CHƯƠNG 41
Trong chín năm từ khi mua tờ Thời báo , tôi chưa hề rời xa nó lâu hơn bốn ngày. Phải in vào mỗi thứ Ba, phát hành mỗi thứ Tư, và tuần nào tôi cũng phải đối phó với hạn chót giao bài sát sao.
Một lý do chính cho thành công của tờ báo là tôi viết quá nhiều bài về một thành phố có quá ít chuyện. Mỗi ấn bản có đến 36 trang. Trừ đi năm trang rao tin, ba trang thông cáo pháp lý và sáu trang quảng cáo, hàng tuần tôi phải đương đầu với nhiệm vụ khủng khiếp là lấp đầy 22 trang báo bằng những tin tức trong vùng.
Các cáo phó sẽ giảm bớt ít nhất một trang, dù người viết vẫn luôn là tôi. Davey Bigmouth Bass phụ trách hai trang thể thao, dù tôi thường giúp tường thuật tóm tắt một trận bóng bầu dục trung học hay một bài phút chót về thằng nhóc 12 tuổi nào đó vừa bắn hạ được một con hươu đực lớn. Margaret phụ trách một trang Tôn giáo, và một trang Hôn lễ cùng vài bài rao tin khác. Baggy, với đóng góp mờ nhạt suốt chín năm qua, đã gần như chìm trong men rượu và mỗi tuần chỉ viết được một bài nhưng lúc nào cũng đòi được đăng trang nhất. Tôi cũng cố tuyển một vài phóng viên, nhưng họ cứ đến rồi đi, và thường là trong thất vọng. Chúng tôi thường chỉ có một hoặc hai phóng viên hiện trường, nhưng cũng thường chỉ là lợi bất cập hại. Tôi phải dò và sửa bài báo của họ đến mức ước gì ban đầu tự tôi làm hết cho rồi.
Rồi tôi quyết định làm vậy luôn. Dù từng học đại học ngành báo chí, nhưng tôi không dám tự tin về thiên hướng viết được cả bài dài trong thời gian ngắn. Vậy mà đột nhiên tôi lại thành chủ một tờ báo, và khi phải bơi cùng nó, tôi mới khám phá ra trong mình có năng lực tiềm tàng của một nhà báo có thể viết những câu chuyện phong phú về gần như mọi thứ hay thậm chí là về những chuyện còn không đáng là chuyện. Một vụ tông xe bình thường không có thương vong có thể lên trang nhất với những câu bình luận hấp dẫn đến nghẹt thở từ người chứng kiến và nhân viên cấp cứu. Một nhà máy nhỏ mở rộng quy mô lại nghe như cú hích lớn cho tổng sản lượng kinh tế quốc gia. Buổi bán bánh của hội các bà ở nhà thờ Baptist có thể thành bài báo 800 từ. Một vụ bắt giữ ma túy nhỏ khi lên báo lại khiến độc giả có cảm giác như dân Colombia đang tràn sang nắm đầu mọi thiếu niên ngây thơ ở Clanton. Cuộc hiến máu do Hội Civitan tổ chức lại thành lời kêu gọi cấp bách thiếu nguồn máu cấp cứu chiến sĩ thời chiến. Ba chiếc xe bị trộm mỗi tuần sẽ khiến nhiều độc giả cảm giác như tội phạm có tổ chức đang hoành hành ở đây.
Tôi còn dành rất nhiều trang để viết về con người của Hạt Ford. Bà Callie là câu chuyện tiểu sử thú vị mở màn, và từ đó, ít nhất mỗi lần tháng một lần, cuộc đời ai đó sẽ được lên báo. Còn có một người sống sót sau Cuộc hành quân chết chóc Bataan, cựu binh cuối cùng của Thế chiến I ở trong vùng, một thợ may từng ở Trân Châu Cảng, một mục sư về hưu đã phục vụ một cộng đoàn nông thôn nhỏ suốt 45 năm, một nhà truyền giáo đã trải qua 30 năm ở Congo, một sinh viên mới tốt nghiệp đã diễn trong một vở kịch Broadway, một bà đã sống qua 22 tiểu bang, một người từng qua bảy đời vợ và có rất nhiều lời muốn nhắn nhủ các cặp tân hôn, ông Mitlo - người nhập cư sáng giá, một huấn luyện viên bóng rổ về hưu, một đầu bếp ở Trà Quán cả đời chỉ nấu một món là đổ trứng. Vân vân và vân vân. Những câu chuyện này được đón nhận nồng nhiệt.
Tuy nhiên, sau chín năm, danh sách những người thú vị ở Hạt Ford chẳng còn mấy cái tên.
Tôi cũng đã chán viết rồi. Hai mươi trang một tuần, 52 tuần một năm.
Mỗi sáng thức dậy, tôi phải nghĩ ra một câu chuyện mới hoặc một khía cạnh mới của câu chuyện cũ. Bất kỳ tin tức hay sự kiện bất thường nào cũng là cảm hứng để viết nên một bài, có một chỗ trên báo. Tôi từng viết về chó mèo, xe cổ, một vòi rồng lốc xoáy lớn nhất lịch sử hạt, ngôi nhà ma, chó thất lạc, kho báu thời Nội chiến, giai thoại về nô lệ không đầu, hay chồn hôi bị dại. Những chuyện bình thường như phiên tòa, bầu cử, tội ác, cửa hàng mới mở, thông báo phá sản, những nhân vật mới đến, tất cả đều thành bài báo. Tôi chán viết thật rồi.
Và tôi cũng chán cả Clanton. Sau nhiều miễn cưỡng ban đầu, thành phố này đã đón nhận tôi, nhất là khi rõ ràng có đuổi tôi cũng không đi. Nhưng đây là thành phố nhỏ, rất nhỏ và nhiều lúc tôi cảm thấy ngột ngạt. Quá nhiều dịp cuối tuần, tôi nằm lì ở nhà, chẳng biết làm gì ngoài đọc và viết, một chuyện tôi dần đã thành quen, nhưng vẫn cứ là nỗi chán ngán ghê gớm. Tôi đã thử đi đánh bài với Bubba Crocket cùng hội Hang Cáo, đi nhậu thả cửa với Harry Rex và các bạn của ông, nhưng chưa bao giờ tìm được chỗ thật sự hợp với mình.
Clanton đã đổi thay và không phải thay đổi nào cũng làm tôi vui. Như những thành phố nhỏ ở miền Nam, nó đang mở rộng ra bốn phương tám hướng nhưng chẳng hề có sự phát triển thật sự. Bargain City xuất hiện và khu vực quanh nó thu hút đủ loại chuỗi đồ ăn nhanh. Khu vực trung tâm bị bỏ bê, dù tòa án và tòa nhà chính quyền hạt vẫn là nơi thu hút nhiều người. Cần có những chính trị gia mạnh mẽ, những lãnh đạo có tầm nhìn, nhưng tìm ra họ như mò kim đáy bể.
Mặt khác, tôi cũng cho rằng thành phố này đã dần chán tôi. Vì những bài xã luận giáo huấn xã hội về chiến tranh Việt Nam mà tôi luôn bị xem là người theo chủ nghĩa tự do cực đoan. Và tôi cũng chẳng buồn làm gì để gỡ cái mác đó. Khi tờ báo ngày một lớn mạnh, lợi nhuận tăng tiến thì tôi càng cứng rắn hơn, lỳ lợm hơn và viết xã luận thường xuyên hơn. Tôi lên tiếng phản đối những cuộc họp kín của hội đồng thành phố và hội đồng giám sát của hạt, đâm cả đơn kiện để đòi biên bản công khai. Tôi dành cả năm trời kêu ca về công tác quản lý và hoạch định kém cỏi của hạt, và khi Bargain City mon men đến, tôi vung hết ra không kìm nén bất kỳ lời lẽ nào. Tôi mỉa mai luật gây quỹ tranh cử của bang, vốn được thiết kế để người giàu có được những ứng viên họ thích. Và khi Danny Padgitt được thả tự do, tôi rủa sả cả hệ thống ân xá.
Suốt thập niên 1970, tôi luôn là tiếng nói nổi bật ở nơi này. Và nó đem lại nhiều câu chuyện hay và giúp bán nhiều báo, nhưng cũng biến tôi thành một thứ kỳ quặc trong mắt dân tình. Tôi bị xem là một người bất bình triền miên, tệ hơn nữa là người bất bình có bục giảng để lên tiếng suốt ngày. Tôi chưa hề nghĩ mình là kẻ bức bách, và đã cố hết sức để không thành như thế. Nhưng nhìn lại, có những cuộc luận chiến tôi khơi ra không chỉ bởi xác quyết trong lòng mà còn đơn giản là vì muốn có việc để làm cho đỡ chán.
Càng thêm tuổi, tôi càng muốn làm một công dân bình thường. Bao lâu nay, tôi chỉ muốn làm kẻ ngoài cuộc, người quan sát, nhưng giờ tôi chẳng ham thế nữa. Tôi muốn cứ đến rồi đi, thấy vui thì ở Clanton, thấy chán thì đi đến khi nào hết chán. Nghĩ đến đây, tôi mới thấy đúng là tiền bạc có thể thay đổi tương lai con người.
Giấc mơ đi xa cứ ngày một hiện lên nhiều hơn, tôi chỉ muốn được nghỉ dài hạn, đi nơi nào đó mà tôi chưa hề đặt chân đến, ngao du khắp thế giới.
Gary McGrew đã hẹn gặp tôi ở một nhà hàng tại Tulepo. Trong thời gian qua, ông đã ghé văn phòng tôi thêm vài lần. Ông mà đến thêm lần nữa, thể nào mọi người cũng sẽ bắt đầu xôn xao. Vừa ăn trưa, chúng tôi vừa xem lại sổ sách, nói về kế hoạch của thân chủ ông, thương lượng điểm này điểm kia. Nếu bán, tôi muốn chủ mới tôn trọng hợp đồng năm năm mà tôi vừa ký với Davey Bigmouth Bass, Hardy, và Margaret. Baggy thì sắp nghỉ hưu hoặc có khi phải ra đi sớm vì nhiễm độc gan. Wiley luôn là nhân viên bán thời gian, và đam mê kể chuyện bằng ảnh của ông cũng đã nhạt dần. Ông là nhân viên duy nhất được tôi kể về chuyện đàm phán bán tờ báo, và lời khuyên của ông cũng là cầm tiền du hí thì hơn.
Thân chủ của McGrew muốn tôi ở lại ít nhất là một năm, với mức lương rất cao để đào tạo cho tổng biên tập mới. Tôi chẳng bao giờ đồng ý chuyện đó. Ở là ở, đi là đi. Tôi chẳng muốn có sếp dí đầu mình, cũng chẳng muốn chịu cơn thịnh nộ của dân tình khi họ biết tôi bán tờ báo cho một công ty ngoài bang.
Lời đề nghị của họ vẫn là 1.300.000. Nhưng một tham vấn viên mà tôi thuê ở Knoxville lại định giá tờ Thời báo đến 1.350.000.
“Nói riêng với anh thôi, chúng tôi đã mua hai tờ báo ở Hạt Tyler và Hạt Van Buren rồi,” McGrew thầm thì. “Mọi chuyện sắp đâu vào đấy.”
Lâu nay, ông khá thành thật với tôi. Chủ của tờ báo ở Hạt Tyler đã đồng ý về điều khoản chung, dù vẫn chưa ký.
“Nhưng có vấn đề mới,” McGrew nói tiếp. “Tờ báo ở Hạt Polk có lẽ sẵn sàng đổi chủ. Nói thẳng, chúng tôi đang cân nhắc chỗ đó nếu anh không chịu. Nó còn rẻ hơn đôi chút.”
“À, lại ép rồi,” tôi nói.
Tờ báo của Hạt Polk có bốn ngàn độc giả đăng ký và ban quản trị khá lớn giọng. Tôi đọc nó hàng tuần mà.
“Tôi đâu cố ép anh. Chỉ cho anh biết tình hình thôi.”
“Tôi thật sự muốn giá 1.500.000.”
“Thế là quá nhiều, Willie à.”
“Cao đấy, nhưng các ông sẽ kiếm lại đủ. Có lẽ lâu hơn một chút, nhưng cứ nghĩ dài hạn mười năm đi.”
“Tôi không chắc chúng tôi lên được giá đó đâu.”
“Phải được, nếu các ông muốn tờ báo này.”
Cảm giác hối thúc đã lộ rõ. McGrew chốt lại, “Chúng ta đã thương lượng nhiều tháng rồi, và thân chủ của tôi rất muốn có quyết định cuối cùng. Anh ấy muốn chốt chuyện trong tháng này, không thì sẽ đi tìm chỗ khác.”
Chiến thuật này chẳng nhằm nhò gì với tôi. Tôi cũng chán thương lượng lắm rồi. Hoặc bán hoặc không thôi mà. Đã đến lúc phải ra quyết định.
“Vậy là còn 23 ngày?” tôi hỏi.
“Phải.”
“Được.”
Những ngày hè nắng non kéo dài đã đến và sẽ ở lại suốt ba tháng trời nóng nực, ẩm ướt. Tôi vẫn đi những chuyến thường lệ, thăm nhà thờ, chơi bóng mềm, giải golf địa phương, lễ cắt dưa hấu. Nhưng Clanton vẫn đang thấp thỏm chờ đợi.
Rõ ràng thòng lọng quanh cổ các bồi thẩm còn sống đã lỏng ra đôi chút. Lẽ tự nhiên, họ chán ngán cuộc sống quanh quẩn trong nhà, chán phải thay đổi lệ thường cả đời của họ, chán cảnh hàng xóm túc trực trước cửa từ sáng đến tối. Họ bắt đầu thử trở lại cuộc sống bình thường.
Kẻ sát nhân này thật sự quá kiên nhẫn. Hắn có lợi thế thời gian, còn các nạn nhân tương lai sẽ dần lơi lỏng cảnh giác. Hắn biết thế nào họ cũng sẽ phạm sai lầm. Và chúng tôi cũng biết thế.
Sau khi lần đầu tiên trong đời bỏ ba lễ Chúa nhật liên tiếp, bà Callie nhất quyết tuần này phải đi cho bằng được. Với sự hộ tống của ông Esau, Sam và Leon, bà bước vào nhà thờ sáng Chúa nhật và thờ phượng Chúa với hết lòng sốt sắng và thèm khát được ở bên Ngài. Các anh chị em trong hội thánh quây lại bên bà, cầu nguyện nhiệt thành cho bà. Mục sư Small lập tức đổi chủ đề bài giảng, nói về sự bảo vệ của Chúa cho những ai theo Ngài. Sam kể là ông giảng một mạch suốt ba tiếng đồng hồ.
Hai ngày sau, tôi lái chiếc Mercedes đến đón bà. Bà ngồi giữa hàng ghế sau, hai bên là ông Esau và Sam, với khẩu súng đặt bên cạnh. Chúng tôi nhấn ga ra khỏi Clanton với sự hộ tống của một xe cảnh sát. Đến biên giới hạt, xe cảnh sát quay về, còn chúng tôi lái thẳng đến Memphis. Ở phía đông Memphis vừa mở một trung tâm mua sắm mới và bà Callie ao ước được đến đó một lần. Hơn một trăm cửa hàng trong cùng một tòa nhà cơ mà! Lần đầu tiên trong đời, bà ăn pizza, thấy sân trượt băng, thấy hai người đàn ông nắm tay nhau và một gia đình đa chủng tộc. Trong số đó, bà chỉ khen mỗi sân trượt băng.
Sau một tiếng lái xe theo chỉ dẫn lơ đãng của Sam, cuối cùng chúng tôi cũng đến được nghĩa trang Nam Memphis. Dùng sơ đồ ở trạm bảo vệ, chúng tôi tìm được mộ của bà Nicola Rossetti DeJarnette. Bà Callie đặt lên mộ bó hoa bà mua từ nhà trước khi đi, và khi thấy rõ bà có nhiều chuyện muốn tâm tình với người đã khuất, chúng tôi lặng lẽ đi ra để bà được yên tĩnh.
Để tưởng nhớ bà Nicola, bà Callie muốn ăn vài món Ý. Tôi đã đặt sẵn bàn ở nhà hàng Grisanti nổi tiếng tại Memphis, và chúng tôi ngồi lại lâu, nói chuyện, thưởng thức lasagna và ravioli nhồi pho mát dê. Bà Callie đã gạt bỏ được định kiến về chuyện ăn ở nhà hàng, và để bà khỏi phải thấy tội lỗi, tôi nhất quyết mời bữa này.
Chúng tôi thật sự chẳng muốn rời Memphis. Trong vài tiếng đồng hồ, nỗi sợ hãi và bồn chồn dường như tan biến. Clanton như cách xa chúng tôi ngàn dặm, nhưng lại cũng quá gần. Trên đường về tối hôm đó, tôi nhận thấy mình lái xe mỗi lúc mỗi chậm.
Dù chúng tôi không nhắc đến nhưng rõ ràng một kẻ sát nhân vẫn đang nhởn nhơ ở Hạt Ford và tên bà Callie nằm trong danh sách hành quyết của hắn. Nếu không phải đã có hai người nằm xuống, chúng tôi chẳng thể nào tin trên đời lại có chuyện kinh hoàng như thế này.
Theo lời Baggy, và đã được xác nhận sau khi tôi kiểm lại kho lưu trữ của tờ Times, suốt một thế kỷ qua, chưa có vụ án mạng không được phá. Hầu hết đều là giết người trong phút bốc đồng với nhiều người chứng kiến. Chuyện bắt giữ, xét xử và kết tội chỉ là thủ tục. Nhưng giờ đang có một tên sát nhân quá khôn khéo và thận trọng, tệ hơn nữa, ai cũng biết rõ danh sách hành quyết của hắn. Với một cộng đồng kính sợ Chúa và thượng tôn pháp luật như thế, chuyện này đúng là không thể nào hình dung nổi.
Bobby, Al, Max, và Leon đã nhiều lần cố nài nỉ bà Callie đến nhà họ ở một vài tháng. Tôi và Sam, thậm chí cả ông Esau cũng hùa theo, nhưng bà chẳng hề lung lay. Bà ở gần lòng Chúa và Chúa sẽ che chở bà.
Suốt chín năm, lần duy nhất tôi mất bình tĩnh với bà Callie và cũng là lần duy nhất bà quở trách tôi là khi chúng tôi tranh cãi về chuyện đến sống với Bobby một tháng ở Milwaukee. “Mấy thành phố lớn đó nguy hiểm lắm,” bà cứ bảo vậy.
“Hiện giờ làm gì có chỗ nào nguy hiểm hơn Clanton chứ!” tôi bực bội vì sự ngoan cố của bà.
Rồi tôi bắt đầu to tiếng, và khi bà nói thẳng không chấp nhận kiểu vô lễ như thế, tôi liền im ngay.
Khi đi qua biên giới Hạt Ford, tôi bắt đầu để ý gương chiếu hậu. Làm thế đúng là ngốc, nhưng hóa ra không hẳn vậy. Về đến Hạ trấn, ven đường là một xe cảnh sát và trên hiên là một người bạn của ông Esau cầm súng ngồi gác.
“Một tối yên tĩnh,” ông bạn già bảo vậy. Nói thế nghĩa là chưa ai bị bắn, chưa ai nổ súng.
Khi bà Callie đi ngủ rồi, tôi nán lại chơi cờ trước hiên một tiếng.
Tất cả vẫn đang thấp thỏm chờ đợi.