CHƯƠNG 37
Phát súng duy nhất đã đoạt mạng Lenny Fargarson được bắn ra từ một khẩu súng săn cỡ 30,06 ly. Hẳn hung thủ đã đứng trong phạm vi 200 mét từ hiên trước nhà, nơi anh ngồi. Trước sân nhà anh là một rặng cây rậm rạp, khả năng cao là hung thủ đã nấp trên cây, thong thả bóp cò qua tầm ngắm thoáng đãng mà Lenny không hề hay biết.
Chẳng ai nghe tiếng súng. Hôm đó, Lenny đang ngồi trên xe lăn trước hiên, đọc một quyển sách anh mượn hàng tuần ở thư viện Clanton. Bố anh đang đi giao thư. Mẹ anh đang mua sắm ở Bargain City. Và khả năng cao là Lenny chết ngay lập tức, không đau đớn gì. Viên đạn đi vào bên phải đầu, ngay trên hàm, rồi xuyên ra trên tai trái, để lại một lỗ to tướng.
Khi mẹ anh về đến nhà, Lenny đã trút hơi thở cuối từ lâu rồi. Bà đã đủ tự chủ, không chạm đến thi thể anh hay hiện trường. Máu chảy khắp hiên, thậm chí nhỏ xuống các bậc thang.
Wiley nghe báo cáo vụ việc qua đài thu sóng liên lạc của cảnh sát. Ông gọi tôi với thông báo rợn người, “Bắt đầu rồi. Gã què Fargarson đã chết.”
Wiley chạy đến văn phòng đón tôi rồi lao thẳng đến hiện trường. Cả hai chúng tôi chẳng ai nói lời nào, nhưng suy nghĩ thì giống hệt nhau.
Lenny vẫn đang nằm trước hiên. Viên đạn khiến anh ngã ra khỏi xe lăn, nằm nghiêng người, hướng mặt vào nhà. Cảnh sát trưởng McNatt bảo chúng tôi đừng chụp ảnh và chúng tôi rất sẵn lòng tuân thủ. Đằng nào tôi cũng không đăng hình này lên báo.
Bạn bè và người thân bắt đầu kéo đến, một cảnh sát đứng gác chỉ cho họ vào nhà bằng lối cửa hông. McNatt dùng lính của mình tạo thành rào chắn che thi thể. Tôi lùi lại, cố nuốt trôi cảnh tượng đau lòng đó.
Khi thi thể đã được đặt lên cáng đưa vào xe cứu thương, cảnh sát trưởng McNatt mới tiến đến, đứng dựa vào chiếc bán tải kế bên tôi.
“Anh có nghĩ cái tôi nghĩ không?”
“Có.”
“Anh tìm giúp tôi danh sách bồi thẩm năm đó nhé.”
Dù chúng tôi chưa hề in tên các bồi thẩm lên báo, nhưng tôi có đủ thông tin của họ trong hồ sơ lưu trữ. “Được.”
“Sẽ mất bao lâu?” McNatt hỏi.
“Cho tôi một tiếng. Ông định làm thế nào?”
“Tôi sẽ báo cho họ.”
Khi chúng tôi rời đi, cảnh sát bắt đầu lùng sục rặng cây quanh nhà Fargarson.
Tôi đem danh sách đến văn phòng cảnh sát trưởng và chúng tôi cùng ngồi điểm qua. Năm 1977, tôi đã viết cáo phó cho bồi thẩm số năm, Fred Bilroy, một kiểm lâm về hưu, bất ngờ qua đời vì viêm phổi. Theo tôi biết, cả mười người còn lại vẫn còn sống.
McNatt đưa danh sách cho ba cảnh sát. Họ sẽ tản ra đi cấp báo một tin mà chẳng ai muốn nghe bao giờ. Tôi tình nguyện báo cho bà Callie Ruffin.
Bà đang ngồi ở hiện xem hai bố con chí chóe trên bàn cờ. Họ phấn khởi khi thấy tôi, nhưng niềm vui trong ánh mắt sớm bị dập tắt. “Tôi có tin rất đáng ngại, bà Callie,” tôi mở lời bằng giọng sầu não. Cả ba nín thở chờ đợi.
“Lenny Fargarson, anh bạn bị què trong bồi thẩm đoàn năm đó, đã bị giết chiều nay.”
Bà đưa tay che miệng rồi ngồi phịch xuống ghế. Sam chạy đến vỗ về bà. Tôi thuật lại ngắn gọn chuyện đã xảy ra.
“Cậu ấy là một con chiên ngoan đạo,” bà Callie nói. “Chúng tôi đã cầu nguyện với nhau trước khi bắt đầu cân nhắc phán quyết.” Bà không khóc, nhưng nước mắt cũng chực sẵn rồi. Ông Esau đi lấy cho bà một viên thuốc huyết áp. Ông và Sam ngồi hai bên ghế bà, còn tôi ngồi trên xích đu. Chúng tôi cứ thế ngồi yên ở mái hiên nhỏ đó. Bà Callie cứ trầm ngâm không nói lời nào.
Hôm đó là một tối xuân ấm áp, trăng gần tròn và Hạ trấn huyên náo với tiếng con nít chạy xe đạp, hàng xóm gọi nhau qua bờ dậu và một nhóm chơi bóng rổ ở cuối đường. Một đám nhóc mười tuổi bắt đầu săm soi chiếc Spitfire của tôi, Sam chạy ra đuổi chúng đi. Đây là lần thứ hai tôi ở đây khi trời đã tối. “Tối nào cũng như thế này à?” cuối cùng tôi cũng mở miệng phá tan im lặng.
“Phải, thời tiết đẹp mà,” Sam ngập ngừng. “Ở đây thích lắm. Ai cũng quen biết nhau. Năm chín tuổi, em chơi bóng chày làm vỡ kính xe người ta. Em liền quay đầu chạy về nhà, đến nơi thì mẹ đã chờ sẵn ở hiên rồi. Mẹ biết hết. Em phải quay lại chỗ đó, nhận lỗi và hứa đền bù đầy đủ.”
“Và con đã làm thế,” ông Esau cũng tham gia.
“Em phải làm lụng sáu tháng để dành dụm 120 đô bồi thường đấy.”
Bà Callie hẳn sẽ mỉm cười vì chuyện cũ này, nhưng giờ trong đầu bà chỉ toàn nghĩ đến Lenny Fargarson. Dù chín năm rồi chưa gặp lại, nhưng bà đã có những ký ức thân mến với anh. Cái chết của Lenny hẳn làm bà buồn, nhưng chắc chắn còn làm bà sợ hơn nữa.
Ông Esau đi vào pha trà chanh, và khi trở ra, ông lặng lẽ nhét một khẩu shotgun hai nòng sau ghế, trong tầm tay ông nhưng khuất mắt vợ.
Trăng lên cao dần, xe cộ cũng bắt đầu thưa thớt, hàng xóm ai về nhà nấy. Tôi thấy nếu bà Callie ở lại nhà mình thì sẽ thành mục tiêu rất dễ hạ. Kế bên và trước mặt đều là nhà. Chẳng có đồi núi, tháp, hay khoảng trống nào trong tầm mắt.
Tôi không nói ra, nhưng chắc chắn ông Esau và Sam cũng cùng suy nghĩ với tôi. Khi bà Callie bảo muốn đi ngủ, tôi chào tạm biệt và lái xe về lại trại tạm giam. Ở đó đầy cảnh sát và bầu không khí sôi động chỉ có mỗi khi có án mạng. Tôi không khỏi nhớ lại khoảnh khắc chín năm trước, khi Danny Padgitt bị bắt về đây, trên áo còn dính máu.
Các cảnh sát không tìm được hai trong số các bồi thẩm, họ đã chuyển đi nơi khác và cảnh sát trưởng McNatt đã cố tìm tung tích họ. Ông hỏi về bà Callie, tôi báo bà an toàn cả. Tôi không báo chuyện Sam về nhà làm gì.
Ông đóng cửa văn phòng và bảo muốn nhờ tôi một việc. “Ngày mai, anh nói chuyện với Lucien Wilbanks được chứ?”
“Tại sao lại là tôi?”
“Tôi nói cũng được, nhưng tôi không chịu nổi lão, và lão cũng thế.”
“Ai mà chẳng ghét Lucien,” tôi đáp.
“Ngoại trừ...”
“Ngoại trừ... Harry Rex?”
“Harry Rex. Anh và Harry Rex đến nói chuyện với Lucien thì sao? Xem thử ông ta có thể làm trung gian với nhà Padgitt được không. Đằng nào, tôi cũng phải nói chuyện với Danny mà.”
“Chắc vậy. Ông là cảnh sát trưởng mà.”
“Anh cứ nói chuyện với Lucien Wilbanks, chỉ cần vậy thôi. Xem thử lão thế nào. Nếu ổn cả, có lẽ tôi sẽ đích thân đi hỏi chuyện lão. Cảnh sát trưởng tìm đến đầu tiên thì tinh thần khác hẳn.”
“Thà ông lấy roi đánh tôi còn hơn,” tôi nói, nhưng không đùa chút nào.
“Nhưng anh sẽ giúp tôi chứ?”
“Để tôi xem sao đã.”
Harry Rex cũng chẳng hứng thú gì với chuyện này. Tại sao chúng tôi phải can dự? Chúng tôi tiếp tục bàn tính khi ăn sáng ở quán, một việc chẳng thường làm, nhưng hôm nay phải hóng xem mọi người bàn tán thế nào. Chẳng ngạc nhiên khi xuất hiện quá nhiều chuyên gia đầy lo âu, nêu ra đủ thứ chi tiết và giả thuyết về vụ án mạng của Fargarson. Chúng tôi tập trung nghe hơn là nói, đến 8:30 thì đi ra.
Cách quán hai nhà là văn phòng của Wilbanks. Khi đang đi ngang qua nó, tôi dừng lại, “Làm thôi.”
Trước thời Lucien, nhà Wilbanks là một trong những gia tộc nền tảng của xã hội, thương mại và luật pháp ở Clanton. Trong thời hoàng kim của mình, họ nắm giữ nhiều đất đai và ngân hàng, mọi người trong gia tộc đều học luật, một số còn tốt nghiệp những trường Ivy League. Nhưng vẻ huy hoàng cứ phai nhạt dần. Lucien là nam giới có chút máu mặt cuối cùng của nhà Wilbanks và khả năng cao là lão sắp bị tước giấy hành nghề luật.
Ethel Twitty, bà thư ký lâu năm của lão, chào đón chúng tôi một cách lạnh lùng, thậm chí hình như còn khịt mũi về phía Harry Rex trong khi ông ấy lầm bầm với tôi, “Con mụ hiểm ác nhất thành phố đấy,” và lầm bầm có vẻ vừa đủ cho bà ấy nghe. Rõ ràng hai người họ đã có thù oán nhiều năm rồi. Sếp của bà có ở văn phòng, nhưng chúng tôi muốn gì đây?
“Chúng tôi muốn gặp Lucien,” Harry Rex bảo. “Không thì tới đây làm gì chứ?” Bà nhấc máy gọi cho Lucien ở trên lầu và chúng tôi ngồi chờ. “Tôi không rảnh cả ngày đâu!” Harry Rex quát lên khi chờ mãi chưa thấy.
“Mời lên,” bà nói, chỉ muốn chúng tôi đi khuất mắt cho rồi. Văn phòng Lucien rất rộng, ít nhất cũng phải ngang chín mét, trần cao ba mét, với loạt cửa kính lớn nhìn xuống quảng trường. Tòa nhà này ở mạn Bắc, nằm trực diện với tòa soạn Thời báo , nhưng may mà có tòa án chắn giữa, nên tôi khỏi phải thoáng thấy bộ mặt của Lucien mỗi khi ra ban công.
Lão chào hỏi lãnh đạm, như thể chúng tôi vừa xen ngang suy tư lớn nào đó của lão. Dù mới đầu giờ sáng, nhưng nhìn bàn của lão như thể cả tối qua lão làm việc xuyên đêm vậy. Lão có mái tóc muối tiêu dài đến cổ, bộ râu dê lỗi thời và đôi mắt đỏ ngầu mệt mỏi của dân nghiện rượu. “Nhân dịp gì đây?” lão hỏi, rất chậm rãi. Chúng tôi đưa mắt nhìn nhau, thể hiện sự khinh bỉ hết sức có thể dành cho nhau.
"Hôm qua đã có án mạng, Lucien,” Harry Rex mở lời. “Lenny Fargarson, gã què trong bồi thẩm đoàn năm đó.”
“Tôi cho rằng cuộc nói chuyện này sẽ không được ghi lại nhỉ?” lão nhìn về phía tôi.
“Phải,” tôi nói. “Chỉ là cảnh sát trưởng McNatt nhờ tôi ghé qua hỏi thăm ông. Và tôi mời cả Harry Rex đi cùng.”
“Vậy là ta chuyện trò cho vui?”
“Có lẽ. Bàn tán đôi chút về vụ án mạng ấy mà.”
“Tôi biết hết rồi,” lão nói luôn.
“Gần đây, ông có nói chuyện với Danny Padgitt không?” Harry Rex hỏi luôn.
“Từ khi cậu ấy được thả thì không.”
“Hắn có ở trong hạt này không?”
“Cậu ấy ở trong phạm vi bang, còn ở đâu thì tôi không chắc. Nếu cậu ấy ra khỏi bang mà chưa được phép thì sẽ vi phạm điều kiện ân xá.”
Sao họ không ân xá cho hắn ở chỗ khác chứ, Wyoming chẳng hạn? Bắt hắn phải quanh quẩn ở nơi hắn từng phạm tội có vẻ quái lạ thật mà. Sao không tống khứ hắn đi cho khuất mắt?
“Cảnh sát trưởng McNatt muốn nói chuyện với hắn,” tôi nói.
“Ồ, thế à? Chuyện đó thì liên quan gì đến cậu và tôi? Bảo cảnh sát trưởng cứ đi mà nói chuyện với Danny.”
“Đâu đơn giản như thế, ông biết mà” Harry Rex nói vào. “Cảnh sát trưởng có bằng chứng gì chống lại thân chủ của tôi không? Có chứng cứ gì không? Ông biết căn cứ hợp lý là gì nhỉ, Harry Rex? Đâu thể cứ thế mà lôi cổ người dễ bị tình nghi về được. Phải có chứng cứ rõ ràng hơn thế.”
“Các bồi thẩm năm đó đã bị đe dọa trực tiếp,” tôi nói. “Đã chín năm rồi mà.”
“Vẫn là lời đe dọa, chúng ta đều nhớ rõ chuyện đó. Và giờ, chỉ hai tuần sau khi hắn được thả, một trong các bồi thẩm đã bị giết.”
“Thế vẫn chưa đủ chứng cứ. Khi nào có thêm thì tôi sẽ đi hỏi thân chủ xem sao. Còn giờ các ông chỉ có ức đoán vô căn cứ. Nhưng thành phố này thích có chuyện để đàm tiếu mà.”
“Tôi không biết hắn ở đâu, nhưng còn ông, Lucien?” Harry Rex hỏi.
“Tôi cho rằng cậu ấy đang ở trên cồn, với số còn lại,” Lucien nói như thể đám người trên cồn là bầy chuột vậy.
“Nếu có thêm bồi thẩm nào bị bắn thì sao?” Harry Rex bắt đầu dồn ép.
Lucien thả tập giấy xuống bàn, chống khuỷu tay ngồi xuống, đổi giọng, “Tôi phải làm gì đây, Harry Rex? Gọi cho nó, bảo ‘Danny, tôi chắc chắn cậu không giết bồi thẩm vụ của mình đâu, nhưng nếu có, thì thôi, làm bé ngoan và dừng tay đi nhé.’ Nghĩ nó chịu nghe tôi hả? Đáng ra đâu có chuyện này nếu thằng ngốc đó chịu nghe lời tôi. Tôi đã nài nỉ nó đừng lên bục tự biện hộ. Nó là thằng ngu, Harry Rex! Ông là luật sư, ông biết thừa mấy thân chủ mất não mà. Chẳng có cách nào ghìm cương được chúng.”
“Nếu có thêm bồi thẩm nào bị bắn thì sao?” Harry Rex lặp lại câu hỏi.
“Thì có thêm bồi thẩm chết thôi.”
Tôi chịu hết nổi, bật phắt dậy. “Ông là tên khốn bệnh hoạn.” tôi nói rồi quay ra cửa.
“Đừng có đăng lời nào ta vừa nói đấy,” lão càu nhàu sau lưng tôi.
“Kệ mẹ ông,” tôi vừa hét vừa đóng sầm cửa.
Chiều hôm đó, ông Magargel gọi từ nhà tang lễ hỏi xem tôi có thể ghé qua không. Ông bà Fargarson đã đến đó chọn quan tài và sắp xếp tang lễ. Như đã làm nhiều lần lâu nay, tôi gặp họ ở phòng C, phòng kính viếng nhỏ nhất và hiếm khi sử dụng.
Mục sư J. B. Cooper ở nhà thờ Baptist Nguyên khởi Maranatha cũng ở đó với họ, ông đúng là một vị thánh. Họ làm gì cũng cậy nhờ ông.
Ít nhất hai lần một năm, tôi phải ngồi lại với một gia đình mất đi người thân yêu một cách thương tâm. Hầu như luôn là tai nạn xe cộ hoặc tai nạn nông trường, những chuyện không ngờ. Người còn sống quá sốc không thể nghĩ thông hay ra quyết định gì. Những người mạnh mẽ nhất có gắng gượng được thì cũng thất thần. Người yếu đuối thường tê dại và khóc mãi không thôi. Bà Fargarson vốn là người mạnh mẽ hơn, nhưng nỗi kinh hoàng khi thấy con trai mình bay mất nửa đầu đã khiến bà không thể nào là chính mình được nữa. Ông Fargarson thì cứ nhìn xuống sàn.
Mục sư Cooper nhẹ nhàng thuật cho tôi thông tin để viết cáo phó, nhiều chuyện trong đó vốn có sẵn trong ký ức ông rồi. Từ khi bị chấn thương cột sống năm 15 tuổi, Lenny đã mơ được lên thiên đàng, phục hồi lại thể xác hư mất và ngày ngày được bước đi tay trong tay với Đấng Cứu Thế. Chúng tôi sẽ viết cáo phó theo tinh thần như thế, và bà Fargarson rất lấy làm cảm kích. Bà đưa tôi một tấm ảnh chụp Lenny cầm cần câu ngồi bên hồ, và tôi hứa sẽ đăng nó lên trang nhất.
Như mọi bậc cha mẹ đang đau buồn, đến lúc ra về, họ cảm ơn tôi rối rít, nhất quyết phải ôm tôi thật chặt mới chịu. Tang quyến cần người khác như thế đấy, nhất là lúc đang ở nhà tang lễ.
Tôi ghé qua quán của Pepe mua một ít đồ ăn đem về, rồi lái đến Hạ trấn, thấy Sam đang chơi bóng chuyền, bà Callie ngủ trong nhà, còn ông Esau thì ngồi gác với khẩu shotgun bên cạnh. Một lát sau, chúng tôi ngồi ăn ở hiên, dù bà chỉ đụng chút xíu món đồ ăn ngoại quốc này. Bà không đói, dù ông Esau kể là cả ngày bà cũng ăn rất ít.
Tôi lôi ra bảng cờ tào cáo và dạy Sam chơi. Ông Esau thích chơi cờ đam hơn. Bà Callie thì tâm niệm trò nào liên quan đến hột xí ngầu thì đều có tội, nhưng bà không lên lớp gì.
Chúng tôi ngồi đó hàng giờ, khi màn đêm xuống dần, ngắm nhìn hoạt động sôi nổi của Hạ trấn. Trời bắt đầu chuyển sang hè, ngày dài hơn và nóng hơn, nên ai cũng thích đổ ra đường vào giờ muộn này.
Buster, vệ sĩ bán thời gian của tôi, cứ nửa tiếng lại chạy xe ngang qua. Tới đoạn trước nhà Ruffin, anh sẽ chạy chậm lại, tôi đưa tay vẫy báo hiệu mọi chuyện ổn cả, rồi anh lướt đi về lại cổng biệt thự Hocutt. Một xe tuần tra đỗ lại cách nhà Ruffin hai nhà rồi nằm yên ở đó một lúc lâu. Cảnh sát trưởng McNatt đã tuyển ba cảnh sát da đen, và hai người trong số họ được phân công canh gác cho bà Callie.
Những người khác cũng đang canh chừng. Khi bà Callie đi ngủ rồi, ông Esau chỉ tay ra đường, chỗ mái hiên tối nhà Braxton. “Tully ở bên kia. Quan sát tất cả.”
“Ông ấy bảo sẽ thức cả đêm,” Sam nói thêm.
Nổ súng ở Hạ trấn có vẻ không phải quyết định khôn ngoan gì.
Sau 11:00, tôi ra về, qua đường ray, lái trên những ngả đường vắng hoe của Clanton. Thành phố đang căng thẳng, nín thở chờ đợi, vì chuyện đã được khơi mào này còn lâu mới kết thúc.