← Quay lại trang sách

Chương 13 NHÀ THỜ DÒNG HỌ HARTGILL

Nghĩa địa Kilmington nằm ở phía cuối một con đường hẹp im lìm trông chả có vẻ gì giống với một nơi thường được viếng thăm bởi lũ sát nhân đã chết. Phía bên tay phải bãi tha ma chính là ngôi nhà mà dòng họ Hartgill từng sống. Ngôi nhà tất nhiên đã ít nhiều thay đổi qua quãng thời gian năm trăm năm, nhưng điều làm tất cả chúng tôi dừng lại trên đường là tấm biển BÁN NHÀ cạnh cổng chính. Tôi chắc chắn mỗi người trong chúng tôi đều có chung một suy nghĩ: những người chủ của ngôi nhà này chắc hẳn đã quá mệt mỏi với việc sống bên cạnh một nghĩa địa bị ám bởi một nhóm hồn ma sát nhân, hoặc - nếu câu chuyện của Râu Xồm là chính xác - họ đều không còn trên cõi đời này nữa. Tôi quyết định không nghĩ tiếp về khả năng thứ hai.

Nghĩa địa được bao quanh bởi một hàng giậu cao, cổng khóa kín. Râu Xồm và tôi trèo vào. Bà Zelda cố thử nhưng cuối cùng đành chấp nhận sự giúp đỡ của chúng tôi với một bộ mặt đằng đằng sát khí. Tôi nghĩ bà vẫn đang cảm thấy khó chấp nhận sự thật là mình đã bảy mươi lăm tuổi.

Phía bên kia bờ giậu im lặng như tờ. Im lặng đến mức tôi nghĩ rằng có thể nghe thấy tiếng tim mình đập. Nhưng chả có tí yên bình nào trong sự tĩnh lặng này, cảm giác như nó chứa đầy những tiếng thở dài bị kìm nén và những tiếng khóc không thành lời - cứ như thể mặt đất cũng đã tự ghi lại kỷ niệm về những chuyện đã xảy ra ở đây từ rất lâu rồi. Giữa những bia mộ là nhà thờ, tường sần sùi như khuôn mặt của một ông già, những ô cửa sổ tối thui như những con mắt đang quan sát chúng tôi.

•••

“Không cần phải tìm tên của Stourton ở đây đâu,” bà Zelda nói khi tôi đang đọc lướt qua các bia mộ. Đa số chúng đã bị nắng gió làm cho biến dạng đến mức chúng thọc lên khỏi lớp cỏ thấp tè như những cái răng hỏng. “Lão ta được chôn ở Stourhead, địa bàn của nhà Stourton cơ. Ta vẫn luôn tự hỏi là tại sao lão không ám khu vực đó. Nghĩa địa này thậm chí còn không phải nơi lão ra tay giết người nữa. Đây là nơi William Hartgill được cứu sống bởi sự dũng cảm của con trai ông ta.”

Râu Xồm cũng đang nhìn quanh. “Ai mà biết được. Có khi lão Stourton không thích đám du khách ở Stourhead,” ông ta nói.

Trời đã bắt đầu tối dần, nhưng nhanh lắm thì vẫn còn cả tiếng nữa mặt trời mới lặn. Nhỡ chúng nó dọa cho Ella chết vì sợ thì sao? Trái tim tôi thắt lại.

“Ella?” tôi gọi. “Ella!”

Đương nhiên là không có câu trả lời. Bây giờ đừng có bắt đầu khóc đấy, Jon Whitcroft, tôi ra lệnh cho bản thân mình. Râu Xồm sau này sẽ lấy đó làm bằng chứng mày chỉ là một đứa hư đốn yếu đuối, và Ella cũng sẽ không thích đâu. Nhưng cũng chỉ vô ích; nước mắt nóng hổi vẫn cứ trào ra khỏi mắt tôi.

May thay, bà Zelda đã làm tôi phân tâm.

“Đi nào, Jon,” bà nói. “Có cái này ta muốn chỉ cho cháu.”

Nhà thờ cũng bị khóa kín. Râu Xồm phá khóa bằng một mẩu dây kim loại. Ông ta nhận thấy vẻ mặt kinh ngạc của tôi. “Nếu cháu thích khám phá những ngôi nhà ma ám bị bỏ hoang thì đây là kỹ năng cần thiết đấy,” ông ta nói.

Tôi băn khoăn không biết mẹ mình có biết về khía cạnh này của Râu Xồm không. Tôi quyết định sẽ không nói cho bà biết. Mấy cái tài lẻ ẩn giấu này sẽ chỉ càng làm cho ông ta trở nên thú vị hơn trong mắt bà mà thôi.

Không khí đằng sau những cánh cửa nhà thờ đượm mùi sáp nến và hoa héo, và lạnh như hơi thở của một hồn ma.

“Đằng này,” bà Zelda nói. Bà vẫy tôi đi dọc theo lối đi chính giữa và dừng lại trước điện thờ vài bước.

“Họ đều nằm ở đó,” bà nói, chỉ về phía mấy cái bia mộ được đặt trên sàn nhà trước mặt chúng tôi. “Rất nhiều người của dòng họ Hartgill. Hai người bị giết hại có khi cũng được chôn ở đây. Mẹ cháu chưa bao giờ đưa cháu đến đây à?”

Tôi nhìn chằm chằm vào mấy cái tên được khắc trên sàn và lắc đầu. “Cháu nghĩ là mẹ cháu thậm chí còn không biết chỗ này ấy,” tôi nói khẽ. “Mẹ cháu không thực sự quan tâm đến tổ tiên lắm.”

“Điều đó đúng.” Râu Xồm cười khẽ. “Hoàn toàn ngược lại thì đúng hơn. Margaret chế nhạo những người cứ thích đi đào bới lịch sử gia đình.”

Cái nhìn mà ông ta nhận được từ tôi có lẽ là không được thân thiện cho lắm. Tôi vẫn không thể nào chấp nhận rằng ông ta biết rất nhiều về mẹ tôi.

Bà Zelda vẫy tôi về phía ô cửa sổ bên tay phải chúng tôi.

“Ô cửa sổ này là để tưởng nhớ John và William Hartgill,” bà nói. “Một trong những hậu duệ của họ đã đặt làm nó. Nó thật đẹp, phải không?”

Tôi gật đầu. Cảm giác thật lạ lùng khi phát hiện ra tôi có những vị tổ tiên được vẽ tranh lên kính và được chôn dưới sàn nhà thờ. Tôi không chắc liệu đó có phải là điều đáng tự hào không nhưng tôi vẫn cảm thấy thế. Bỗng nhiên tôi nhìn thấy tất cả bọn họ đứng thành một hàng dài sau lưng tôi, tất cả những người đã truyền lại tên của họ cho mẹ tôi. Họ đều đã từng trẻ trung như tôi. Họ đều đã yêu quý mẹ của mình và có khi một vài người trong số họ thậm chí cũng đã từng phải đối mặt với một lão Râu Xồm của chính họ. Tôi cảm thấy họ trong máu xương mình. Tôi nghe thấy giọng nói của họ như một dàn đồng ca trong trái tim tôi. Có nhiều người quá - suy nghĩ này vừa an ủi mà đồng thời cũng làm tôi không yên. Những cái tên trên các phiến đá chỉ càng làm sáng rõ sự thật là một ngày nào đó sẽ có một bia mộ với tên tôi ở trên.

Bà Zelda lôi tôi ra khỏi những suy nghĩ của mình và lần này thì tôi thực sự cảm kích vì điều đó.

“Ta nghĩ rằng trời sắp tối rồi,” bà nói. “Matthew, con nên trốn giữa những cái cây ở đằng kia bên cạnh cánh cổng. Jon và mẹ sẽ ở lại đây, trong nhà thờ. Hãy gọi vào di động của mẹ ngay khi con thấy ai đó hoặc cái gì đó ở ngoài. Ngay khi nghe thấy con gọi, chúng ta sẽ đi ra. Sau đó chúng ta sẽ giả vờ trao đổi Jon để lấy Ella và ngay khi chúng thả Ella ra, mẹ con mình sẽ đánh lạc hướng bọn chúng để cho hai đứa nhóc chạy vào nhà thờ.”

Nghe không thực sự giống một kế hoạch tinh vi cho lắm, xét thấy chúng tôi sẽ phải đụng độ với lão Stourton và ít nhất một người còn sống (tôi vẫn đang hy vọng rằng kẻ trợ giúp Stourton vẫn còn sống và không phải là xác chết bị nhập bởi một gã thuộc hạ của Stourton như Râu Xồm dự đoán). Và chúng tôi cũng sẽ không an toàn mãi trong nhà thờ được. Tuy nhiên, vì tôi cũng không nghĩ ra được kế hoạch nào khác tốt hơn và Râu Xồm xem ra không có vấn đề gì với vai trò được giao phó, nên tôi quyết định giữ những suy nghĩ đó cho riêng mình.

“Tốt, chúng ta sẽ làm như vậy,” ông ta nói với bà Zelda. “Vậy thì tốt nhất là con nên cầm theo khẩu súng trường.”

Súng trường?

Bà Zelda nhận ra vẻ hoài nghi trên mặt tôi. “Lúc bé, Matt thường bắn lũ cáo và chim ưng vẫn hay rình mò mấy con thỏ của nó. Rồi nó trở thành một xạ thủ rất khá. Và nó cũng mới chỉ mất có duy nhất một con thỏ thôi.”

“Phải, con vẫn mơ thấy con cáo đấy.” Râu Xồm gầm gừ. Lần đầu tiên tôi có thể nhìn thấy ông ta dưới bộ dạng đã từng có thời là một cậu bé. Nhưng ngay cả trong hình ảnh đấy tôi vẫn không thể xóa đi bộ râu xồm, điều này làm cho cậu ta nhìn khá kỳ lạ.

“Khả năng bắn súng của con có hơi cùn một tí,” ông ta tiếp, “nhưng con sẽ cố hết sức mình. Nhưng mà con sẽ phải bắn cái gì nhỉ? Đạn đâu có ảnh hưởng gì đến lũ ma quỷ, đúng không?”

“Bắn đứa còn sống ấy,” bà Zelda trả lời với vẻ mặt dữ tợn. “Hắn ta đã bắt cóc Ella.”

Râu Xồm nuốt nước bọt. “Con nói lại này mẹ. Sẽ không có đứa còn sống nào đâu. Và con hy vọng là con đúng. Con thấy bắn một xác chết sẽ dễ dàng hơn nhiều, mặc dù con nghi là cả ổ đạn cũng không ngăn hắn lại được.”

Bà Zelda không trả lời. Bà chỉ lẩm bẩm, “Ta thề trên tất cả lũ cóc của mình, bất cứ đứa nào xuất hiện tại nghĩa địa này sẽ chỉ được ra về không thương tích nếu như ta lấy lại được cháu gái ta - mà không có một vết xước nào trên người nó.”

Đôi tay bà run lập cập lúc bà lôi chiếc khăn tay ra khỏi túi áo khoác và bắt đầu lau cặp kính bị mờ. Râu Xồm quàng tay qua vai bà. Sau đó ông ta quay lại và đi về phía cửa nhà thờ. Ông ta mở cửa ra và chúng tôi có thể nhìn thấy là bà Zelda đã đúng. Trời đã bắt đầu tối.

“Matthew, đợi đã!” bà Zelda gọi với theo Râu Xồm. “Đôi nạng của mẹ ở trong ô tô. Mang chúng đến cho mẹ trước khi con đi nấp được chứ? Chúng có thể sẽ có ích đấy.”

Một khẩu súng trường và một đôi nạng. Nghe không giống những vũ khí hữu ích để chống lại lão Stourton cho lắm. Tôi nhìn xuống tay mình. Con dấu sư tử của ngài Longspee vẫn còn rất rõ. Tôi chỉ muốn nắm con dấu đó lại. Nhưng rồi tôi thả tay xuống. Tôi không thể nào quên đi câu chuyện của cậu nhóc thành viên dàn hợp xướng. Có thể đó chính là mảng tối ám ảnh ngài Longspee - rằng chính bản thân ngài cũng không tốt đẹp gì hơn những kẻ mà ngài bảo vệ tôi khỏi. Và có khi đó chính là lý do ngài vẫn còn ở đây. Có khi tất cả các hồn ma đều là những kẻ sát nhân hoặc là nạn nhân của chúng. Bố tôi đã bao giờ quay lại dưới dạng một hồn ma chưa? Chưa hề.

Nỗi sợ hãi mang lại cho ta những suy nghĩ não nề. Và không phải lúc nào chúng cũng là những suy nghĩ thông minh nhất.

Gì cũng được. Tay không đợi lão Stourton không phải là một cảm giác dễ chịu.

“Cháu có thể dùng một cái nạng.” Bà Zelda chắc đã đọc được suy nghĩ của tôi. Có khi rốt cuộc bà lại là một phù thủy thật.

Bà ôm chặt tôi vào lòng như thể đang cố gắng bẻ gãy mấy cái xương sườn của tôi vậy.

“Cảm ơn cháu rất nhiều vì đã đi cùng chúng ta,” bà nói. “Cháu đúng là một người bạn đích thực và không có gì trên cuộc đời này quý giá hơn điều đó. Ella thật là may mắn khi có bạn như cháu.”

“Không có gì ạ,” tôi ấp úng. “Ella cũng sẽ làm điều tương tự cho cháu mà.”

“Ừ, cháu nói đúng. Con bé chắc chắn sẽ làm thế. Nhưng dù sao thì - cảm ơn cháu.”