CHƯƠNG 36
Vào một chiều thứ Năm đầu tháng Năm, tôi nhận cuộc gọi từ luật sư của Hội đồng Ân xá. Buổi điều trần của Danny Padgitt sẽ diễn ra vào thứ Hai tuần sau.
“Tính thời gian chuẩn quá nhỉ?” tôi nói.
“Sao lại thế?” anh ta hỏi lại.
“Chúng tôi phát hành vào thứ Tư, nên giờ không thể đăng bài gì trước buổi điều trần.”
“Chúng tôi đâu theo dõi tờ báo của anh, anh Traynor. “Tôi không tin thế đâu,” tôi bật lại ngay.
“Anh nghĩ vậy không đúng đâu. Hội đồng đã quyết định anh không được tham dự buổi điều trần. Anh đã vi phạm quy định của chúng tôi khi tường thuật lần trước.”
“Tôi bị cấm cửa sao?”
“Đúng thế.”
“Đằng nào tôi cũng sẽ ở đó thôi.”
Tôi cúp máy rồi gọi cảnh sát trưởng McNatt. Ông cũng đã được thông báo về buổi điều trần nhưng không chắc có tham dự hay không. Ông đang bận tìm một đứa bé mất tích ở Wisconsin và rõ ràng cũng chẳng mấy hứng thú xen vào chuyện của nhà Padgitt.
Công tố viên của chúng tôi, Rufus Buckley, bận phiên tòa xử tội cướp có vũ khí ở Hạt Van Buren vào thứ Hai. Ông đã hứa sẽ gửi thư phản đối chuyện ân xá, nhưng chỉ là hứa hão. Thẩm phán tòa địa hạt, Omar Noose, cũng bận chủ trì phiên tòa đó nốt. Tôi bắt đầu nghĩ sẽ chẳng có ai đến đó để phản đối chuyện thả Padgitt.
Để chọc chơi, tôi thử rủ Baggy đi cùng. Ông liền thở dốc, viện ra cả sở lý do xin kiếu.
Rồi tôi qua báo tin cho Harry Rex. Ông cũng bận một phiên tòa xử ly hôn hôm thứ Hai ở Tupelo, nếu không đã đi với tôi đến Parchman rồi. “Thằng đó sẽ được thả, Willie à,” ông nói chắc nịch.
“Năm ngoái ta đã ngăn được mà,” tôi không chấp nhận nổi.
“Một khi đã bắt đầu xét ân xá, thì vấn đề chỉ là sớm hay muộn thôi.”
“Nhưng phải có ai đó đấu tranh phản đối chứ.”
“Đấu tranh làm gì? Nếu đằng nào hắn cũng được thả thì chọc vào đám Padgitt làm gì cho phiền. Cậu không kiếm được ai tình nguyện theo cậu đâu.”
Đúng là khó mà tìm được người tình nguyện khi cả thành phố đi trốn hết. Tôi vốn đã hình dung sẽ có cả đám đông phẫn nộ xông vào phá ngang buổi điều trần.
Nhưng đám đông hôm đó chỉ có ba người.
Wiley Meek đồng ý đi với tôi dù ông bảo sẽ không lên tiếng. Nếu họ thật sự cấm cửa tôi thì Wiley sẽ ngồi dự khán và thuật lại cho tôi. Và sự xuất hiện của cảnh sát trưởng McNatt giúp tôi tự tin hơn nhiều.
An ninh ở hành lang bên ngoài phòng điều trần khá chặt. Vừa thấy tôi, gã luật sư hội đồng liền nổi giận, chúng tôi lời qua tiếng lại. Các quản giáo liền vây lấy tôi, đẩy tôi ra khỏi tòa nhà, vào tận trong xe, rồi để lại hai gã đầu óc ngu si tứ chi phát triển đứng canh.
Theo lời Wiley, buổi điều trần trơn tru như sách. Lucien và đám nhà Padgitt ngồi chờ sẵn. Gã luật sư hội đồng đọc báo cáo nội bộ vẽ lên hình tượng Danny như một hướng đạo sinh mẫu mực. Công chức thụ lý hồ sơ ân xá cũng không kém cạnh. Rồi đến lượt Lucien lải nhải những chuyện lố bịch phi lý trong mười phút. Cuối cùng là bố của Danny, nài xin thống thiết cho con mình được thả. Con trai ông thiết tha muốn được về nhà, cùng gia đình chăm lo xẻ gỗ, rải sỏi, đổ nhựa đường, chạy xe tải và thầu xây dựng. Công việc sẽ nhiều đến nỗi chẳng có thời gian để dây vào rắc rối gì.
Cảnh sát trưởng McNatt đứng lên đại diện cho người dân Hạt Ford. Ông bồn chồn và vốn không phải diễn giả giỏi, nhưng đã mô tả lại vụ án một cách rất rõ ràng. Nhưng lạ là ông lại quên nhắc thành viên hội đồng ân xá về lời đe dọa giết người của Danny Padgitt nhắm vào bồi thẩm đoàn năm đó, 12 người được chọn ra từ chính dân chúng đã bầu ông lên. Với bốn phiếu thuận một phiếu chống, Danny Padgitt chính thức được ân xá.
Clanton thất vọng với phán quyết này, nhưng chỉ trong âm thầm. Trong phiên tòa, cả thành phố chỉ muốn máu đền máu và cay đắng khi bồi thẩm đoàn không thể ra bản án tử hình.
Nhưng đã chín năm trôi qua, và từ buổi điều trần đầu tiên, dân chúng đã chấp nhận rằng thế nào Danny Padgitt cũng sẽ được thả. Chẳng ai ngờ sẽ sớm đến thế, nhưng sau buổi điều trần, chúng tôi cũng chẳng còn thấy lạ nữa.
Hắn được thả vì hai yếu tố này. Thứ nhất, Rhoda Kassellaw không còn người thân thích nào ở đây. Không còn người bố người mẹ thương con nào để khơi gợi lòng cảm thông và đòi công lý. Không có người anh chị em nào để nhắc nhớ người ta về chuyện đau lòng năm đó. Con cái của cô cũng đã đi xa và chìm vào quên lãng. Cô sống cuộc đời khá tách biệt và không có người bạn nào đủ thân thiết để oán hận kẻ giết người.
Yếu tố thứ hai là nhà Padgitt sống ở một thế giới khác. Hiếm khi có ai chạm mặt người nhà họ, và không khó để chúng tôi tin rằng Danny sẽ lên cồn, không bao giờ ló mặt ra nữa. Cho nên với người dân Hạt Ford, hắn ở Parchman hay cồn Padgitt cũng đâu có gì khác biệt. Nếu không bao giờ thấy mặt thì sẽ chẳng nhớ đến tội ác của hắn. Suốt chín năm từ sau phiên tòa, tôi chưa hề chạm mặt người nhà Padgitt nào ở Clanton. Trong bài xã luận gay gắt trong số báo sau buổi điều trần, tôi nói thẳng “một kẻ giết người máu lạnh lại bước đi giữa chúng ta.” Nhưng đâu hẳn là vậy.
Tin đăng trang nhất và bài xã luận chẳng khiến ai quan tâm đến mức gửi thư cho tòa soạn. Người ta có bàn tán đấy, nhưng chẳng xôn xao và cũng chẳng được bao lâu.
Một tuần sau khi Padgitt được thả, cuối giờ sáng, Baggy nhẹ nhàng vào văn phòng tôi, đóng cửa lại, và như thường lệ, đấy là dấu hiệu có tin tốt. Ông vừa nghe ngóng được vài chuyện sốt dẻo nên phải đóng cửa cho kỹ mới dám kể tôi nghe ấy mà.
Thường lệ, tôi đến văn phòng tầm 11:00. Và cũng như thường lệ, khoảng giữa trưa là Baggy bắt đầu một tiếng kể lể đủ thứ tin đồn, chuyện lạ.
Ông nhìn quanh như sợ tường có tai có mắt, rồi nói nhỏ, “Nhà Padgitt phải tốn trăm ngàn đô để đưa thằng đó ra.”
Tôi chẳng ngạc nhiên về số tiền hay chuyện hối lộ, nhưng ngạc nhiên khi Baggy moi được tin đó.
“Không,” tôi nói. Phán câu đó luôn khiến ông thêm hăng. “Chuyện là thế đấy,” ông đắc ý nói, câu cửa miệng mỗi khi ông chắc mẩm.
“Ai nhận tiền?”
“Phần này mới hay nè. Anh không tin nổi đâu.”
"Ai?"
“Anh sẽ sốc cho xem.”
"Ai?"
Baggy chầm chậm làm nghi lễ châm thuốc. Thời gian đầu, tôi sẽ há miệng ngóng tin sốt dẻo ông sắp nói, nhưng qua năm tháng, tôi biết là chuyện càng sốt thì nghi thức càng thong thả. Thế nên, tôi lại cúi xuống viết bài.
“Có lẽ không hẳn là bất ngờ đâu,” ông vẫn tiếp tục rào trước đón sau. “Không bất ngờ chút nào.”
“Ông có định nói không nào?”
“Theo.”
“Tham nghị viên Morton?”
“Chuyện là thế đấy.”
Đúng là sốc thật, và tôi phải thể hiện ra hết nếu không người kể sẽ mất hứng. “Theo sao?” tôi hỏi.
“Ông ta là chủ tịch Ban Cải huấn của tham nghị viện. Ông ta nắm chức đó cả đời, biết cách chung chi quá rồi. Ông ta muốn trăm ngàn đô, nhà Padgitt muốn chi, thỏa thuận xong là hắn được ra. Đơn giản vậy thôi.”
“Tôi cứ tưởng Theo không ăn hối lộ,” tôi nói, thật lòng đấy. Vậy mà bị đáp trả bằng cái khịt mũi rõ to.
“Đừng ngây thơ thế chứ,” Baggy nói ngay. Baggy biết tuốt mà.
“Vậy ông nghe tin từ ai?”
“Chuyện này không nói được.” Có khả năng hội đánh bài của ông đã dựng chuyện để xem nó lan nhanh thế nào trong quảng trường trước khi có người thuật lại chuyện này vào tai họ. Nhưng cũng hoàn toàn có khả năng Baggy đã nghe ngóng được gì đó thật. Nhưng mà thông tin này cũng chẳng nghĩa lý gì. Tiền mặt làm sao mà dò dấu vết nổi.
Ngay khi tôi ngừng mơ mộng chuyện nghỉ hưu sớm, lấy đống tiền, lên máy bay đi châu Âu, xách ba lô cuốc bộ xuyên nước Úc, ngay khi tôi vừa trở lại nhịp điệu quen thuộc của viết bài và cáo phó, hăm hở đăng quảng cáo cho mọi doanh nghiệp trong thành phố, thì Gary McGrew lại xuất hiện. Lần này, ông đem theo thân chủ đi cùng.
Ray Noble là một trong ba trụ cột của một công ty nắm quyền sở hữu 30 tờ tuần báo ở vùng Thâm Nam và đang muốn tăng con số này thêm nữa. Như cậu bạn đại học Nick Diener của tôi, Noble cũng xuất thân trong một gia đình báo chí và nói chuyện rất chuẩn. Anh bảo tôi phải thề giữ bí mật, rồi trình bày kế hoạch của mình. Công ty của anh muốn mua tờ Thời báo , cộng thêm hai tờ báo ở Hạt Tyler và Hạt Van Buren. Thiết bị của hai tờ kia sẽ bị bán đi, toàn bộ chuyện in ấn sẽ được thực hiện ở Clanton vì chúng tôi có máy in xịn hơn. Họ sẽ chỉnh đốn công tác kế toán, tăng cường mảng in quảng cáo. Lời đề nghị 1.200.000 của họ vốn đã là mức định giá cao rồi, nhưng giờ họ sẵn sàng nâng lên 1.300.000, trả toàn bộ bằng tiền mặt.
“Sau khi nộp thuế, anh sẽ còn trong tay cả triệu đô,” Noble bảo.
“Tôi biết tính mà,” tôi nói, như thể bán mớ báo. Những chữ “cả triệu đô” cứ vang vang trong đầu tôi.
Họ lại ép thêm chút nữa. Họ cũng đã tìm đến hai tờ báo kia và tôi có cảm giác kết quả chưa được như họ mong đợi. Tờ Thời báo của tôi là mấu chốt. Chúng tôi có trang thiết bị tốt hơn, con số phát hành cao hơn.
Tôi từ chối và họ ra về, nhưng cả ba chúng tôi đều biết đây sẽ không phải là lần cuối chúng tôi gặp nhau.
Mười một năm sau khi trốn khỏi Hạt Ford, Sam trở lại theo cách không khác gì lúc anh đi, bằng xe buýt lúc nửa đêm. Anh về nhà được hai ngày tôi mới biết tin. Trưa thứ Năm, tôi đến nhà bà Callie như thường lệ, thì thấy Sam đang ngồi ở hiên, nở nụ cười tươi rói y hệt mẹ mình. Hôm nay, trông bà Callie như trẻ hơn mười tuổi. Bà chiên gà và trong vườn có bao nhiêu thứ rau quả, bà đem ra nấu hết. Ông Esau cũng ngồi vào bàn và chúng tôi ăn uống chuyện trò vui vẻ suốt ba tiếng.
Giờ Sam đã có một bằng đại học và đang dự định vào trường luật. Cậu suýt cưới một cô gái người Canada nhưng bị gia đình cô ấy phản đối gay gắt. Bà Callie khá nhẹ nhõm khi biết chuyện không thành. Lâu nay, Sam vẫn không tiết lộ gì chuyện tình của mình cho bố mẹ.
Cậu dự định ở lại Clanton vài ngày, hầu như chỉ ở trong nhà, đến đêm mới dám đi quanh Hạ trấn một chút. Tôi đã hứa sẽ nói chuyện với Harry Rex, hỏi dò về bố con nhà Durant. Theo các thông báo pháp lý in ở Thời đại, tôi biết ông Durant đã tái hôn rồi ly dị lần hai.
Sam muốn ngắm nghía thành phố, nên chiều hôm đó, tôi chở cậu đi trên chiếc Spitfire. Giấu mặt dưới mũ bóng chày Detroit Tigers, cậu hé mắt nhìn ngắm thành phố nhỏ mà cậu gọi là quê hương. Tôi chỉ cho cậu văn phòng của tôi, nhà của tôi, Bargain City và phần mở rộng phía tây thành phố. Chúng tôi chạy vòng quanh tòa án, tôi kể cho cậu vụ xả súng và màn thoát hiểm tức cười của Baggy. Hầu hết mọi chuyện này, cậu vốn đã biết qua thư của bà Callie rồi.
Khi tôi thả cậu xuống trước nhà Ruffin, Sam hỏi tôi, “Padgitt được thả thật à?”
“Chưa ai gặp hắn cả” tôi nói, “nhưng tôi chắc chắn hắn chuồn về cồn rồi.”
“Anh nghĩ sẽ có chuyện gì không?”
“Không có đâu.”
“Em cũng nghĩ thế, nhưng nói mãi mẹ em vẫn không chịu nghe.”
“Sẽ không có chuyện gì đâu, Sam à.”