Chương 5 MỘT VỤ THẢM SÁT CŨ
Chỉ có một cách duy nhất để tôi có thể nói chuyện với bà của Ella trước giờ nghỉ của bà: đó là tôi phải lẻn đi trong giờ làm bài tập. Tôi sẽ gặp phải rắc rối lớn, nhưng việc thoát khỏi bốn con ma đáng để tôi chấp nhận chịu cấm túc. Khoảng bốn giờ mười tôi nhét mình qua cửa sổ phòng vệ sinh nam. Tôi suýt đụng độ thầy Bonapart trên con đường mòn dẫn ra cổng, nhưng may là thầy đang mải mê đắm chìm trong suy nghĩ nên không nhận ra tôi.
Trời lại mưa như trút khi tôi loạng choạng chạy dọc con đường mòn dẫn qua đồng cỏ lầy lội đến chỗ cái xưởng cũ. Không nhìn thấy mặt trời đâu, nhưng tôi cũng có thể đoán là nó đã xuống thấp đến mức nguy hiểm rồi, và cứ vài bước chân tôi lại ngoái đầu nhìn, chìm trong nỗi sợ hãi rằng ngày hôm đó bốn gã đàn ông bị treo cổ sẽ đến thăm tôi sớm hơn. Nhưng tất cả những gì tôi thấy là mấy con cừu sũng nước và hai người đi bộ cũng ướt rượt chả kém gì tôi.
Ngôi nhà của bà Zelda Littlejohn nằm sau một hàng rào táo gai lâu rồi không được ai chăm sóc, chúng mọc cao đến mức tôi nhìn mãi mới ra cái chóp đỏ của mái nhà. Cổng vào khu vườn đóng chặt, và khi tôi xoay xở mở được nó ra, tôi thấy hai con cóc nhảy đến. Con thứ ba đang ngồi trên tấm thảm chùi chân trước cửa ra vào. Nó nhìn tôi qua đôi mắt màu hổ phách, như thể chưa từng thấy sinh vật nào lạ lùng như tôi. Nó ộp lên một tiếng khi tôi bấm chuông cửa đã hơi gỉ sét, và khi Ella mở cửa, nó cố gắng nhảy qua Ella vào nhà. Nhưng Ella nhanh hơn, nó bắt gọn con cóc với bàn tay thuần thục.
“Mày nên tự hổ thẹn với bản thân chứ!” nó nói, nghiêm khắc nhìn con vật đang đá loạn xạ. “Sau những gì đã xảy ra sáng nay, cả hội chúng bay sẽ bị cấm vào nhà trong ít nhất một tháng.”
Nó đặt tù nhân của mình xuống một cái chậu to cạnh cửa ra vào. Hai con cóc khác đã ngồi sẵn trong đấy. Ella lấy một tấm vải phủ lên chậu.
“Bà tớ suýt đạp lên một con sáng nay,” Ella nói, ra hiệu cho tôi đi theo nó vào nhà. “Bà bị bong gân vì cố không đè chết nó. Tớ đã bảo bà Zelda suốt là không nên cho chúng vào nhà, nhưng bà có nghe đâu.”
Khi chúng tôi đi qua phòng khách, tôi phát hiện ra thêm hai con cóc nữa đang ngự trên ghế sofa. Ella nhìn theo ánh mắt của tôi và thở dài.
“Ừ, tớ biết. Bọn chúng ở khắp mọi nơi ấy,” nó nói rồi dẫn tôi đi dọc hành lang. Giấy dán tường có hình hoa hướng dương to đến mức chóng mặt. “Bà Zelda nói bà giữ chúng chỉ bởi vì chúng ăn lũ ốc sên, nhưng điều đó thật vớ vẩn. Khu vườn vẫn đầy ốc sên, bất chấp tất cả lũ cóc. Tớ nghe nói bà đã phát cuồng vì chúng từ nhỏ và luôn mang theo chúng đến trường.”
Tôi tự hỏi không biết thầy Bonapart sẽ nói gì nếu có một con cóc trên bàn của thầy, nhưng trước khi tôi kịp tưởng tượng ra cảnh đó, Ella đã dừng lại trước một cánh cửa.
“Bác sĩ bảo bà sẽ không thể tổ chức bất kỳ chuyến tham quan nào trong ít nhất hai tuần,” nó thì thầm. “Vì thế tâm trạng bà đang khá tệ.”
Tôi đã chuẩn bị bản thân cho những điều tồi tệ nhất. Tuy nhiên, người phụ nữ già nằm trên giường với một bàn chân băng bó trông không đáng sợ lắm. Bà Zelda nhìn giống như một con cú vừa rơi ra khỏi tổ. Cặp kính bà đeo trông to quá khổ trên khuôn mặt nhỏ bé nhăn nheo và mái tóc ngắn màu xám bạc nhìn như đám lông vũ ở cổ chim. Giống như cô cháu gái, bà Zelda cũng chả nồng nhiệt gì lắm với mấy màn chào hỏi hay giới thiệu.
“Cậu ta đây hả?” là tất cả những gì bà hỏi khi quan sát tôi qua cặp kính dày cộp.
“Đối tốt với cậu ấy nha bà!” Ella trả lời. Nó ngồi xuống phía cuối giường. “Tên cậu ấy là Jon và mấy hồn ma đã dọa cho cậu ấy đủ chết khiếp rồi.”
Tuy nhiên, bà Zelda chỉ khịt mũi khinh khỉnh và tiếp tục nhìn tôi đầy nghi hoặc khiến tôi đỏ mặt. Có khi bà lại đọc được trên mặt tôi ý nghĩ rằng cháu gái của bà là đứa con gái xinh đẹp nhất toàn trường mất.
“Cháu nói thằng bé nhìn thấy bốn con ma phải không?” bà Zelda hỏi, với tay lấy cốc cà phê trên cái bàn cạnh giường. “Thằng bé này trông nhợt nhạt như đã nhìn thấy ít nhất cả tá hồn ma ý! Cũng khá bất thường khi chúng xuất hiện theo nhóm đấy,” bà nhận xét trước khi nhấp một ngụm cà phê. “Đa số hồn ma thích ở một mình.”
“Ella... Ella nói bà đã gặp khá nhiều, phải không ạ?” tôi ấp úng.
“Ừ, đúng đấy! Ta thấy chúng ở khắp mọi nơi. Cũng chả hiểu sao chúng cứ thích lộ diện cho ta xem. Ta thậm chí còn không thích chúng tí nào! Con ma đầu tiên ta nhìn thấy là ông nội ta. Một buổi sáng, ta thấy ông đang ngồi trên giường và ta đã phải nghe ông than vãn về kiểu tóc mới của bà nội. Ta thường khuyên mọi người là cứ phớt lờ chúng thôi, nhưng Ella nói bốn con ma mà cháu thấy khá khó chịu phải không? Sao cháu không kể cho ta nghe chính xác là chúng đã làm gì, rồi ta sẽ nói cho cháu biết cách thoát khỏi chúng.”
Bà Zelda không hề ngắt lời tôi lấy một lần khi tôi kể cho bà nghe về lũ kỵ sĩ dưới cửa sổ và cuộc truy đuổi qua sân nhà thờ. Bà chỉ uống cà phê với đôi lần nhướng mày. (Đôi lông mày của bà Zelda cũng đen như lông mày Ella vậy, tuy chắc chắn là bà có sử dụng đến mỹ phẩm để duy trì màu sắc này.) Chỉ tới lúc tôi kể đến đoạn nhà thờ, bà mới đột nhiên cau mày.
“Chúng gọi cháu là Hartgill sao?”
“Vâng. Đó là tên mẹ cháu thời còn con gái. Nhưng cháu chả hiểu tại sao bọn nó lại biết được.”
Bà Zelda bỏ chiếc cốc xuống lại bàn bên cạnh giường. “Lấy cho ta đôi nạng bác sĩ đã để lại sáng nay với!” bà nói với Ella.
“Nhưng bà không được đứng dậy mà!” Ella cự lại.
“Đôi nạng! Lấy ngay đi!”
Ella nhún vai và làm như được bảo. Bà nó nguyền rủa cơn đau khi bước cà nhắc dọc hành lang. Bà Zelda lúc nào cũng chửi thề bằng toàn những cái tên cây cỏ lạ hoắc: cỏ thối, tầm ma kinh tởm, bụi thối, lá muối. Bà gần như có cả một nguồn cung cấp vô tận những cái tên này. Bà Zelda khập khiễng bước vào phòng khách. Trên cái kệ bên cạnh cửa vào là một đống thùng đựng hồ sơ được dán những cái mác như Ma nữ xứ Salisbury, Yêu tinh xứ Wiltshire, chuyện ma vùng Tây Nam nước Anh, và Những ngôi nhà ma ám tại Sussex.
“Ella!” bà Zelda ra lệnh, tay chỉ vào một trong những cái thùng ở ngăn dưới cùng. Ella kéo nó ra, nhìn tôi với ánh mắt đầy lo lắng. Tôi cũng không thích cái mác này tí nào: Những truyền thuyết hắc ám.
Bà Zelda ngồi sụp xuống ghế sofa với một tiếng gằn giọng “Bả thối!” Sau đó bà bắt đầu gõ nhẹ lên đống thẻ danh mục, trán nhăn tít lại. Cuối cùng bà rút một tấm thẻ ra khỏi hộp. “Đây rồi. Hartgill. Ta có cảm giác là đã nhìn thấy cái tên đấy ở đâu đó mà!” bà lẩm lẩm. Sau đấy bà thở dài.
“Sao cơ ạ?” tôi hỏi bằng giọng yếu ớt.
“Trời ơi, Jon!” bà Zelda nói. “Tại sao trong bao nhiêu chỗ mà bố mẹ cháu lại chọn Salisbury để gửi cháu đến học cơ chứ? Điều này đã được định sẵn rồi. Kilmington chỉ cách đây chưa đầy một tiếng.”
“K-Kilmington?” tôi ấp úng. “Ờm...?”
Bà Zelda cắt lời tôi. “Gọi cho mẹ cháu đi. Bảo là bà ấy phải gửi cháu đến học ở một trường khác. Càng xa khỏi Salisbury càng tốt.”
Một trong những con cóc trên sofa ộp lên như thể tán thành gợi ý của bà Zelda. Tôi thấy đầu gối mình mềm oặt ra như trứng cóc.
“X-xa ạ? Thế có nghĩa là bà không làm gì được chúng ạ?”
Bà Zelda gạt hai con cóc ra khỏi ghế sofa và đưa tấm thẻ cho Ella.
“Đây. Cháu đọc cho thằng bé đi. Ta nghĩ ta biết ai đang truy lùng thằng bé rồi.”
Ella chau mày nhìn xuống tấm thẻ.
“Lãnh chúa Stourton” nó đọc, ”bị treo cổ vào ngày 6 tháng Ba, năm 1556, ở quảng trường khu chợ Salisbury bằng một sợi dây thừng tết bằng lụa, như một sự tôn kính cho dòng máu quý tộc của ông ta. Những tuyên bố về việc Stourton đã được chôn tại nhà thờ lớn của Salisbury đều sai sự thật, ngay cả khi có những câu chuyện mô tả sự xuất hiện của sợi dây thòng lọng phía trên khu hầm mộ của nhà thờ, những điều này đều bị quy chụp cho ông ta một cách sai lầm. Ông ta được chôn cùng với bốn kẻ hầu hạ, và bị đồn là vẫn đang ám khu nghĩa dịa Kilmington.”
Ella đặt tấm thẻ xuống và bà Zelda nhìn tôi bằng ánh mắt kỳ quặc.
“Nghe có giống chúng không?”
Có thể. Tôi vô thức sờ tay lên cổ. Lãnh chúa Stourton... gắn một cái tên cho kẻ đang săn lùng tôi không thực sự hữu ích cho lắm.
“Nhưng tại sao lão ta lại săn lùng Jon?” Ella hỏi.
“Đọc tiếp đi,” bà Zelda đáp.
Ella lại nhặt tấm thẻ lên. “Stourton và đám thuộc hạ bị treo cổ vì đã ám sát… ” - nó hít một hơi và nhìn tôi - “ William Hartgill và con trai ông ta, John.”
Bà Zelda tháo kính ra và lấy tà áo lau kính. Những bông hoa trên áo cũng xấu gần bằng hoa trên giấy dán tường. “Điều đó chắc có thể giải thích tại sao con ma của cháu không khoái người nhà Hartgill lắm, cháu có nghĩ thế không?” bà nói. “Hartgill vốn là quản gia nhà Stourton và lão Stourton đã cố gắng giết ông ta vài lần. Một câu chuyện khủng khiếp. John Hartgill đã cứu sống bố cậu ta hai lần, nhưng cuối cùng lão Stourton đã dụ họ vào bẫy và giết cả hai người. Đó là một vụ ám sát ghê rợn, ngay cả với những chuẩn mực thời đó.”
Lại thêm một tiếng ộp nữa từ đằng sau ghế sofa.
“Cỏ thối! Lại thêm một con nữa!” bà Zelda rên rỉ, nhòm vào đằng sau ghế sofa. “Bà nghĩ là bà phải tống khứ hết mấy con quỷ nhỏ này đi. Có khi bà nên mang chúng ra cái ao ở xưởng và...”
“Bà Zelda!” Ella nghiêm nghị ngắt lời bà. “Quên lũ cóc đi. Còn Jon thì sao? Chắc chắn là phải có cách nào để đuổi cổ mấy con ma đấy chứ! Giống như bà đã từng tống khứ người đàn bà không đầu vẫn ngồi trong bếp nhà anh trai bà ấy. Hay là con yêu tinh từ khu xưởng cũ...”
“Nhảm nhí! Không ai ‘tống khứ’ nó đi cả. Chỉ là chỗ đấy trở nên quá ồn ào đối với nó thôi!” Bà Zelda đeo kính lại. “Và Stourton là một hồn ma ở đẳng cấp khác. Chuyện về lão ta là những câu chuyện rùng rợn nhất mà cháu có thể tìm thấy trong vòng mấy dặm xung quanh đây.”
“Rùng rợn ư?” tôi thì thầm.
“Ừ, nhưng đừng quá để tâm vào những câu chuyện đó, chàng trai,” bà Zelda thực sự cố gắng để tỏ ra bình tĩnh. “Người ta nói rất nhiều chuyện khi trời tối. Đa phần trong số đó là những lời tầm bậy ngu ngốc - mặc dù những câu chuyện đó là vàng ròng cho mấy chuyến tham quan của ta.”
“Những câu chuyện gì cơ ạ? Kể cho tụi cháu đi.” Giọng Ella thực sự nghe khá là nghiêm nghị.
“Ta đã nói rồi, chả có gì ngoài mấy lời nhảm nhí!” bà Zelda rên rỉ, xoa xoa bàn chân bị băng bó. “Tên lãnh chúa đã chết đó bị cáo buộc cho vài cái chết bất thường trong khu vực, và người ta luôn tìm được cách bẻ cong câu chuyện khiến cho các nạn nhân đều là nam giới nhà Hartgill.”
“Ch-ch-chết ư?” tôi mấp máy. “Nhưng... nhưng Ella nói mấy con ma không thể làm hại ai mà!”
“Đúng, điều đó đúng!” bà Zelda nói chắc như đinh đóng cột. “Ta đã bảo cháu rồi... toàn mấy lời nhăng cuội, ở Kilmington, người ta đồn rằng lão Stourton có một đám chó săn ma quỷ chuyên truy đuổi các nạn nhân của lão cho đến chết. Và tại Salisbury này, có một câu chuyện đồn đại về một thành viên đội hợp xướng được cho là đã bị lão Stourton ném ra ngoài cửa sổ trường cháu chỉ bởi vì có quan hệ họ hàng xa với dòng họ Hartgill. Tất cả đều là chuyện tầm bậy thôi! Mấy con ma có thể phiền toái và đôi khi có thể khá ghê rợn, nhưng như Ella đã nói - rốt cuộc thì chúng đều hoàn toàn vô hại thôi.”
Vô hại ư? Tôi có thể nghe thấy cái giọng khản đặc đấy trong đầu và cảm thấy lưỡi kiếm của lão ta trên cổ mình. Vô hại chắc chắn không phải là cách tôi sẽ miêu tả lão ta.
Ella cũng có vẻ không được thuyết phục lắm bởi những điều bà Zelda vừa nói. Nó vẫn đang cau mày nhìn tấm thẻ trên tay. “Nhỡ những câu chuyện này đều là sự thật thì sao ạ?” nó hỏi. “Nếu như lũ ma này có thể giết Jon thật thì sao?”
Bà Zelda lẩm bẩm nguyền rủa lúc tự kéo mình dậy khỏi cái sofa. Nghe như “kế phân” vậy.
“Đừng có lo, cháu yêu,” bà nói. “Dù chúng có vẻ đáng sợ đến mức nào thì cũng sẽ không làm đứt nổi một sợi tóc trên đầu thằng bé đâu. Chúng chết rồi, và tất cả những gì chúng muốn là được chú ý một tí ấy mà. Nhưng nếu bà là Jon, bà vẫn sẽ tìm một trường khác để học. Lão Stourton đấy có vẻ là một con ma bám dai như đỉa đấy. Jon chắc sẽ khó có thể ngủ ngon nếu thằng bé tiếp tục ở lại Salisbury. Tới đây nào!” bà nói. “Giúp bà quay lại phòng ngủ nào. Bà đoan chắc là cái chân này sẽ làm bà phát điên lên. Hay là gọi bác sĩ cưa béng nó đi. Chả phải đấy là cách họ vẫn làm trên phim ảnh sao?”
Bà Zelda giơ tay ra, nhưng Ella không thèm nhúc nhích. Nó cũng bướng ra phết.
“Nhưng nếu bọn chúng quay lại tối nay thì sao?” nó hỏi.
Bà Zelda nhìn tôi.
“Mặc kệ chúng!” bà trả lời. “Chúng ghét điều đó. Và tránh xa những cửa sổ đang mở ra - cháu chả biết trước được đâu.” Rồi bà lại giơ tay ra lần nữa. Nhưng Ella vẫn không nhúc nhích.
“Còn ngài hiệp sĩ thì sao?” nó hỏi. “Chả phải bà vẫn luôn kể ngài ấy chỉ đợi có người gọi là đến cứu sao?”
Bà Zelda bỏ tay xuống lần nữa. “Trời ạ, Ella! Đó chỉ lại là một trong những câu chuyện bà kể cho du khách thôi. Cháu biết ta kể cho họ rất nhiều câu chuyện không có thực mà.”
“Bà cũng kể câu chuyện đó cho mẹ cháu nữa. Chuyện kể trước khi đi ngủ ấy - và rồi mẹ cháu kể cho cháu nghe.”
“Bởi vì đó là một câu chuyện hay. Nhưng chưa ai từng nhìn thấy ngài ấy cả.”
“Bởi vì chưa ai từng gọi ngài cả.”
Tôi không biết họ đang nói về chuyện gì nữa. Tôi chỉ biết là tôi vẫn cảm thấy sợ. Nỗi sợ quá mức chịu đựng khiến tôi phát bệnh. Tôi có thể nhìn thấy cái ao bên cạnh khu xưởng qua cửa sổ phòng khách nhà bà Zelda. Nó phản chiếu lại bầu trời chiều xám xịt. Chỉ vài giờ nữa thôi trời sẽ lại tối. Liệu lần này bọn chúng sẽ đợi tôi ở đâu?
Ella và bà Zelda vẫn đang tranh luận.
“Vậy, thế...” tôi lúng búng, quay ra phía cửa ra vào. “Cháu cảm ơn.”
Một con cóc đang ngồi trước cửa. Tôi túm lấy nó bỏ vào trong chậu với những con khác. Sau đó tôi bước ra ngoài và kéo cánh cửa đóng lại sau lưng.
Giờ thì sao?
Trở lại trường chứ còn làm gì khác nữa, Jon? tôi nghĩ. Có lẽ mày có thể giải thích là đã ở suốt trong nhà cầu. Cô Cunningham cũng khá là dễ tin người mà. Và rồi thì mày gọi cho mẹ.
Trên đường đi ra cổng nhà bà Zelda, tôi chuẩn bị những lời mình sẽ nói với mẹ. “Mẹ, bà của Ella nói là mẹ phải gửi con đến một ngôi trường khác. Mẹ đã bao giờ nghe thấy tên lãnh chúa Stourton chưa? Không, điều này chả liên quan gì đến việc con nhớ nhà cả - và cũng chả liên quan gì đến Râu Xồm cả.”
“Khốn kiếp!” tôi lẩm bẩm lúc đóng cánh cổng nhà bà Zelda lại sau lưng mình. “Mẹ sẽ chả tin một lời nào đâu.”
Tôi rẽ vào con đường mòn dẫn qua cánh đồng cỏ. Tôi nghe thấy tiếng bước chân đằng sau mình.
“Cậu đi đâu thế?” Ella đứng trước mặt tôi.
“Cậu nghĩ là đâu chứ?” tôi trả lời. “Tớ phải quay về trường. Có thể tớ sẽ không gặp phải quá nhiều rắc rối nếu về kịp trước bữa tối.”
Ella lắc đầu. “Không, cậu sẽ không quay về đó. Chúng ta sẽ đi đến nhà thờ.”
“Nhà thờ? Tại sao?”
Ella chỉ nắm lấy cánh tay tôi lôi đi xềnh xệch.
Như tôi đã nói đấy: Ella không bao giờ nhiều lời.