ yêu cầu một điều là chúng ta hãy yêu thương nhau. Đến phần lên bàn thờ kết ước với Chúa, ca đoàn hát ba tiểu khúc bài “Này con đây,” nhưng mọi người đều ngồi yên tại chỗ, vì hẳn họ đã làm thế nhiều lần rồi, còn tôi thì chưa đến lúc.
Như thường lệ, tôi nán lại vài phút để nói chuyện với mục sư Cooper. Tôi bảo là rất thích buổi lễ, thật lòng là thế, rồi tôi xin tên các ca viên để viết bài. Các giáo dân ở đây rất nồng hậu và thân thiện, nhưng đến đoạn này họ sẽ muốn chuyện trò cả ngày, kể những chuyện hay với hy vọng được lên báo. “Bố tôi đã xây mái nhà thờ vào năm 1902 đấy.” “Cơn lốc xoáy năm 1938 đi qua cách nhà thờ có chút xíu, lúc đó chúng tôi đang tổ chức buổi chấn hưng lòng đạo.”
Tôi đang trên đường ra thì thấy một người ngồi xe lăn đang được đẩy xuống con dốc cho người khuyết tật. Một gương mặt thân quen, tôi liền bước tới chào hỏi. Là Lenny Fargarson, gã què năm nào, bồi thẩm số bảy hay tám gì đấy. Trong phiên tòa năm 1970, anh vẫn có thể đi lại, dù không đẹp mắt lắm, nhưng giờ đã phải ngồi xe lăn. Bố anh chào hỏi tôi và tự giới thiệu. Mẹ anh vừa rồi đứng trong hội chuyện trò với tôi lúc nãy.
“Cho tôi nói chuyện với anh một lát?” Fargarson bảo tôi. Ở Mississippi, câu hỏi đó nghĩa là, “Ta phải nói chuyện và khá là lâu đấy.” Tôi ngồi xuống một ghế băng dưới tán sồi. Ông bố đẩy anh đến, rồi để chúng tôi nói chuyện riêng.
“Tôi đọc báo của anh hàng tuần,” Fargarson nói câu mào đầu rồi hỏi ngay, “Anh nghĩ Padgitt sẽ được thả không?”
“Có. Vấn đề chỉ là lúc nào. Hắn có thể đệ đơn xin ân xá mỗi năm một lần, liên tục.”
“Hắn có về lại đây không, Hạt Ford ấy?”
Tôi nhún vai, vì làm sao biết được. “Có lẽ. Nhà Padgitt bám dính cái cồn của chúng mà.”
Anh ngẫm nghĩ câu này một hồi. Khuôn mặt anh hốc hác, nhăn nheo như ông già. Nếu tôi nhớ đúng thì vào thời điểm diễn ra phiên tòa anh chỉ mới 25 tuổi. Chúng tôi suýt soát tuổi nhau, nhưng trông anh già gấp đôi tôi. Tôi đã nghe người ta kể chuyện anh bị thương vì máy cưa.
“Anh sợ chuyện đó à?” tôi hỏi.
Anh mỉm cười, “Giờ tôi còn sợ gì nữa, anh Traynor. Có Chúa là mục tử chăn dắt tôi.”
“Có Chúa bên ta,” tôi đáp, vẫn còn dư âm của bài giảng. Với tình trạng sức khỏe và chiếc xe lăn thế này, rất khó để hiểu rõ con người Lenny là thế nào. Anh đã chịu quá nhiều đau khổ. Đức tin của anh mạnh mẽ đấy, nhưng hình như tôi cũng thoáng thấy chút gì đó sợ hãi.
Bà Fargarson đang tiến tới chỗ chúng tôi.
“Anh sẽ viết bài nếu hắn được thả chứ?” Lenny hỏi.
“Tôi muốn lắm, nhưng không chắc sẽ thế nào.”
“Khi biết hắn ra tù, anh gọi cho tôi được không?”
“Dĩ nhiên là được.”
Bà Fargarson nấu món thịt nướng nồi cho bữa trưa Chúa nhật và bà không chấp nhận bất kỳ cớ thoái thác nào. Đột nhiên tôi bỗng thấy đói bụng, hơn nữa ở biệt thự Hocutt cũng chẳng có món gì ngon. Bữa trưa Chúa nhật thường lệ của tôi là sandwich nguội và một ly rượu vang dưới mái hiên, rồi ngủ vùi cả chiều.
Lenny sống với bố mẹ cạnh con đường lát sỏi cách nhà thờ ba cây số. Bố anh là bưu tá, mẹ là giáo viên. Còn có một người chị sống ở Tupelo. Trên bàn ăn với món thịt nướng, khoai tây và trà cũng ngọt như của bà Callie pha, chúng tôi ngồi kể lại phiên tòa vụ Kassellaw và phiên điều trần ân xá đầu tiên của Padgitt. Lenny có lẽ không quan tâm lắm chuyện Danny Padgitt được thả hay không, nhưng bố mẹ anh rõ ràng vô cùng lo sợ.