Chương 8 MỘT BUỔI CHIỀU KHÔNG QUÁ TỆ
Một vị tu sĩ tìm thấy tôi và Ella vào buổi sáng hôm sau. Tôi đã có một giấc ngủ ngon đầu tiên sau rất nhiều ngày và dấu sư tử trên tay tôi là minh chứng rằng ngài Longspee không phải một giấc mơ. Khi cô Cunningham, trông vô cùng buôn phiền, tra hỏi về lý do biến mất của tôi, tôi đã thẽ thọt một vài câu cảm động về vị bạn trai mới đầy kinh khủng của mẹ và việc tôi đã hy vọng là một vài lời cầu nguyện trong nhà thờ sẽ có thể làm cho ông ta biến mất. (Tôi biết, đáng ra tôi nên bị sét đánh trúng trên ngọn tháp, nhưng có lẽ thiên đường vẫn còn chút thương cảm cho những đứa con trai đang ghen.) Tôi nói xin lỗi cả tá lần tới cô Cunningham và cả ông bà Popplewell, những người đã ra ngoài tìm tôi gần như suốt đêm. Tôi long trọng thề là sẽ không bao giờ trèo ra ngoài cửa sổ phòng vệ sinh trong giờ làm bài tập nữa.
Khi bạn mười một tuổi, bạn biết rõ người lớn muốn nghe những gì, và thú thật là tôi đã cảm thấy tự hào khi câu chuyện của tôi được chấp nhận với một cái vỗ vai (từ thầy hiệu trưởng) và hai cái ôm đẫm nước mắt (một từ cô Cunningham và một từ bà Alma Popplewell). Sự thật có khi còn lâu mới đạt được những hiệu ứng tương tự. Một đứa trẻ cố gắng xua đuổi người tình của mẹ bằng những lời cầu nguyện nghe rõ ràng là bớt rối rắm hơn sự xuất hiện của một hiệp sĩ quá cố.
Thật hạnh phúc là án phạt duy nhất của tôi chỉ là gồm bài luận về tầm quan trọng của các luật lệ và việc tuân thủ chúng cùng với một tuần cấm túc dưới sự giám sát của ông bà Popplewell. Ella thì không vui vẻ tí nào khi nghe tin này. Sau tất cả những việc đã xảy ra, nó muốn được ở đó khi ngài Longspee tống cổ Stourton xuống địa ngục. Nó đã thuyết phục bà Zelda để cho cả hai chúng tôi ngủ lại nhà bà, với niềm hy vọng là những kẻ săn đuổi tôi có thể sẽ xuất hiện ở đó. Và bây giờ án phạt cấm túc của tôi đã làm hỏng hết cả cái kế hoạch tươi đẹp của nó.
Ella không bị phạt cấm túc. Bà Zelda đã chấp nhận câu chuyện của nó về việc nó tìm thấy tôi ở nhà thờ trong một bộ dạng thê thảm và đã dành hàng giờ để giúp tôi bình tĩnh lại, chẳng may trong lúc đó chúng tôi bị khóa trái bên trong nhà thờ... Vâng, tôi biết, bà Zelda cũng dễ bị dụ lắm.
Ella không kể cho bà nó nghe về ngài Longspee.
“Sao phải làm thế?” nó nhắc đi nhắc lại khi tôi hỏi về điều đó. “Bà Zelda sẽ chỉ muốn gặp ngài ấy thôi, rồi bà sẽ lại hỏi tất cả những câu hỏi về cuộc đời của ngài và vợ ngài. Bà có thể trở nên đáng xấu hổ lắm ấy!”
Stu và Angus đã về nhà đoàn tụ gia đình nhân dịp cuối tuần, vì thế tôi dành cả ngày thứ Bảy ngồi một mình trong căn phòng trống trải, nhìn chằm chằm vào con dấu trên tay mình và không biết nên mong đợi hay lo sợ cho buổi tối sắp đến.
Ella đến thăm tôi vào khoảng bốn giờ. Nó vẫn bực tức về việc tôi bị cấm túc.
“Vâng, cảm ơn rất nhiều!” nó nói khi chúng tôi ngồi trên bức tường bao quanh khu vườn cạnh dòng sông, ném những mẩu bánh mì nướng khô cho lũ vịt. Đó là một ngày nắng đẹp, một sự thay đổi dễ chịu sau cả chuỗi ngày mưa dầm dề. “Thế là cậu được hưởng hết những trò vui nhé.”
“Trò vui?” tôi hỏi. “Cậu định nghĩa trò vui xem nào. Ngài Longspee vẫn còn phải đối mặt với một đống ma nữa đấy. Lần sau khi cậu gặp tớ có khi tớ cũng ngỏm củ tỏi như ngài ấy rồi.”
Ella trả lời bằng một trong những cái nhìn kiểu Jon Whitcroft à, bộ cậu nghĩ mình ngu lắm sao ? Nhưng tôi công nhận tôi cũng khá lạc quan về năng lực của ngài William Longspee trong vai trò người bảo hộ.
“Tớ vẫn cần một câu chuyện ổn ổn cho vụ biến mất hôm qua,” tôi nói, cố gắng đổi chủ đề. “Câu chuyện về việc cầu nguyện trong nhà thờ chỉ để dành cho người lớn thôi, nhưng nếu chuyện đó mà lan ra khắp trường thì danh tiếng của tớ sẽ bị hủy hoại trong hàng tháng trời mất.”
“Dễ ẹc,” Ella vừa nói vừa mở giấy gói những chiếc bánh mì tròn mà bà Zelda đã chuẩn bị cho nó. (Bà nó ấn mấy cái mắt nhỏ bằng hành tây lên bánh mì để làm cho chúng giống mấy con cóc.) “Cứ nói sự thật thôi. Chỉ cần bỏ phần về ngài Longspee ra. Nói là tớ đã kể cho cậu về cái tủ để đồ đằng sau cánh cửa và chúng ta không để ý là họ đã khóa cửa nhà thờ. Cậu cũng có thể nói là chúng ta đã hôn nhau. Không phải bọn con trai thích nghe mấy thứ đó sao?”
Tất nhiên là mặt tôi đỏ rực lên chả kém gì miếng xúc xích mà bà Zelda đã cho vào trong bánh mì. Tôi chỉ có thể lẩm bẩm là sẽ chả ai tin câu chuyện đó đâu.
“Tất nhiên là bọn nó sẽ tin rồi,” Ella nói. “Bọn con trai ngu lắm. Trừ một vài ngoại lệ,” nó thêm vào một cách độ lượng.
Chúng tôi ngồi trên bờ tường nhìn xuống dòng sông và ăn những chiếc bánh mì tròn hình con cóc của bà Zelda trong yên lặng. Chắc Ella tưởng tôi đang suy nghĩ về lão Stourton và ngài Longspee, nhưng thực ra tôi đang hình dung khuôn mặt của Stu khi tôi nói với nó là tôi đã hôn Ella Littlejohn.
Vài đứa con trai đang chơi bóng đá trong công viên phía bên kia sông. Hai con thiên nga bơi lướt qua và một ông già ngồi trên băng ghế gần đó đang chia sẻ cây kem ốc quế với con chó siêu bự của ông ta. Buổi chiều hôm đó không tệ tí nào, tôi nhớ là mình đã nghĩ rằng sau cùng thì có khi Salisbury cũng không phải một nơi tệ lắm.
Tôi sờ vào dấu sư tử trên tay mình. Lớp da ở đó vẫn có cảm giác như đóng băng.
“Ella à?” tôi hỏi. “Cậu cũng tin là ngài ấy thực sự sẽ tới, đúng không?”
Ella liếm chỗ tương cà dính ở các ngón tay.
“Đương nhiên!” nó nói.
Đương nhiên.
Tôi phủi một con kiến đang bò trên quần jean.
“Vợ của ngài Longspee... cái bà Ella kia... cậu biết gì về bà ấy?”
“Khá nhiều.” Ella quay mặt về phía mặt trời. “Mẹ tớ bị ám ảnh về bà ấy.” Nó đổi giọng: “Ella à, con hãy tưởng tượng xem. Bà ấy là nữ cảnh sát trưởng đầu tiên của Wilshire! Bà ấy đã có mặt khi Đại Hiến chương được ký!”
Cơn gió thổi mớ tóc đen lên mặt nó.
“Tim Sư Tử đã gả bà ấy cho ngài Longspee khi bà ấy còn rất trẻ. Mẹ tớ bảo họ đã rất hạnh phúc, mặc dù ngài hơn bà khá nhiều tuổi. Và họ có với nhau tám đứa con. Nhưng sau đó ngài William Longspee bị đắm tàu và bọn họ muốn bà ấy tái hôn, bởi vì bà Ella là nữ bá tước của Salisbury. Bà ấy nói, ‘Không, William vẫn chưa chết. Các người sẽ thấy. Ông ấy sẽ quay trở lại’. Và bà đã đúng. Nhưng cuối cùng dù quay trở về, ngài vẫn lại ra đi quá nhanh chóng. Nên bà Ella giữ lại trái tim của ngài chôn ở Lacock, sau này bà cũng làm điều tương tự với trái tim của con trai mình. Sau đó, bà trở thành một nữ tu.”
Mặt trời biến mất sau rặng cây. Tôi rùng mình với tay bẻ dựng cổ áo khoác. Bóng tối phủ lên khu vườn sau lưng chúng tôi.
“À, thảo nào trông ngài ấy thảm đến vậy,” tôi thì thầm.
Ella nhẹ nhàng phủi một con ong bắp cày ra khỏi đầu gối. “Bà Zelda nói tất cả hội ma quỷ đều có những câu chuyện buồn mà họ không thể đưa đến hồi kết.”
Ông già kia đã đứng dậy và ra về với con chó của mình. Những con thiên nga bơi ra xa và mấy thằng con trai chơi bóng đá cũng giải tán từ lúc nào. Trong một lát, có cảm giác như Ella và tôi là những người duy nhất trên thế giới này.
“Tớ phải đi thôi,” Ella nói. “Bác sĩ bảo tớ phải canh chừng không cho bà Zelda đi cà nhắc quá nhiều. Cứ làm như bà nghe lời tớ vậy!” Nó đặt bàn tay lên cánh tay của tôi. “Tránh xa mấy ô cửa sổ đang mở ra nhé!”
Tôi không thực sự nghĩ là ô cửa sổ đóng có thể ngăn một con ma lại, nhưng tôi vẫn gật đầu.
“Gọi cho tớ nhé,” nó nói. “Đây, đây là số điện thoại nhà bà Zelda, còn đây là số nhà bố mẹ tớ. Mai họ sẽ về.” Lần này nó không viết lên tay tôi nữa mà là trên một mẩu giấy. Nó nhét mẩu giấy vào tay tôi và trượt xuống khỏi bờ tường.
“Jon...”
Tôi bỏ mẩu giấy vào trong túi.
“Gì cơ?” tôi quay lại.
Hai con chó đang đứng giữa vườn hồng của bà Alma Popplewell. Ông bà Popplewell không hề nuôi chó, chưa kể đến là hai con này đen sì như bóng đêm vậy.
Ella cắn môi. Đây là lần đầu tiên tôi thấy nó sợ hãi.
“Tớ ghét chó!” nó thì thầm.
Tôi không nghĩ chúng nhìn giống những con chó thực sự, nhưng tôi giữ ý nghĩ đó cho riêng mình. Bộ lông của chúng dựng đứng lên như những con chó bình thường, nhưng chó thật không có mắt đỏ và thường cũng không to như con bê. Là gì đi chăng nữa thì chúng đang nhe nanh ra như thể chúng đã nghe được điều Ella vừa nói.
Ở Kilmington, người ta đồn rằng lão Stourton có một đám chó săn ma quỷ chuyên truy đuổi những nạn nhân của lão cho đến chết.
Tôi dám cá là Ella cũng nhớ câu chuyện của bà Zelda. Mình làm gì được đây? Tôi cuống quýt nhìn quanh, rồi không kịp nghĩ cho thấu đáo, tôi tóm lấy hai thanh gỗ từ đám củi đốt lò được ông Edward Popplewell xếp thành chồng bên bờ tường của khu vườn. “Đây!” tôi vừa thì thầm vừa đưa một thanh cho Ella. “Ông tớ có một con chó chăn cừu bất trị. Nếu bọn chúng tấn công thì cứ ấn thanh gỗ vào mồm chúng.”
Ella ném cho tôi một cái nhìn kinh hãi, nhưng nó vẫn nhận lấy thanh gỗ. Có thể thấy nó cũng đã nhận ra rằng chúng tôi đang đối diện với những thứ kinh khủng hơn là hai con chó hoang đơn thuần.
“Cậu còn đợi gì nữa?” nó thì thầm. “Gọi ngài Longspee đi!”
Lũ chó gầm gừ làm chúng tôi giật mình. Một làn sương mù màu đen bốc lên từ mặt đất nơi hai con chó đang đứng. Nó trôi qua khu vườn như những tấm vải liệm bẩn thỉu và càng lúc càng dày đặc - cho đến khi mọi thứ biến mất trong nó: những cái cây, ngôi nhà và cả bức tường của khu vườn. Cả Salisbury tan ra trong màn đêm, và từ bóng tối xuất hiện mấy con ngựa mà tôi đã biết quá rõ. Tất cả bọn chúng đã kéo tới: lãnh chúa Stourton và bốn gã tay sai sát nhân của lão, trong cuộc truy sát thêm một kẻ nữa thuộc dòng họ Hartgill. Ba gã đến từ bên trái, gã thứ tư xuất hiện cùng chủ nhân của chúng từ nơi mà chỉ ít phút trước thôi tôi còn nhìn thấy ngôi nhà của ông bà Popplewell.
“Jon!” Ella rít lên. “Cậu còn đợi gì nữa?”
Ừ, gì nhỉ? Năm, tôi nghe thấy tiếng thì thầm trong đầu mình. Năm. Một người đàn ông sẽ làm gì để chống lại năm gã sát nhân đây? Nghĩ vậy nhưng tôi vẫn nắm chặt dấu sư tử lại. Bọn chó săn thở hồng hộc và nhìn lên chủ nhân của chúng như thể đang cầu xin lão ta ra lệnh tấn công chúng tôi.
Ngài William Longspee. Làm ơn, giúp cháu với.
Ngài xuất hiện ngay khi những ngón tay của tôi ép xuống con dấu. Bộ áo giáp bằng xích sắt của ngài sáng lung linh, như thể đang đánh bật lại bóng tối bằng ánh sáng. Lũ ngựa ma sợ hãi lùi lại, những con chó săn núp mình xuống lớp cỏ. Ngài Longspee rút kiếm ra rồi nhảy vào giữa chúng tôi và lũ kỵ sĩ.
“Chúng ta có gì ở đây thế này? Năm gã sát nhân,” ngài nói mà không buồn lên giọng. “Tụi bay hết trò để chơi rồi hay sao mà lại phải săn đuổi mấy đứa trẻ thế này?”
Lũ ngựa nhợt nhạt khịt mũi một cái và bóng tối lại bủa vây lấy chúng như một đám khói độc.
“Tránh ra khỏi đường của bọn ta.” Giọng lão Stourton nghe khàn đục như thể cái nút thòng lọng lủng lẳng trên cổ vẫn đang thít chặt cổ họng lão vậy. “Ngươi quên rồi à? Cái thời của lũ hiệp sĩ đã qua rồi, từ khi ta vẫn còn có máu thịt trên xương của mình cơ.”
“Thế ngươi nghĩ ngươi còn thời sao?” ngài Longspee phản pháo. “Ta thấy rằng những ngày tháng của ngươi đã bị kết thúc bởi một dải thừng lụa. Cũng không phải là một cái chết huy hoàng cho lắm!”
Những con chó săn màu đen gầm gừ khi cảm thấy cơn thịnh nộ của chủ chúng. Lão Stourton nhe hàm răng ra như thể lão ta cũng là một trong lũ chó săn. Tôi cảm thấy Ella đang run rẩy bên cạnh mình. Tôi mừng là có nó đứng bên cạnh và đồng thời tôi cũng ước nó ở thật xa nơi đây, trong ngôi nhà của bà Zelda, nơi hiểm nguy duy nhất chỉ là vấp phải một con cóc.
“À! Giờ thì ta biết ngươi là ai rồi!” lão Stourton quát. Lũ thuộc hạ đánh ngựa đến bên cạnh lão. “Ngươi là thằng con hoang quý tộc mà chúng nó chôn ở trong nhà thờ. Em trai của lão Tim Sư Tử. Ngươi vẫn đang làm gì ở đây thế? Ta tưởng ngươi đã phải đi thẳng lên thiên đường với cái tâm hồn cao thượng mà mọi người vẫn đồn đại về ngươi rồi chứ.”
“Thế sao nhà ngươi vẫn chưa xuống địa ngục vậy?” Ngài Longspee không rời mắt ra khỏi lũ thuộc hạ của Stourton. “Ta cứ nghĩ là đường xuống đó chắc là cũng dễ tìm cho một kẻ sát nhân như ngươi, một kẻ tra tấn những nạn nhân của mình sau khi trói tay họ. Hay là cả lũ quỷ sứ cũng từ chối nhận ngươi?”
Stourton ngồi thẳng lại trên yên ngựa. Khuôn mặt không còn giọt máu của lão sáng lên như một bông hoa chết chóc, và bóng tối âu yếm lão bằng đôi bàn tay đen sì như thể lão ta chính là chủ nhân của nó.
“Ta sẽ cưỡi ngựa thẳng xuống địa ngục như một vị hoàng đế,” lão the thé lên tiếng. “Nhưng chỉ khi không còn một kẻ nào thuộc dòng họ Hartgill sống trên cõi đời này nữa.”
Lão ta giơ bàn tay xương xẩu như Thần Chết lên, và khi lũ thuộc hạ rút kiếm ra, những lưỡi kiếm của chúng lại một lần nữa đẫm máu. Tôi nghĩ tôi có thể nghe thấy bà Alma Popplewell gọi tên tôi từ một nơi xa xôi nào đó. Cái thế giới nơi những bà bảo mẫu và các sinh vật vô hại khác tồn tại bỗng chốc trở nên xa xôi như mặt trăng. Ngài Longspee lùi lại một bước. Tôi thấy bàn tay ngài nắm chặt trên cán kiếm. Bọn chúng có tận năm tên lận. Năm chọi một. Tôi bỗng sợ hãi thay cho ngài đến mức tôi muốn nhảy lên phía trước và đứng cạnh bên ngài. Nhưng Ella đã giữ tôi lại.
“Đừng, Jon!” nó thì thào.
Đúng lúc đó lão Stourton thúc ngựa phóng về phía ngài Longspee.
Tôi thét lên khi lão vung thanh kiếm ra, nhưng ngài Longspee đã nhanh chân hơn. Ngài tránh được lưỡi kiếm của lão và đâm thanh kiếm của mình vào mạn sườn gã tử tù. Con ngựa của Stourton lồng lên lúc chủ nhân của nó ngã xuống. Lão ta rớt xuống đám cỏ sũng nước và tôi có thể thấy trái tim màu đen của lão sáng lên như một cục than đằng sau đám xương sườn. Lão ta khản giọng thốt ra mấy câu chửi thề trong khi vật lộn đứng dậy trên đôi chân của mình. Máu chảy dài trên bộ trang phục màu trắng của lão. Lão xua đám thuộc hạ đang tiến tới bằng một tiếng quát giận dữ. Bóng tối bủa vây quanh lão như một tấm áo choàng. Lũ chó săn đen kịt nằm phủ phục bên cạnh lão, dựng đứng lông lên và khoe trọn bộ nanh ra.
Ngài William ngoái lại nhìn chúng tôi. Tôi không chắc mình đã nhìn thấy gì trên khuôn mặt của ngài. Có phải là nỗi lo sợ hậu cái chết? Nếu đúng vậy, đó chắc hẳn là nỗi lo sợ cho chúng tôi.
Lão Stourton vẫn đang loạng choạng, nhưng lão đã nhặt thanh kiếm rơi dưới cỏ lên. Lũ thuộc hạ của lão vẫn đang đợi đằng sau.
“Ta nhắc lại. Tránh ra, đồ ngu!” lão rít lên với ngài Longspee. “Thằng nhóc là của ta. Nó thuộc về ta từ khi dòng máu Hartgill của nó tròng cái thòng lọng quanh cổ ta.”
Mặt trời buổi chiều tối sưởi ấm cổ tôi, nhưng nó thuộc về một thế giới khác. Những tia nắng của nó bị che phủ bởi lớp sương mù đang lơ lửng trên khu vườn.
“Biến đi,” ngài Longspee cất giọng một cách bình tĩnh.
“Hãy biến đi và đừng có quay lại.”
Lão Stourton đáp trả bằng một điệu cười khinh bỉ. Giọng cười của lão nghe giống như tiếng sủa của loài chó. Mồm lão há rộng cứ như thể làn da trắng tựa giấy da thuộc của lão đã bị rách mất vậy.
“Xé xác hắn!” lão gào lên. Lũ chó ngay lập tức lao vào ngài Longspee với những chiếc răng nanh nhe nhởn. Ngài hiệp sĩ chém đứt đầu con chó thứ nhất trước khi nó kịp cắm răng vào ngài. Con chó săn thứ hai cắn được vào tay ngài, nhưng ngài Longspee đã cắm ngập lưỡi kiếm vào lưng nó. Hai con thú tan ra thành lớp sương mù bẩn thỉu. Tiếng tru của chúng xé rách màng nhĩ trong tai tôi, và trước khi tôi kịp nhận thức được điều gì đang xảy ra, Ella đã túm tôi kéo xuống đất, quàng vòng tay bảo vệ quanh người tôi. Phía trên chúng tôi, những lưỡi kiếm đập vào nhau tạo thành tiếng kim loại chói tai. Cả người tôi lạnh cóng. Năm chọi một.
Tôi nhìn thấy lưỡi kiếm của chúng kéo xệch bộ áo giáp bằng xích sắt của ngài Longspee, đâm qua vai, cắt vào đùi ngài. Tôi nhìn thấy máu và những vết thương cứ tự khép miệng như thể ánh sáng quanh ngài Longspee đã làm liền chúng. Hai trong số những gã thuộc hạ của Stourton ngã xuống sau khi ngài Longspee cắm lưỡi kiếm vào nơi trái tim chúng đã từng ngự trị. Khói đen cuộn ra từ ngực chúng mang hình hài con người được một lúc rồi sau đó tan biến giữa những tiếng la hét khủng khiếp. Ngài hiệp sĩ bổ đôi đầu gã thuộc hạ thứ ba. Đó chính là tên mặt chuột. Cơ thể hắn vỡ vụn ra như đống tro tàn bị thổi tung lên bởi cơn gió. Mặt lão Stourton bừng bừng giận dữ lúc những tia sáng cuối ngày tìm được đường quay lại với khu vườn.
Nhưng hơi thở của ngài Longspee đã trở nên nặng nhọc. Ngài loạng choạng khi bị gã thuộc hạ cuối cùng lao vào tấn công, cánh tay trái yếu ớt của ngài treo lủng lẳng bên sườn.
Tôi vùng ra khỏi Ella để giúp ngài, nhưng bỗng nhiên lão Stourton đứng ngay phía trên tôi. Tôi lập cập lùi lại. Ella chạy ra giúp tôi, thanh gỗ vẫn còn trong tay nó.
Ella quả cảm, nhưng một thanh củi thì có tác dụng gì trong việc chống lại một kẻ sát nhân bất tử chứ? Stourton phả hơi thở hôi thối của lão lên mặt nó và nó ngã ngược ra bãi cỏ. Tôi nghe thấy mình hét lên trong cơn giận dữ, tôi cảm thấy những nắm đấm của tôi siết chặt lại để đấm vào bộ mặt ác độc của lão. Nhưng Stourton chỉ khinh bỉ cười vào mặt tôi và giơ thanh kiếm lên.
Thế là xong, Jon Whitcroft - tôi nghe thấy chính mình nói trong đầu. Mọi người sẽ giải thích cho cái chết của mày như thế nào nhỉ? Rằng mày đã tự chìm đắm bản thân trong nỗi nhớ nhà? Hay là mày đã tự cắt bản thân ra thành từng mảnh nhỏ và tự làm mình ngạt thờ bằng khói đen, kéo theo cả Ella Littlejohn tội nghiệp? Tôi nghĩ tôi có thể cảm thấy mũi kiếm của lão Stourton giữa những xương sườn của mình. Ella chắc chắn đã nhầm. Tất nhiên là lão ta có thể giết tôi chứ. Lão ta sẽ cắt nhỏ chúng tôi ra nữa! Nhưng bất thình lình đôi mắt của Stourton chết lịm đi như những cục than hồng bị thổi tắt ngúm trong cơn gió lạnh, và đôi bàn tay xương xẩu của lão buông rơi thanh kiếm. Lưỡi kiếm của ngài Longspee thọc xuyên qua ngực lão, màu thép đã được rèn của nó đen như bồ hóng và lão lãnh chúa bị kết án treo cổ đổ gục xuống dưới chân tôi. Khói bốc lên từ vết thương trên ngực lão và tiếng rên rỉ của lão vuốt qua mặt tôi như một bàn tay bằng nước đá, như thể lão vẫn đang cố gắng lôi tôi đi theo. Và rồi lão đi hẳn, tất cả những gì còn lại chỉ là một lớp vỏ bọc trống rỗng trông giống như lớp xác đã lột của một con chuồn chuồn.
Cả người tôi run lên; tôi không thể nào dừng lại được. Xung quanh tôi, đám sương mù tối tăm đã tan, và tôi lại có thể nhìn thấy khu nội trú ở phía cuối vườn.
“Ella!” tôi gọi, giọng run run.
Tôi không dám quay lại. Tôi sợ sẽ thấy nó nằm chết trên thảm cỏ đằng sau lưng mình, và trái tim tôi lỡ một nhịp vì vui sướng khi tôi nghe thấy giọng nói của nó ở bên cạnh.
“Eo, trông kinh quá!” nó nói. Và nó ở đó, lá khô vương trên tóc cùng một vài vết xước trên trán, nhưng nó còn sống - và nó đang nhìn chằm chằm với vẻ khiếp sợ vào cái vỏ trống rỗng của lão Stourton đang dần tan biến trong ánh nắng chiểu.
Những tia nắng cuối cùng cũng làm cho ngài Longspee nhòe dần đi. Tôi gần như không thể nhìn ra ngài nữa lúc ngài tra kiếm lại vào vỏ.
“Cảm ơn ngài!” tôi ấp úng. “Cảm ơn. Chúng cháu...”
Ngài Longspee chỉ gật đầu trong yên lặng. Ngài trao cho chúng tôi hình bóng một nụ cười và rồi biến mất.
Khu vườn chìm trong thứ ánh sáng vàng và đỏ của mặt trời đang lặn. Tôi không còn thấy một tí dấu vết nào của trận chiến, ngoại trừ vài cành cây gãy và mấy dấu chân chó hằn lại trên cỏ.
Tôi nghe thấy tiếng bà Alma Popplewell gọi, “Jon ơi?” Giọng bà không còn như từ một hành tinh khác vọng đến qua làn sương mù đen nữa. “Jon!”
“Chúng cháu ở đây! Chúng cháu đang ở trong vườn!” tôi đáp trả, ngạc nhiên vì giọng mình nghe có vẻ bình thường quá đỗi.
Đầu gối của Ella có khi cũng đang nhũn ra chả kém gì tôi lúc chúng tôi quay lại khu nhà.
“Mẹ cháu đang đợi trên điện thoại, Jon!” bà Alma gọi với về phía chúng tôi. “Ta không thể tin được là các cháu đã ở trong vườn. Các cháu có nhìn thấy đám sương mù đấy không? Ta đang nghĩ không biết ai lại đốt cái-gì-Chúa-mới-biết trong khu vườn của chúng ta nữa.”
Ella và tôi liếc vội nhau. Chúng tôi không thể tin nổi là bà Alma không đọc ra được trên khuôn mặt chúng tôi điều gì đã xảy ra, nhưng bà ấy chỉ dừng lại không nói nữa khi nhìn thấy mấy cái lá trên tóc Ella và đám bùn trên quần của tôi.
“Có hai con chó,” tôi nói. “Lũ quái thú kinh khủng. Nhưng bọn cháu đã đuổi chúng đi rồi.”
“Chó ư?” bà Alma ném một cái nhìn đầy lo lắng ra ngoài khu vườn. “Ồ! Đôi khi bọn chúng đuổi theo lũ vịt trong công viên và rồi nhảy qua bức tường. Họ thực sự nên cấm mọi người tháo dây buộc chó trong công viên đi. Dùng điện thoại trong văn phòng ấy, Jon. Ella có thể nếm thử cái bánh mà ta vừa làm.”
Bánh. Mẹ tôi trên điện thoại. Cuộc đời đúng là vẫn tiếp diễn.
Sau những gì vừa xảy ra, tôi có cảm giác rất lạ khi phải trả lời những câu hỏi như “Con đã quen được bạn mới nào chưa?” hay “Thức ăn thế nào?” Thay vào đó, tôi muốn hỏi bà, “Mẹ, mẹ có biết là Salisbury này nguy hiểm như thế nào cho con trai mẹ không?” Nhưng tôi kìm mình lại. Ngài Longspee đã cho lão Stourton xuống địa ngục và mọi thứ đều ổn.
Nghe giọng mẹ rất hạnh phúc. Cậu con trai của bà vừa sống sót qua âm mưu ám sát của một tên lãnh chúa ma, tất cả chỉ bởi vì bà đã gửi nó đến nơi nguy hiểm nhất thế giới để làm một nam nhân trong gia tộc của bà, thế mà bà chỉ kể về kỳ nghỉ với Râu Xồm và việc ông ta đã tử tế như thế nào với lũ em của tôi thôi. Không sao cả. Tôi không quan tâm. Tôi chỉ mừng rằng mình vẫn còn sống và Ella cũng không sao cả. Và rằng bây giờ tất cả mọi chuyện đều đã qua.
“Sao, con nghĩ thế nào, Jon?”
Chết thật, tôi nhỡ mất thông tin gì đó rồi.
“Nghĩ về cái gì ạ?”
“Về một kỳ cuối tuần thú vị chỉ dành riêng cho hai mẹ con ta? Mẹ sẽ đến đó vào thứ Sáu và ở lại đến chiều tối Chủ nhật. Con biết đấy, chúng ta đang có mấy người thợ xây trong nhà vì Matt đang cần gấp một phòng làm việc; nếu không mẹ đã muốn con quay về đây rồi. Nhưng con không nghĩ là thậm chí sẽ vui hơn khi chúng ta có một vài ngày riêng bên nhau sao? Mẹ con mình có thể lái xe đến Stonehenge, đi dạo và ăn tối ở quán Xưởng Cũ. Lần trước khi đến xem trường, mẹ con mình chỉ có mấy tiếng, nhưng lần này chúng ta thậm chí có thể tham dự buổi lễ tối của nhà thờ. Mẹ chưa bao giờ đến nhà thờ vào buổi tối cả. Chắc là phải tuyệt diệu lắm, con không nghĩ vậy sao?”
“Chắc là thế ạ,” tôi lầm bầm, bỗng dưng tôi nhận ra mình nhớ mẹ khủng khiếp. Tôi muốn kể cho mẹ nghe tất cả mọi thứ đã xảy ra với tôi trong tuần vừa rồi (ngay cả khi tôi chắc chắn là bà sẽ không tin một lời nào cả). Tôi muốn bà gặp Angus và Stu và Ella - vâng, đặc biệt là Ella. Mặc dù... có khi đó không phải là một ý hay. Các bà mẹ có thể trở nên rất đáng xấu hổ khi gặp bạn của con, đặc biệt nếu những người bạn đó lại là con gái. Và bỗng nhiên nhận thức chớp qua đầu tôi như một tia sét. Gượm đã. Mẹ không thể đến đây được. Mẹ cũng là một người nhà Hartgill, giống tôi. Thế thì sao? cái phần có lý hơn trong đầu tôi phản bác lại. Lão Stourton đã biến mất rồi, tan biến, hoặc bất cứ từ gì mà mọi người vẫn gọi khi lũ ma quỷ chết đi. Chuyện đó qua rồi. Và... không phải bà Zelda đã nói là lão ta chỉ săn lùng nam nhân trong dòng họ Hargill sao?
“Jon à?”
Tôi nhìn chằm chằm vào cái điện thoại.
“Dạ, con vẫn ở đây, mẹ.”
“Con có muốn mẹ đến không?”
“Chắc chắn rồi.” Miễn là Râu Xồm không đi cùng...
Thư giãn đi, Jon Whitcroft! Chuyện qua rồi. Không còn những gã sát nhân ma, không còn lũ chó đen. Bây giờ vấn đề duy nhất còn lại trong cuộc đời mày có một bộ râu xồm và mẹ vừa nói là bà sẽ không mang ông ta theo. Tôi nhìn xuống bàn tay mình. Nó đang chảy máu. Chắc hẳn tôi đã sượt tay qua bức tường.
Ella thò đầu qua cánh cửa. Tay nó cầm hai ly sô cô la nóng. Bà Alma pha sô cô la nóng ngon tuyệt cú mèo. Bánh của bà ấy thì không được ngon như thế.
“Trong tuần mẹ sẽ gọi lại cho con nhé,” mẹ tôi nói qua điện thoại, “ngay khi mẹ biết được chuyến tàu mà mẹ sẽ đi. Mẹ nên mang gì cho con nhỉ?”
“Kẹo,” tôi lầm bầm. Tôi vẫn đang nhìn chằm chằm vào bàn tay bị thương của mình. “Sô cô la, kẹo cam thảo, kẹo dẻo...” Tất cả những thứ đó đều bị cấm trong lãnh thổ của ông bà Popplewell, nhưng mẹ không cần phải biết điều đó. Có khi Angus có thể cho tôi mượn một con thú nhồi bông của nó để giấu đống kẹo ấy.
Ella nhướng mày khi nghe danh sách của tôi. Nó ghét kẹo dẻo và kẹo cam thảo - điều đó thật hoàn hảo. Khi ta mười một tuổi thì chả có gì tệ hơn là có một đứa bạn thích cùng một loại kẹo với mình.
Bà Alma cho phép Ella ở lại cùng xem bộ phim đang được chiếu trong phòng chung. Đó là một bộ phim kinh dị cũ rích nào đó với mấy con ma nhìn như những tấm ga giường trôi lềnh bềnh. Nó thậm chí không dọa được cả mấy đứa lớp hai. Nhưng Ella và tôi không tài nào cười nhạo bộ phim nổi. Chúng tôi ngồi bên cạnh nhau và cố gắng quên đi lũ ma quỷ mình vừa gặp trong vườn. Tuy nhiên cả hai đứa đều biết là chúng tôi vẫn sẽ nhớ tới chúng cho đến khi chúng tôi già như bà Zelda.
Dù vậy, tối hôm ấy, hai đứa chúng tôi thực sự tin rằng lão Stourton và lũ thuộc hạ đã biến mất mãi mãi khỏi cuộc đời của chúng tôi, nhờ có ngài Longspee. Nhưng, chúng tôi sẽ sớm phát hiện ra rằng ngay cả Ella cũng có vài điều cần phải học về ma quỷ.