Chương 6 LỜI THỀ BỊ QUÊN LÃNG
Lúc tôi và Ella đi bộ vào lại sân nhà thờ, những ngôi nhà cổ đã bắt đầu nhòe đi trong ráng chiều. Gần như chả còn du khách nào phía trước nhà thờ, mặc dù mười giờ tối mới đến giờ khóa cổng vào sân. Đây không phải là lần đầu tiên tôi có cảm giác khoảng sân nhà thờ Salisbury đã bị rơi vào quên lãng. Chỉ có mấy cái ô tô đang đỗ nhắc nhở rằng chúng tôi vẫn đang ở cùng một thế kỷ với lúc ở nhà bà Zelda.
Nhà thờ vươn những ngọn tháp lên trời cao như thể đang cố với tới mấy đám mây đang tối dần. Và những bức tường lại một lần nữa trông như đang mời chào sự bảo vệ khỏi những điều xấu xa của thế giới. Nhưng bảo vệ thế nào đây? Tôi không thể dành phần còn lại của năm học trốn chui trốn lủi trong một nhà thờ cũ.
“Ella à? Chính xác là chúng ta đang làm gì ở đây?” tôi hỏi khi đi theo nó qua bãi cỏ nơi lão Stourton đã bắt kịp tôi và cũng là nơi tôi quỵ gối trước mặt thầy Bonapart. Qua hàng cây phía bên trái, tôi có thể nhìn thấy những bức tường của ngôi trường, nơi cô Cunningham có khi đã kịp báo cáo sự vắng mặt của tôi với thầy hiệu trưởng.
“Chúng ta sẽ đi gặp một người có thể giúp cậu,” Ella nói. “Hay là cậu đã thay đổi suy nghĩ về việc gọi cho mẹ rồi?”
Cách nó nói làm cho lựa chọn đó nghe còn đáng xấu hổ hơn vốn dĩ.
“Không,” tôi to tiếng với nó. “Không. Tất nhiên là không rồi.” Tôi quyết định không hỏi thêm gì vào lúc này nữa.
Chúng tôi chọn lối vào hành lang như đa số các du khách khi đến đây. Dãy khung đá vòm đổ bóng dài, và ở khoảng sân phía trong, nơi thảm cỏ được bao quanh bởi các khung vòm, một cây bách hương khổng lồ ôm trọn bóng tối giữa những cành nhánh, như hàng thập kỷ nay vẫn vậy.
Liệu trong tất cả các vị thánh đang nhìn xuống chúng tôi từ trên mái - Ella muốn gặp ai ở đây? Hay là nó định nhờ một vị tu sĩ đuổi lão Stourton đi? Hay là một trong những thiên thần đá? Tôi nhòm vào giữa từng cột đá để tìm kiếm cậu học việc đã chết, nhưng Ella lại sốt ruột vẫy tôi về phía cửa nhà thờ lớn.
Không khí ớn lạnh sau những cánh cửa nặng trịch làm tôi rùng mình, nhưng ánh sáng chạng vạng giữa những bức tường xám xịt đã quấn quanh tôi như một tấm chăn bảo vệ, mặc dù tôi bỗng nhớ đến người phụ nữ màu xám mà Ella nhắc đến lúc trước.
Ella mua vé cho cả hai chúng tôi và dẫn tôi dọc theo lối đi chính giữa hai hàng ghế đến phía điện thờ. Đằng sau đó là chỗ đứng của dàn đồng ca, nơi Angus hằng ngày đứng hát những điệu thánh ca mà nó vẫn ư a trong giấc ngủ. Xung quanh chúng tôi, những hàng cột vươn lên như những ngọn cây. Ở tít trên cao, khoảng tường giữa các cột vòm đỡ lấy trần nhà thờ trải rộng ra như thể các nhánh cây bằng đá đang mọc ra từ những cây cột vậy. Nhà thờ khổng lồ gần như trống không, chưa đến một tá du khách đang rải rác giữa các lối đi. Tiếng bước chân của chúng tôi vang vọng trong sự tĩnh mịch, và trong một khoảnh khắc tôi nghĩ mình có thể nghe thấy tiếng bước chân của tất cả những người đã đến đây trong hàng thế kỷ để cầu xin được giúp đỡ và cứu rỗi.
Ella dừng bước. Trước mặt chúng tôi là bốn cột đá cong oằn lại để đỡ lấy phần mái của ngọn tháp nhà thờ. Những cây cột này thực sự đã bị bẻ cong. Một giám mục nào đó vài trăm năm trước đã quyết định rằng nhà thờ lớn Salisbury sẽ là nhà thờ đầu tiên trên thế giới có mái nhọn. Trọng tải thêm vào suýt thì làm sập ngọn tháp. Nhưng Ella không dẫn tôi đến chỗ những cây cột cong. Thay vào đó, nó lôi tôi đến một quan tài bằng đá trước hàng cột, phía bên phải chúng tôi. Những tia nắng cuối ngày xuyên qua các ổ cửa sổ cao, vẽ nên các mảng màu sặc sỡ trên những phiến đá lát sàn đã mòn vẹt.
“Ngài ấy đây rồi!” Ella thì thầm.
Ai đây rồi cơ?
Một hiệp sĩ, nằm ngủ bên trên quan tài bằng đá. Ngài duỗi thẳng người trên quan tài đá, bàn tay đeo găng ôm một thanh kiếm, mặt quay sang lên. Khuôn mặt ngài bị che đằng sau mũ sắt. Tấm biển cắm bên cạnh quan tài giải thích rằng bức tượng này đã từng có thời được sơn màu, nhưng thời gian đã làm phai những lớp màu khiến tứ chi bằng đá có màu trắng như xương người chết.
“Ngài tên là William Longspee,” Ella thì thầm. “Ngài là con riêng của Henry Đệ Nhị và là em trai cùng cha khác mẹ của Richard Tim Sư Tử. Ngài có thể giúp cậu chống lại lão Stourton. Cậu chỉ việc gọi ngài thôi.”
Tôi nhìn chằm chằm xuống khuôn mặt chạm trổ.
Đây là lý do nó kéo tôi đến đây ư? Sự thất vọng gần như bóp nghẹt lấy cổ họng tôi. Phải, tất nhiên rồi. Hai đêm vừa rồi đã hoàn toàn thuyết phục tôi rằng người chết vẫn có thể hoạt động chả khác gì người sống. Nhưng cái này? Cái này chả là gì ngoài một cái hình người được chạm khắc từ đá.
“Còn có một tượng đài tưởng nhớ con trai của ngài phía trong nhà thờ nữa,” Ella thầm thì. “Nhưng ông ta được chôn cất tận Israel, bởi vì ông ta chết trong một cuộc thập tự chinh. Bà Zelda nói họ đã chặt ông ta thành từng mảnh. Kinh lắm.”
Ở bên ngoài, ngày đang úa dần. Bóng tối ùa vào nhà thờ. Lão Stourton và lũ thuộc hạ có khi đang đợi tôi rồi.
“Thôi đi, Ella!” tôi rít lên. “Đây là vị hiệp sĩ mà cậu đã hỏi bà Zelda sao?”
“Đúng. Nhưng tớ chắc chắn những câu chuyện về ngài là có thật mà. Chỉ là lâu lắm rồi không có ai gọi ngài thôi. Với cả, cậu phải thực sự cần sự giúp đỡ của ngài, nếu không ngài không xuất hiện đâu.”
Hai người phụ nữ dừng lại bên cạnh chúng tôi và bắt đầu tranh luận về chất lượng điêu khắc của ngôi mộ ngài Longspee. Ella quắc mắt nhìn họ cho đến khi họ rơi vào một sự im lặng ngượng nghịu và lảng đi chỗ khác.
Ngay khi chỉ còn lại hai chúng tôi, Ella thì thầm, “Tớ đã viết cả một bài luận về ngài. Người ta nói là khi chiến đấu trở về, ngài đã thề thế này.” Nó hạ giọng xuống. “Tôi, William Longspee, xin thề sẽ không thể tìm thấy sự yên bình cho đến khi gột rửa tâm hồn mình khỏi tất cả những hành vi tội lỗi của bản thân. Vì thế, tôi xin thề sẽ bảo vệ những người vô tội khỏi cái ác và kẻ yếu khỏi kẻ mạnh. Tôi xin thề, xin Chúa giúp tôi. Nhưng rồi ngài chết và vài người đồn là ngài vẫn cố gắng để hoàn tất lời thề của mình.”
Ella nhìn tôi đầy động viên.
“Cái gì cơ?” tôi thì thầm. “Điều này thật là điên rồ. Không phải ai cũng quay lại được từ cõi chết đâu, Ella à!”
Ít nhất đó là điều tôi thầm mong.
Ella đảo mắt và nhìn quanh như thể đang cố tìm kiếm sự hậu thuẫn từ các vị thánh xung quanh chúng tôi.
“Thế cậu có ý nào hay hơn không?” nó thầm thì. “Ai sẽ bảo vệ cậu khỏi những con ma tốt hơn một con ma khác chứ?”
“Đó không phải là một ý tưởng!” tôi rít lại. “Nghe điên hết mức ấy.”
Nhưng Ella mặc kệ tôi. Nó quay lưng lại. Càng ngày càng có nhiều người xuất hiện ở lối đi chính. Đương nhiên rồi. Dàn hợp xướng cũng sắp bắt đầu buổi lễ tối và Angus có thể sẽ là một trong số bọn họ. Nếu nó mách lại với ông bà Popplewell là đã nhìn thấy tôi trong nhà thờ thì sao?
Tôi nắm lấy tay Ella và nhanh chóng lôi nó vào giữa mấy hàng cột đá đằng sau quan tài của ngài Longspee.
“Vị hiệp sĩ của cậu có khi còn chả được chôn ở đây ấy!” tôi thì thào, người dựa vào một phiến đá màu xám. “Thầy Bonapart không bảo cậu là các ngôi mộ bị di chuyển liên tục sao? Thỉnh thoảng người ta còn làm mất vài cái xương hay thậm chí là trộn lẫn các mộ vào nhau kìa!”
Đấy. Dàn hợp xướng đã xuất hiện đằng sau các hàng ghế trong bộ áo choàng dài màu xanh lam. Angus là một trong những đứa đứng đầu. Như thường lệ, nó đưa tay lên cái cổ áo cứng đơ màu trắng. Nó vẫn thường than phiền là cái cổ áo này ngột ngạt như thế nào.
“Chắc chắn là ngài William Longspee ở trong ngôi mộ đó,” Ella rít lên, trong khi dàn hợp xướng xếp hàng đi qua chúng tôi về phía điện thờ, theo sau là các linh mục. “Biết tại sao không? Bởi vì khi người ta di chuyển ngôi mộ về đây, họ đã tìm thấy một con chuột chết trong hộp sọ của ngài. Cậu có thể chiêm ngưỡng nó ở bảo tàng.”
Tôi nén cơn buồn nôn đang trào lên và cố gắng ra vẻ không mấy ấn tượng. “Thế thì sao?”
Ella thở dài trước sự ngu xuẩn quá mức cho phép. “Ngài Longspee chết một cách đột ngột, mọi người đều tin là ngài bị đầu độc. Nhưng không ai có thể chứng minh được điều gì cho đến khi họ tìm thấy con chuột đó. Cả người nó đầy thạch tín.”
Nó rõ ràng là rất thích thú với câu chuyện này. Tôi thì không. Những kẻ sát nhân và những người bị tàn sát. Điều gì đã xảy ra với cuộc sống của tôi thế này? Tôi thoáng hình dung thấy Râu Xồm nằm trên quan tài, bị tẩy bạc trắng và hóa đá. Nhưng chỉ một cái nhìn thoáng qua những ô cửa sổ tối om của nhà thờ cũng đủ nhắc nhở tôi còn rất nhiều thứ khác để lo đến.
Đằng sau điện thờ, các lễ sinh đang thắp nến, còn bên ngoài kia có khi lão Stourton đang lựa chọn xem nên ném tôi qua ô cửa sổ nào cũng nên. Và tôi thì đang nói chuyện với một đứa con gái mà tôi hầu như không quen biết về các hiệp sĩ quá cố và mấy con chuột bị đầu độc.
“Cậu phải gọi ngài ấy!” Ella thì thầm. “Ngay khi chúng ta còn lại một mình.”
Dàn hợp xướng bắt đầu hát. Giọng hát của họ vang vọng khắp nhà thờ tối tăm như thể các phiến đá cũng tham gia vào bài hát vậy.
“Một mình ư? Làm sao được?” tôi thì thầm trả lời. “Nhà thờ sẽ bị khóa sau buổi lễ tối mà.”
“Thì sao? Chúng ta tìm cách bị nhốt lại trong này.”
“Nhốt lại đây sao?” Câu chuyện đang ngày càng tệ đi.
Ella túm lấy tay tôi. Nó lôi tôi đi dọc lối đi phía Bắc. Sau lưng, tôi có thể nghe thấy Angus bắt đầu đoạn độc diễn mà nó đã tập mỗi buổi sáng trong phòng tắm. Ella dừng lại trước một cánh cửa được làm bằng gỗ tối màu đóng đầy những đinh sắt. Nó đẩy tay cầm xuống, nhìn nhanh xung quanh và mở cửa ra. Căn phòng đằng sau cánh cửa chả to hơn cái chạn là mấy. Ella đẩy tôi vào và đóng cánh cửa lại phía sau chúng tôi.
“Hoàn hảo, đúng không?” tôi nghe thấy nó thì thầm. “Một đứa trong dàn hợp xướng chỉ cho tớ đấy.”
“Để làm gì?” Ngồi gần nó như thế này trong phòng tối làm tôi nhấp nhỏm chả yên.
“Nó muốn hôn tớ.” Ella không buồn che giấu sự kinh tởm trong giọng nói. “Nhưng may là tớ khỏe hơn bất cứ thằng nào trong số bọn nó.”
Tôi mừng là nó không nhìn thấy mặt tôi đỏ rực lên trong bóng tối. Tôi vừa mới hình dung ra cảm giác sẽ thế nào khi chạm tay vào tóc nó.
Giọng hát của dàn hợp xướng vẫn văng vẳng ngay cả qua cánh cửa đóng kín. Angus toàn tự nhận là giọng hát của nó có thể làm nứt kính, mặc dù nó chưa bao giờ chứng minh được điều ấy với tôi hay Stu.
“Nghe cũng hay phết nhỉ?” Ella thầm thì.
Tôi cũng không chắc nữa. Kể từ khi Râu Xồm bước vào cuộc đời tôi, tôi bắt đầu thấy thích thứ âm nhạc ồn ào hơn, càng ồn ào càng tốt, và chắc chắn là không phải bài “Hòa bình thế giới”. Điều này làm tôi càng tự hỏi không biết làm sao mà Angus, cái đứa thích đánh lộn và thường xuyên mất bình tĩnh trong mỗi trận bóng bầu dục, lại có thể tạo ra thứ hòa âm thần tiên như vậy và thậm chí còn thích thú với nó. “Sao cậu có thể diễu quanh với bộ trang phục ngớ ngẩn đấy nhỉ?” tôi đã hỏi nó như vậy lần đầu tiên nhìn thấy nó tròng lên người bộ áo choàng (lúc đó tôi vừa bị đánh trượt trong vụ thử giọng cho đội hợp xướng). “Whitcroft, cậu không hiểu đâu!” Angus trả lời, ném cho tôi một nụ cười thương hại trong khi chải mấy sợi lông chó ra khỏi vạt áo màu xanh. Có khi nó nói đúng, và không chỉ về bộ đồng phục hợp xướng. Câu nói đó chắc chắn là đúng với các trường hợp liên quan đến con gái. Và đấy chắc chắn là lý do tại sao việc ngồi đợi trong căn phòng tối với Ella làm tôi khó chịu gần như chả kém gì những lời thì thầm ghê rợn của lão Stourton.
“Ừ. Nghe cũng không tệ,” tôi lúng búng. Tôi rụt nhanh khuỷu tay vừa mới lỡ chạm vào cánh tay Ella lại. Mày đang làm gì ở đây thế, Jon whitcroft? tôi nghĩ. Mày định tự biến bản thân thành một kẻ ngu xuẩn bằng cách cố gắng đánh thức vị hiệp sĩ quá cố sao?
Buổi lễ tối kéo dài gần một giờ đồng hồ, mặc dù đối với tôi mà nói cảm giác như thể cả năm đã trôi qua lúc dàn hợp xướng và cây đàn organ cuối cùng cũng im lặng, rồi chúng tôi nghe thấy tiếng bước chân và tiếng nói cười.
Mọi người đang ra về.
Chúng tôi nghe tiếng những cánh cửa đóng lại và tiếng bước chân đơn độc của vị tu sĩ đi dập tắt những ngọn nến. Và rồi im lặng như tờ.
Chỉ còn lại chúng tôi trong nhà thờ.
Chỉ có chúng tôi với cái xác.