← Quay lại trang sách

Chương 7 VỊ HIỆP SĨ QUÁ CỐ

Ella mở cửa. Không khí sực mùi sáp nến và bài hát của đội hợp xướng vẫn như còn vang vọng đâu đây giữa những cây cột.

Bóng tối chỉ càng làm nhà thờ trông to lớn hơn. Cứ như thể bóng đêm đã truyền sự sống vào nó, một loại sự sống của riêng nhà thờ, và tôi hẳn sẽ không ngạc nhiên nếu bỗng một trong các vị thánh ở đây bước ra khỏi bệ đỡ của mình để hỏi xem chúng tôi đang làm cái việc quỷ tha ma bắt gì (ờ, đúng hơn thì sẽ là việc trời ơi đất hỡi gì) ở đây vào giờ này.

Ừ, làm gì nhỉ? Tự biến mình thành những kẻ ngốc chứ còn gì nữa! tôi nghĩ lúc Ella ấn một cái đèn pin vào tay tôi. Nó rõ ràng vẫn không mảy may nghi ngờ gì về kế hoạch của mình.

“Cậu nghĩ sao?” nó hỏi và để cho ánh sáng đèn pin chạy dọc hàng cột. “Chúng ta có nên đợi đến nửa đêm không? Bà Zelda nói đó vẫn là lúc đa số các con ma thích xuất hiện nhất.”

“Nửa đêm á?” Tôi nhìn đồng hồ.

Còn năm tiếng nữa mới tới nửa đêm!

“Cậu nói đúng!” Ella nói. “Sao phải chờ? Cứ gọi ngài ấy bây giờ thôi. Đi nào!”

Hãy nghĩ đến lão Stourton, Jon! - tôi nghĩ lúc luống cuống chạy theo nó. Mọi chuyện cũng chả tệ hơn được.

Bên ngoài, mặt trăng rõ ràng đã tìm thấy một khoảng trống giữa những đám mây. Ánh trăng bắt đầu chiếu sáng xuống bức tượng ngài Longspee, làm cho khối đá trông càng trắng như tuyết. Ngài thực sự trông như đang ngủ.

Ella gật đầu động viên tôi trước khi bước lùi lại.

Cố lên nào, Jon. Ít nhất mày cũng phải thử chứ, nếu không cô bé sẽ chả bao giờ tha thứ cho mày.

Tôi bước gần hơn đến cỗ quan tài. Giờ tôi chỉ cần giơ tay lên để chạm vào găng tay của ngài Longspee.

“Jon!” Ella thì thầm đằng sau tôi. “Ngài là một hiệp sĩ. Cậu phải quỳ xuống!”

Quỳ ư?

Thế nào cũng được. Tôi quỳ hai đầu gối xuống.

“Tên cháu là... ừm... Jon Whitcroft.”

Giọng tôi như bị nuốt chửng vào sự tĩnh lặng, và bất kể tôi cố gắng đến mức nào để làm cho nó trầm đi, nó vẫn chỉ là giọng nói lanh lảnh của một đứa trẻ mười một mà thôi.

“Cháu... cháu ở đây để cầu xin sự giúp đỡ của ngài. Có người muốn giết cháu. Và bởi vì người đó cũng đã chết giống ngài, Ella nghĩ là...”

Tôi dừng lại. Không. Kiểu này nghe ngu quá. Những tấm đá lát sàn lạnh băng và mặt trăng vẫn làm cho khuôn mặt của ngài Longspee trắng bệch như xác chết. Cứ như thể muốn nhắc nhở tôi rằng tôi đang quỳ trước một cái xác vậy. Tôi muốn về nhà và quên hết mọi thứ đã xảy ra trong mấy tháng vừa rồi - bao gồm cả Stourton và Râu Xồm.

Nhưng khi đứng lên, tôi nghe thấy Ella thì thầm đằng sau: “Cậu làm cái gì thế? Ở yên đó. Cậu không biết tí gì về các hiệp sĩ sao? Họ vẫn thường quỳ gối như vậy cả mấy tiếng đồng hồ ấy.”

Ờ phải, đúng là tôi đã nghe về điều đó.

Tôi có thể ngửi thấy mùi hoa thu trên bệ thờ, và tôi nghĩ đến bốn gã sát nhân với những cái cổ gãy, về William Hartgill và con trai ông ấy, và tôi nghĩ rằng tôi thực sự không muốn có một người bố mới.

“Làm ơn đi mà!” tôi nghe thấy mình thì thầm. Các câu chữ cứ tự vọt ra khỏi miệng tôi. “Làm ơn, ngài William Longspee, làm ơn giúp cháu.”

Đột nhiên tôi nghe thấy tiếng bước chân. Tiếng lạch cạch như thể được tạo ra bởi một đôi giày bằng sắt.

Tôi quay lưng lại.

Và ngài đứng đó.

Bất cứ lúc nào nhắm mắt tôi cũng có thể hình dung lại ngài rõ ràng như tối hôm ấy. Và chắc chắn là sau này cũng vậy.

Chiếc áo chẽn mặc ngoài áo giáp lưới để lộ ra hình ba con sư tử xứ Salisbury trên nền xanh và vàng. Khác với bức tượng bằng đá, ngài không đội mũ sắt. Khuôn mặt ngài không có râu, đôi mắt ngài màu xanh lam nhạt. Trên mái tóc ngắn màu vàng tro không có tí tóc bạc nào cả.

“Đứng dậy đi, cậu bé!” ngài nói. “Ta vẫn nhớ quỳ lâu có thể làm chân tê cứng như thế nào. Ta cũng muốn giúp cháu đứng dậy, nhưng bởi ta chả thể đưa ra cánh tay bằng xương bằng thịt nào cả nên chắc ta không giúp ích được gì nhiều đâu.”

Cũng không dễ dàng lắm để tôi đứng lại trên hai chân. Nhưng đó là do hai đầu gối tôi đang run bắn lên - điều mà tôi mong là ngài không nhận ra.

Ngài hiệp sĩ cao hơn tôi tưởng, và bộ giáp sắt của ngài ánh lên như thể chính mặt trăng đã tự tay dệt nên bộ giáp ấy cho ngài.

Trông ngài thật oai hùng. Đúng kiểu hiệp sĩ mà tôi vẫn mơ mộng khi chiến đấu với mấy bụi gai trong vườn nhà, tưởng tượng là mình đang đánh nhau với lũ rồng và những kẻ khổng lồ với một thanh kiếm có thể giúp tôi trở nên bất bại cùng một bộ áo giáp bảo vệ tôi khỏi tất cả những thứ có thể làm tôi sợ hãi - bọn trẻ lớn hơn, lũ chó, cơn bão ập đến trong đêm hoặc những câu hỏi của đứa em về việc bao giờ bố chúng tôi quay trở lại.

Tôi xoay xở cúi chào một cách vụng về. Tôi không biết phải làm điều gì khác nữa. Tất cả những gì tôi biết là sự sợ hãi của tôi đã biến mất - như thể ngài Longspee đã gột sạch nó ra khỏi tâm hồn tôi vậy.

Ngài mỉm cười, nhưng nụ cười chỉ dừng lại trên môi. Đôi mắt ngài nhìn vẫn lạnh lùng như thể ngài chưa có được bao nhiêu cơ hội để mỉm cười trong hàng thế kỷ qua vậy.

“Đã lâu rồi không có ai gọi ta giúp đỡ,” ngài nói với giọng như từ xa vọng về. “Ta đã gần như không nghe thầy cháu gọi. Ta có những giấc mơ đen tối. Chúng ít khi nào để ta yên. Ta e rằng cháu đã tìm nhầm người rồi.” Ngài chỉ vào cỗ quan tài bằng đá cách đó vài bước phía bên kia lối đi. Bức tượng hiệp sĩ chạm trổ trên đó nhìn như một người khổng lồ.

“Tên ông ta là Cheney,” ngài Longspee nói. “Ông ta hung dữ và luôn muốn được trả công. Nhưng ta chắc chắn rằng nếu cháu để một vài đồng xu lên trên lông mày của ông ta, ông ta sẽ chạy đến giúp cháu.”

Ngài nhìn quanh như thể quên mất mình đang ở đâu.

“Để yên cho ta ngủ, Jon Whitcroft,” ngài nói, một giọng nói mệt mỏi và kiệt quệ. “Khi những mảng tối của cuộc đời cứ mãi ám ảnh người ta, và người ta nhớ những người thần một cách cay đắng, thì chỉ có ngủ mới có thể mang lại chút lãng quên.”

Những đường nét của ngài nhòe dần đi như một bức ảnh không lấy được nét. Cả thân hình ngài bắt đầu mờ dần. Không!

Tôi muốn lao tới nắm lấy bàn tay mang găng để giữ ngài lại, nhưng tôi chỉ đứng đó và cảm thấy nỗi sợ hãi lại ùa tới - sợ hãi, cô độc và giận dữ, trong khi cơ thể phát sáng của ngài Longspee tan dần vào bóng đêm. Tất nhiên rồi. Chả là gì cả ngoài một ảo giác được ủ từ sự sợ hãi cùng nỗi nhớ nhà và từ việc thầy Bonapart cứ liên tục lải nhải về Tim Sư Tử.

“Nhưng ngài là người cậu ấy gọi, chứ không phải Cheney.”

Giọng Ella nghe rất to trong nhà thờ vắng lặng. Tôi đã quên béng mất sự hiện diện của nó.

Trong một lát, mọi thứ lại im lặng như tờ. Rồi giọng nói của ngài Longspee xuyên qua màn đêm như thể ngài đang đứng đằng sau một cây cột.

“Ta thấy là cháu đã không đến một mình, Jon Whitcroft.”

“Dạ không ạ, đây là... Ella,” tôi lắp bắp. “Việc gọi ngài dậy là ý kiến của bạn ấy.”

“Ella ư?” ngài Longspee phát âm cái tên như thể muốn nhấm nháp từng chữ cái vậy. Hình dạng của ngài lại rõ dần ra.

“Vâng.” Ella bước đến bên cạnh tôi. “Như tên của vợ ngài, Ella Longspee. Nhưng ở tu viện Lacock nơi họ chôn cất bà ấy, họ gọi bà ấy là Ela. Ngài gọi bà là gì?”

Bóng ngài Longspee rung lên như một hình ảnh phản chiếu trên mặt nước đen.

“Ella,” ngài trả lời. “Ta luôn gọi nàng là Ella. Từ cái giây phút ta gặp nàng lần đầu tiên. Hôi đó nàng chắc cũng không lớn hơn cháu bây giờ là mấy đâu, nhưng nàng tóc vàng và không cao bằng cháu. Ngay cả khi đã là một phụ nữ trưởng thành, nàng cũng chỉ đứng xấp xỉ vai ta thôi. Nhưng nàng mạnh mẽ hơn bất cứ gã đàn ông nào mà ta đã gặp trong cuộc đời mình.”

Ella vuốt tóc ra sau. Nó vẫn làm thế khi lúng túng, mặc dù vào lúc này thì tôi chưa biết điều đó.

“Vâng, mẹ cháu cũng kể về bà ấy như vậy. Mẹ cháu đã đặt tên cháu theo tên của bà.”

Ngài Longspee nhìn lom lom vào khuôn mặt của Ella, như thể khuôn mặt nó nhắc ngài nhớ đến khuôn mặt của một người khác, bất chấp mọi sự khác biệt.

Sau đấy ngài lại nhìn tôi. “Ta băn khoăn không biết lần này ta đã ngủ bao lâu rồi. Thời gian trôi qua rất chậm khi cháu kinh sợ địa ngục mà lại chưa đủ xứng đáng ở thiên đường.” Ngài lướt hai tay dọc theo cán của thanh kiếm. Tôi thoáng nghĩ là mình có thể nhìn thấy máu trên hai bàn tay và bộ quần áo của ngài. Nhưng khi ngài quay người lại, những vết nhơ đó đã được gột sạch bởi ánh trăng.

“Và cháu cần sự giúp đỡ nào từ một hiệp sĩ đã chết đây, Jon?”

Khi tôi kể cho ngài Longspee nghe về lão Stourton và những kẻ thuộc hạ, cả nhà thờ, tất cả những vị thánh và những xác chết đang yên nghỉ trong những nấm mồ, như cũng đang lắng nghe. Ngài Longspee lắng nghe với một khuôn mặt vô cảm, nhìn đúng như thể ngài thực sự chỉ là bức tượng đá sống dậy mà thôi. Ella chen vào một vài lần, nhưng cuối cùng chúng tôi đều chìm vào im lặng. Ngài Longspee nhìn lên dãy cửa sổ như thể ngài có thể nhìn thấy những kẻ theo đuổi tôi đang đứng ở ngoài đó dưới những vì sao.

“Ta biết cái thể loại này,” cuối cùng ngài nói. “Chúng là thuốc độc, ở cả hai phía của cái chết. Ý ta không phải là bản thân ta chưa từng chiến đấu cho chúng trong cuộc đời mình.” Ngài nhìn dọc theo hàng cột như có thể nhìn thấy một phần ký ức của cuộc đời mình hiện ra đằng sau mỗi cây cột đó. “Có tất cả bốn gã phải không? Và bọn chúng chỉ tìm đến cháu vào buổi đêm thôi sao?”

Tôi gật đầu.

“Cháu mới chỉ thấy bốn tên, nhưng cháu biết lão Stourton được chôn cùng bốn người hầu cận. Chúng nói chúng sẽ săn đuổi cháu cho đến chết thì thôi. Bà của Ella nói là chúng không thể làm hại đến cháu, nhưng...” Giọng tôi ngập ngừng.

Ngài Longspee nhìn tôi. Sau đó ngài tháo bỏ chiếc găng tay bên trái ra.

“Giơ tay cháu ra, Jon Whitcroft,” ngài nói.

Tôi làm như được bảo.

Lấp lánh trên ngón giữa của ngài Longspee là hình bóng nhợt nhạt của một chiếc nhẫn. Huy hiệu trên nhẫn cũng mờ ảo như một bức ảnh bị nhòe. Nhưng khi ngài Longspee ấn chiếc nhẫn vào lòng bàn tay của tôi, nó bỏng rát như đá lạnh và để lại một vết hằn hình con sư tử trên da tôi.

“Lần tới khi cháu gặp lão Stourton,” ngài Longspee nói, “hãy nắm chặt dấu huy hiệu của ta và ta sẽ tới.”

Sau đó, ngài lùi lại và biến mất. Cứ như nhà thờ đã hít một hơi thật sâu và biến ngài trở lại thành một phần của nó. Ngay cả ánh trăng cũng biến mất, như thể ngài Longspee đã mang nó theo mình. Ella và tôi đứng đó nhìn nhau. Chúng tôi gần như chả nhìn thấy nhau trong bóng tối, nhưng điều đó không quan trọng. Tôi vẫn có thể nhìn thấy nụ cười rộng ngoác của Ella. Và nó đương nhiên đã tìm thấy chính xác những từ để nói.

“Đấy thấy chưa!” nó thì thầm.

Chúng tôi ngủ ngay cạnh quan tài bằng đá của ngài William. Khi chìm dần vào giấc ngủ, tôi nghĩ có thể mình đã trông thấy một người phụ nữ màu xám bước dọc lối đi chính giữa nhà thờ. Cũng có thể là tôi đang mơ. Lão Stourton không xuất hiện đêm ấy. Đó là tất cả những gì mà tôi biết. Và tôi cảm thấy an toàn bên cạnh cỗ quan tài bằng đá như thể tôi được quay về nhà, trên chiếc giường bỏ không của tôi.