← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 38

Bà Callie nhất quyết đi dự tang lễ Lenny Fargarson. Sam và Esau phản đối kịch liệt, nhưng như lâu nay vẫn vậy, khi bà đã quyết chuyện gì thì chắc chắn phải làm như thế. Tôi đã bàn bạc với cảnh sát trưởng McNatt, và ông kết luận gọn lỏn, “Bà ấy là người trưởng thành rồi.” Ông biết không bồi thẩm nào dự định đến tang lễ, nhưng tổ chức canh gác cho sự kiện như thế này không phải dễ.

Tôi còn gọi mục sư Cooper để cảnh báo trước. Ông trả lời tôi, “Bà ấy sẽ được chào đón ở nhà thờ nhỏ của chúng tôi. Nhưng nhớ đến sớm nhé.”

Rất hiếm khi người da đen và da trắng ở Hạt Ford thờ phượng chung nhà thờ. Họ nhiệt thành tin vào cùng một Chúa nhưng lại chọn những cách rất khác nhau để thờ phượng Ngài. Với đa số người da trắng, lịch trình ngày Chúa nhật là đến nhà thờ lúc 5:30 và ăn trưa lúc 12:30. Người da đen thì chẳng quan tâm lắm đến chuyện mấy giờ thì tan lễ, hay thậm chí là mấy giờ thì nhập lễ. Tôi đã thăm 27 nhà thờ da đen và chưa hề thấy họ ngồi lại đọc kinh ăn trưa trước 1:30, thật ra thường thì phải tận 3:00 chiều. Vài nhà thờ tổ chức lễ cả ngày, với khoảng nghỉ ăn trưa ngắn ở hội trường rồi quay lại nhà thờ ngay để tiếp tục nghi lễ dài hơi.

Dân da trắng chẳng bao giờ chịu nổi kiểu sùng đạo cuồng nhiệt như thế.

Nhưng tang lễ thì khác. Khi bà Callie, đi cùng Sam và ông Esau, bước vào nhà thờ Baptist Nguyên khởi Maranatha, có vài người trố mắt nhìn, nhưng chỉ thế mà thôi. Nếu họ bước vào đây vào lễ sáng Chúa nhật thì đã gây bực bội ghê gớm rồi.

Chúng tôi đến sớm 45 phút mà nhà thờ lúc đó đã gần hết chỗ. Tôi ngồi nhìn qua khung cửa sổ ngắm cảnh trong lúc ngoài kia xe vẫn tiếp tục đổ về. Loa phóng thanh được lắp trên một trong những cây sồi cổ thụ, và mọi người quy tụ ở đó khi trong nhà thờ đã kín chỗ. Ca đoàn hát bài “Thập giá xù xì yêu dấu” và những tiếng nấc bắt đầu vang lên. Mục sư Cooper cất lời nhắn nhủ nhẹ nhàng bảo chúng tôi đừng chất vấn tại sao người tốt lại gặp chuyện xấu. Thiên Chúa luôn tể trị tất cả, và dù chúng ta quá nhỏ bé không thể hiểu hết sự khôn ngoan và uy nghi vô tận của Ngài, nhưng đến một ngày Ngài sẽ tỏ lộ hết cho chúng ta. Lenny giờ đang ở bên Ngài, và bao lâu nay, Lenny đã khao khát được như thế.

Họ chôn anh ở sau nhà thờ, một nghĩa trang nhỏ trắng tinh sau bờ rào sắt. Bà Callie bám chặt tay tôi và cầu nguyện sốt sắng khi quan tài được hạ xuống huyệt. Một ca viên hát solo bài “Ân sủng diệu kỳ” rồi mục sư Cooper cất lời cảm ơn cộng đoàn đã đến tiễn đưa người quá cố. Bánh trái được dọn ra ở hội trường sau nhà thờ, và hầu hết đều nán lại vài phút để viếng mộ hoặc có đôi lời phân ưu với ông bà Fargarson.

Tôi thấy cảnh sát trưởng McNatt và gật đầu ra dấu muốn nói chuyện, rồi chúng tôi ra mặt trước nhà thờ giờ đang vắng hoe để khỏi ai nghe thấy. Ông mặc đồng phục, với cái tăm giắt trên miệng, hình tượng quen thuộc của ông. “Được gì với Wilbanks không?” ông hỏi.

“Gặp rồi, nhưng chẳng được gì. Hôm qua, Harry Rex có quay lại, nhưng vẫn thế.”

“Có lẽ tôi phải nói chuyện với lão rồi,” McNatt gật gù. “Nói chuyện thì được, nhưng cũng chẳng được gì đâu.”

Chiếc tăm chuyển từ mép bên này sang bên kia, không khác gì kiểu Harry Rex đảo điếu xì gà. “Chúng tôi chẳng tìm được gì. Đã lục tung khu rừng quanh nhà, nhưng không thấy dấu vết gì cả. Anh sẽ không đăng mấy chuyện này chứ?”

“Không.”

“Quanh nhà Fargarson có nhiều đường mòn dẫn sâu vào rừng. Chúng tôi đã lần theo hết, nhưng chẳng có gì.”

“Vậy chứng cứ duy nhất là một viên đạn.”

“Và một thi thể.”

“Có ai thấy Danny Padgitt không?”

“Vẫn chưa. Tôi cho hai xe trực ở xa lộ 401, chỗ rẽ vào cồn ấy. Họ chẳng thấy gì, nhưng ít ra đám Padgitt biết có cảnh sát làm việc. Thật ra có cả trăm lối ra vào cồn đó, nhưng chỉ người nhà Padgitt mới biết.”

Nhà Ruffin đang tiến tới chỗ chúng tôi, vừa đi vừa nói chuyện với một cảnh sát da đen.

“Có lẽ bà ấy là người an toàn nhất,” McNatt nói.

“Làm gì có ai được an toàn chứ.”

“Rồi ta sẽ biết thôi. Hắn sẽ cố ra tay lần nữa, Willie à, nhớ lời tôi. Tôi tin chắc như vậy.”

“Tôi cũng thế.”

Ned Ray Zook sở hữu 4000 mẫu đất ở phía đông của hạt. Ông trồng bông và đậu nành, tầm canh tác của ông đủ lớn để duy trì lợi nhuận đều đặn. Người ta đồn ông là số ít nông dân vẫn kiếm được bộn tiền từ trồng trọt. Lần đầu tiên và cuối cùng Harry Rex đưa tôi đi xem đá gà cách đây chín năm là trên đất của ông, ở một chuồng gia súc đã được cải tạo nằm sâu trong rừng.

Tầm sáng sớm ngày 14 tháng 6, có kẻ chơi khăm nào đó đã đột nhập vào nhà để thiết bị của Zook, rút một phần dầu trong máy của hai máy kéo lớn. Dầu được cho vào can và giấu giữa đống thiết bị vật liệu, nên hai thợ lái máy kéo đến vào tầm 6:00 chẳng thấy có dấu hiệu gì lạ. Một thợ kiểm dầu như thường lệ, thấy thiếu, thấy lạ nhưng cũng chẳng nói gì, chỉ việc thêm vào bốn lít. Thợ kia thì đã kiểm tra máy từ chiều hôm trước, nên giờ chẳng quan tâm chuyện đó nữa. Chiếc máy kéo thứ hai vừa làm được nửa tiếng thì đột nhiên dừng lại, động cơ chết máy. Vậy là thợ máy phải chạy bộ gần cây số về trại báo cho quản lý.

Hai tiếng sau, một xe cứu hộ xanh vàng chạy dọc đường ruộng tới chỗ chiếc máy kéo hỏng. Hai thợ máy chui ra, nhìn trời nhìn mây một hồi rồi rảo quanh máy kéo xem xét. Họ miễn cưỡng mở cốp xe lấy dụng cụ. Mặt trời phả hơi nóng gắt gao, chẳng mấy chốc mồ hôi đã tuôn ra như tắm.

Để lên tinh thần, họ mở đài trong xe, vặn âm lượng hết cỡ đến mức từ bên kia cánh đồng vẫn có thể nghe được giọng Merle Haggard.

Tiếng nhạc át luôn một tiếng súng nổ từ xa. Viên đạn bắn thẳng vào lưng Mo Teale, xuyên qua phổi, xuyên thẳng ra ngoài, để lại một lỗ toang hoác. Đồng nghiệp của Teale, Red, nói lui nói tới rằng âm thanh duy nhất anh nghe được là tiếng thở dốc chỉ một hai giây trước khi Mo ngã xuống trước trục xe. Ban đầu anh nghĩ là do thứ gì đó trong máy kéo bung mạnh ra và đâm vào Mo. Red kéo Mo lên xe, chạy đi, lo cho bạn mình hơn là nghĩ xem thứ gì khiến anh thành ra thế này. Về đến trại, quản lý liền tức tốc gọi xe cấp cứu, nhưng đã quá muộn. Mo Teale tắt thở ở đó, trên sàn bê tông của một văn phòng nhỏ bẩn thỉu. “Ông John Deere,” trong phiên tòa, chúng tôi gọi Mo bằng cái tên đó. Ông luôn ngồi giữa hàng ghế trước, ngôn ngữ cơ thể rất đáng ngại.

Lúc tắt thở, ông cũng mặc bộ đồng phục áo liền quần màu vàng sáng như mọi lần bước ra ghế bồi thẩm đoàn năm đó. Bộ áo đó biến ông thành mục tiêu dễ ngắm.

Tôi đứng ngoài cửa, quan sát thi thể ông từ xa. Cảnh sát trưởng McNatt cho phép chúng tôi vào trong trại kèm quy định cấm chụp ảnh như thông lệ. Wiley biết trước, nên đã để máy ảnh ngoài xe.

Một lần nữa, Wiley lại bắt được sóng cảnh sát, nghe họ thông báo, “Có nổ súng ở nông trại Ned Ray Zook!” Wiley luôn kè kè đài bắt sóng cảnh sát bên mình, và trong những ngày này, không chỉ mình ông như vậy. Với tình trạng lo lắng lan rộng khắp ban, mọi đài bắt sóng cảnh sát đều được mở sẵn và mỗi khi nghe có tin nổ súng là cả chục người nhảy lên xe ngay lập tức.

Chẳng mấy chốc McNatt đã yêu cầu chúng tôi đi ra. Người của ông đã tìm được những can dầu do kẻ chơi khăm rút ra, thấy một cửa sổ bị cạy. Họ tiến hành lấy mẫu vân tay nhưng chẳng tìm được gì. Họ tìm dấu chân trên nền sỏi và cũng chỉ công cốc. Họ sục sạo cánh rừng quanh đồng đậu nành nhưng chẳng thấy dấu tích gì của hung thủ. Trên lớp đất cạnh máy kéo, họ tìm được một vỏ đạn cỡ 30,06 ly và nhanh chóng xác định nó trùng khớp với viên đạn đoạt mạng Lenny Fargarson.

Tôi nán lại văn phòng cảnh sát trưởng đến tận khi trời tối. Rõ ràng họ đang tất bật, cảnh sát viên chạy đôn chạy đáo, so sánh các vụ án, xác định những tình tiết mới. Điện thoại sở cảnh sát hạt reo không ngừng. Mấy người hiếu kỳ bắt đầu tạt qua hỏi xem có gì mới chưa.

Chẳng có gì. McNatt đóng đô trong văn phòng với những cảnh sát giỏi nhất của mình, xác định tình hình và bước đi tiếp theo. Ưu tiên hàng đầu của ông là bảo vệ tám bồi thẩm còn sống. Có ba người đã chết, ông Fred Bilroy vì viêm phổi, mới vừa qua là Lenny Fargarson và Mo Teale. Một bồi thẩm đã chuyển đến Florida chỉ hai năm sau phiên tòa. Ngay lúc này, xe tuần tra đang túc trực cạnh cửa nhà của tám bồi thẩm còn lại.

Tôi ra về, định lên văn phòng để viết bài về cái chết của Mo Teale, nhưng lại thấy bên văn phòng Harry Rex còn ánh đèn. Ông đang ở trong phòng họp, bù đầu với đống hồ sơ, lời khai, đủ thứ rối rắm ngành luật luôn khiến tôi đau đầu mỗi khi nhìn đến. Chúng tôi lấy hai lon bia trong tủ lạnh văn phòng ông rồi ra xe lái một vòng.

Ở khu vực lao động trung lưu của thành phố, hay còn gọi là Coventry, chúng tôi lái dọc con đường hẹp, đi qua dãy xe đỗ sát rạt như đống domino trước dãy nhà. “Maxine Root sống ở đây,” Harry Rex bảo. “Bà ấy có trong bồi thẩm đoàn.”

Tôi chỉ nhớ mang máng về bà Root. Ngôi nhà mái đỏ của bà không có hiên trước, nên hàng xóm bắc ghế gấp ngồi rải rác quanh nhà để xe. Vài khẩu súng lộ ra khá rõ. Nhà nào cũng sáng đèn. Một xe tuần tra đỗ cạnh hộp thư, hai cảnh sát đang đứng dựa vào cốp, hút thuốc và quan sát kỹ khi chúng tôi lái ngang qua. Harry Rex dừng xe lại gọi chào Troy.

“Chào ông Harry Rex,” Troy vừa nói vừa bước tới. “Ở đây đông vui nhỉ?”

“Chỉ có đứa khùng mới dám kiếm chuyện ở đây.”

“Chúng tôi chỉ đi ngang qua thôi.”

“Tốt nhất ông cứ đi tiếp đi. Họ đang bồn chồn, dễ nổ súng lắm đấy.”

“Ừ, bảo trọng.”

Rồi chúng tôi lướt đi, qua một trại gia súc ở phía bắc thành phố thì rẽ vào một con đường dài tối tăm dẫn đến ngõ cụt dưới chân tháp nước. Đi được nửa đường, bắt đầu thấy xe đỗ kín hai bên lề. “Ai sống ở đây?” tôi hỏi.

“Ông Earl Youry. Ông ấy ngồi hàng ghế sau, ngoài cùng.”

Một đám đông đang túm tụm ở hiên trước. Vài người ngồi trên bậc cấp. Một số nữa thì ngồi ghế đẩu trên bãi cỏ. Ông Earl Youry đang ẩn mình đâu đó giữa sự bảo vệ của hàng xóm và bạn bè.

Bà Callie cũng được bảo vệ kỹ không kém. Con đường trước nhà bà giờ xe đỗ chật kín, gần như không lái qua được. Vài nhóm đàn ông ngồi trên xe, miệng ngậm thuốc, tay cầm súng. Nhà bên cạnh và đối diện cũng đầy người ngồi ở hiện và sân trước. Một nửa Hạ trấn đã quy tụ về đây để đảm bảo bà thấy được an toàn. Không khí gần như lễ hội vậy, một sự kiện độc nhất vô nhị.

Là người da trắng, tôi và Harry Rex liền bị mấy chục ánh mắt dò xét kỹ lưỡng. Đến khi gặp xe cảnh sát, chúng tôi mới dừng lại, và khi thân phận chúng tôi đã được phê chuẩn, đám đông vệ sĩ bất đắc dĩ mới thở phào nhẹ nhõm. Tôi vào nhà bà, gặp Sam ở bậc thềm. Harry Rex đứng lại ngoài xe, hỏi thăm hai cảnh sát canh gác.

Bà Callie ở trong phòng ngủ, đọc Kinh Thánh với một bà bạn ở nhà thờ. Vài chấp sự ngồi ở hiên với Sam và ông Esau, họ nôn nóng muốn biết về vụ án mạng ông Teale. Tôi kể cho họ những gì mình biết, vốn không nhiều nhặn gì.

Tầm nửa đêm, đám đông bắt đầu tản mác dần. Sam và cảnh sát đã tổ chức gác luân phiên suốt đêm, có người cầm súng túc trực ở cả hiên trước và sau nhà, và người tình nguyện thì không thiếu. Bà Callie chưa hề nghĩ sẽ đến ngày ngôi nhà nhỏ êm đềm và hết lòng kính sợ Chúa của mình lại biến thành một pháo đài đầy đủ vũ trang, nhưng với hoàn cảnh này, rõ ràng bà quá hài lòng.

Chúng tôi lái qua những ngả đường đầy bồn chồn lo âu về đến biệt thự Hocutt thì thấy Buster đang ngủ gục trong xe trước lối vào nhà. Tôi đi lấy chút rượu, rồi ngồi với Harry Rex ở hiên trước, vung tay đập muỗi và nghiền ngẫm tình hình.

“Hắn rất kiên nhẫn,” Harry Rex bắt đầu. “Hắn sẽ chờ vài ngày cho đến khi hàng xóm bắt đầu chán chuyện ra hiên ngồi gác, khi ai cũng muốn thư giãn đôi chút. Các bồi thẩm đó đâu thể giam mình trong nhà cả đời. Hắn sẽ chờ.”

Một thông tin gây ớn lạnh chưa được công bố là công ty máy kéo cũng đã nhận cuộc gọi yêu cầu sửa chữa cách đây một tuần. Ở nông trại Anderson ở phía nam thành phố, một máy kéo cũng bị hư theo cách tương tự. Mo Teale, một trong bốn thợ máy chính, hôm đó không được cử đi. Trong ống nhắm súng trường hôm đó là một người áo vàng khác.

“Hắn kiên nhẫn và tỉ mỉ,” tôi đồng ý với Harry Rex. Hai vụ án mạng cách nhau 11 ngày, và không ai tìm được dấu vết gì. Nếu quả thật là do Danny Padgitt, thì đúng là quá tương phản với vụ giết người đầu tiên của hắn. Hắn đã chuyển từ ra tay do một phút bốc đồng thành hành quyết máu lạnh. Có lẽ chín năm trong tù đã biến hắn thành một thứ khác. Hắn có dư thời gian để ghi nhớ từng khuôn mặt của 12 người đã phán quyết tống hắn vào tù và lên kế hoạch báo thù.

“Hắn chưa dừng tay đâu,” Harry Rex khẳng định.

Một vụ giết người có thể là hành động ngẫu nhiên. Nhưng hai vụ là có mô thức rồi. Vụ thứ ba sẽ khiến cả đạo quân cảnh sát và hiệp sĩ tự phong xông lên cồn Padgitt quyết chiến.

“Hắn sẽ chờ,” Harry Rex lẩm bẩm. “Có lẽ chờ rất lâu.”

“Tôi đang tính bán tờ báo.”

Harry Rex uống một hơi bourbon rồi mới hỏi, “Sao cậu lại làm thế?”

“Tiền. Có một công ty ở Georgia đang nghiêm túc ngỏ lời.”

“Bao nhiêu?”

“Nhiều lắm. Nhiều hơn tôi mơ. Tôi sẽ khỏi phải làm việc một thời gian dài. Có thể là mãi mãi luôn.”

Ý tưởng không làm việc chẳng vui gì với Harry Rex. Lịch trình thường nhật của ông là mười tiếng hỗn loạn với những thân chủ ly hôn đang rối ren cảm xúc và kích động dữ dội. Ông thường làm việc buổi đêm, khi văn phòng vắng vẻ yên tĩnh để ông suy nghĩ. Ông kiếm khá đủ tiền để sống sung túc, nhưng chắc chắn chẳng dư được đồng nào. “Cậu nắm tờ báo bao lâu rồi nhỉ?”

“Chín năm.”

“Tôi chẳng thể hình dung được tờ báo lại vắng cậu.”

“Có lẽ bán tờ báo lại hợp lý. Tôi chẳng muốn thành một Wilson Caudle thứ hai.”

“Rồi cậu định làm gì?”

“Nghỉ ngơi, du lịch, thăm thú thế giới, tìm một cô gái tốt, đám cưới, sinh con. Ngôi nhà này rộng quá mà.”

“Vậy cậu sẽ không chuyển đi?”

“Đi đâu chứ? Nơi này là nhà tôi.”

Lại uống một ngụm dài, “Chẳng biết nữa. Là tôi thì cứ suy nghĩ đã.” Rồi Harry Rex ra xe lái đi.