Chương 20 BẠN BÈ
Lúc bà Zelda thả tôi xuống nhà ông bà Popplewell thì đã quá mười giờ.
“Gặp lại ngày mai nhé,” Ella nói, nhưng tôi chỉ xoay xở được một cái gật đầu mệt mỏi. Vâng, tôi biết, đáng ra tôi phải thấy hạnh phúc, nhưng lúc tôi trèo ra khỏi ô tô nhìn về phía nhà thờ, trái tim tôi trĩu nặng hơn cả một cục chì khi biết rằng mình sẽ không còn tìm được ngài Longspee ở đó nữa.
Bà Zelda đã mời tôi về nhà bà đêm nay, nhưng tôi cảm thấy đã đến lúc phải quay về với Angus và Stu, với cả bà Zelda đã báo trước cho ông bà Popplewell rằng tôi sẽ về rất muộn - lại một lần nữa.
Bà Alma nhìn khá nhăn nhó lúc ra mở cửa.
“Jon!” bà nói khi dẫn tôi lên cầu thang. “Ta chỉ đơn giản là không thể để mọi thứ tiếp tục thế này. Ta mừng vì cháu thân thiết như vậy với gia đình Littlejohn, nhưng cháu vẫn là một học sinh nội trú, và...”
“Chuyện này sẽ không xảy ra nữa đâu ạ!” tôi ngắt lời bà. “Chắc chắn ạ.”
Tôi rón rén đi vào phòng lặng lẽ đến mức tôi thậm chí gần như không nghe được tiếng mình, thế mà ngay khi tôi vừa kịp kéo tấm chăn lên tận cằm thì một luồng sáng chiếu thẳng vào mặt tôi. Stu đang nhòm qua thành giường xuống chỗ tôi.
“Sao rồi?” nó hỏi. “Lần này thì cậu đã ở đâu vậy? Angus nói Ella chắc hẳn đã cho cậu uống một trong những dung dịch tình dược của bà nó. Nhưng tớ cá với nó toàn bộ đống kẹo của mình rằng có một câu chuyện khác đằng sau. Cậu có hai lựa chọn: hoặc là kể với bọn tớ chuyện gì đang xảy ra, hoặc là Angus sẽ cù cậu cho đến khi nào kể thì thôi. Cậu biết nó giỏi trò đấy lắm mà, mặc dù nó hát như một thiên thần ngây thơ ấy.”
“Tớ cái gì cơ?” Angus hỏi.
Nhưng nó đã không cần phải chứng minh khả năng hỏi cung của mình. Tôi kể lại mọi chuyện cho bọn nó. Về lão Stourton, ngài Longspee, trái tim của ngài, hồn ma dàn hợp xướng và Lacock. Tôi không hề biết mình muốn kể mọi chuyện cho bọn nó nhiều như thế nào cho đến khi cuối cùng cũng làm được việc đó.
Trong khi tôi kể câu chuyện của mình, Stu cứ bật tắt cái đèn pin của nó như một ngọn hải đăng, còn Angus thì cứ thốt ra liên tục những tràng ôi chao và tuyệt thật. Nhưng chúng tin tôi.
“Đó thấy chưa, Angus,” Stu nói sau khi tôi kết thúc. “Tình dược cái chân tớ ấy! Con chim nhồi bông của cậu thuộc về tớ!”
“Sao lại thế?! Cậu cá là chú của Ella là một tên sát thủ giết thuê cơ mà!”
“Thì sao? Ông ta là một thợ săn ma. Cũng như nhau mà.”
“Không,” tôi nói. “Thực ra ông ấy là một nha sĩ, Stu ạ.”
“Thật sao? Thế tại sao ông ấy lại cạo râu?”
Stu không phải loại dễ chịu khuất phục và rõ ràng là nó vẫn nghĩ giả định về một tên sát thủ giết thuê của mình hay ho hơn nhiều so với một đám hồn ma sát nhân. Trái lại, Angus giữ im lặng trong một lúc lâu. Cuối cùng nó trèo ra khỏi giường và nhặt cái quần của nó trên sàn lên.
“Vậy thì được thôi. Ta đi đến nhà thờ nào,” nó nói, chui đầu vào áo len. “Có khi ngài vẫn còn ở đó. Tớ muốn gặp ngài, ngay cả nếu đó là thứ cuối cùng tớ sẽ nhìn thấy.”
“Angus! Ngài Longspee đi rồi!” tôi nói.
Nhưng tôi đã nhắc đến việc Angus có thể cứng đầu như thế nào chưa?
Nó không để bị thuyết phục bởi tôi hay Stu, cái đứa mà bản thân cũng không thích thú tí nào với cái suy nghĩ đi lang thang quanh nhà thờ vào lúc đêm hôm khuya khoắt thế này.
Lúc chúng tôi phát hiện ra cửa dưới nhà đã bị khóa và chìa khóa thì không được cắm trong ổ nữa (hẳn là có điều gì đó đã làm ông bà Popplewell nghi ngờ), Angus đề nghị chúng tôi trèo qua cửa sổ tầng một. May làm sao nó cũng không cao quá, nhưng ngay lúc tôi đang khom mình trên gờ tường, Stu đương nhiên phải nói cho tôi biết việc ông Edward Popplewell ngủ với một khẩu súng đã lên đạn bên cạnh giường và nửa năm trước ông ấy đã bắn một con mèo ra khỏi mái nhà vì nghĩ nó là một tên trộm. Angus nói chuyện này hoàn toàn là khoác lác, nhưng tôi mừng khi thấy ô cửa sổ phòng ông bà Popplewell vẫn tối thui trong suốt thời gian chúng tôi nhảy xuống.
Chúng tôi vào được trong nhà thờ mà không phải leo trèo thêm gì. Tôi đã phải trịnh trọng thề với Angus rằng sẽ không bao giờ kể làm thế nào nó đưa chúng tôi vào được bên trong, và tôi sẽ giữ lời hứa của mình. Là một thành viên dàn hợp xướng, Angus đương nhiên đã dành nhiều buổi tối trong nhà thờ, nhưng cả Stu và nó đều chưa bao giờ vào đó khi nhà thờ tối thui và hoàn toàn vắng lặng, ngoại trừ sự hiện diện của những người chết. Sự im ắng giữa những bức tường cổ xưa là tuyệt đối đến mức cảm giác như nó đến từ bản thân những tảng đá vậy. Tất cả những gì chúng tôi nghe được là tiếng bước chân của mình. Đèn pin của Stu soi một khoảng sáng hẹp lên mấy phiến đá lát sàn. Trong một lúc tôi nghĩ tôi có thể nhìn thấy Bà Xám giữa những hàng cột.
“Cái này phải không?” Angus thì thầm, dừng lại trước cái quan tài bằng đá của ngài Longspee.
Tôi gật đầu. Tôi vẫn chắc chắn rằng ngài Longspee đã đi rồi. Đi với bà Ella, đến bất cứ nơi nào mà ta đi sau hàng thế kỷ làm một hồn ma. Và cũng lần thứ vài nghìn rồi tôi tự nói với bản thân rằng mọi chuyện vẫn ổn, mặc dù tôi đã kịp nhớ ngài nhiều đến mức trái tim tôi nhức nhối.
“Thế làm sao để cậu gọi ngài ấy?” Angus hỏi. Stu đang nhìn vào bức tượng đá của ngài Longspee như một con thỏ nhìn chằm chằm vào nòng súng của ông Edward Popplewell.
“Cậu gọi tên ngài,” tôi nói. “Và nói là cậu cần ngài giúp.”
“Làm ơn,” tôi nghe thấy mình thì thầm một lần nữa. “Làm ơn, ngài William Longspee. Hãy giúp cháu!” Cứ như đã mấy năm trời kể từ khi tôi nói những lời này.
Angus và Stu nhìn chằm chằm vào khuôn mặt bằng đá cẩm thạch của ngài Longspee - và không thốt ra một từ nào.
Thế rồi Angus thẽ thọt, “Trông ngài có vẻ rất coi trọng lời thề của mình. Có khi ngài sẽ nổi giận vì chúng mình gọi ngài mà lại không thực sự cần giúp đỡ.”
“Có thể lắm,” Stu thì thầm. “Tớ nghĩ chúng ta nên quay lại thôi. Bà Alma luôn đi tuân trước lúc nửa đêm. Nếu bà ấy phát hiện ra chúng ta biến mất thì sao?”
Bà ấy sẽ quy trách nhiệm lên tớ, tôi nghĩ. Còn ai khác được nữa. Whitcroft, đứa hay chuồn đi đêm.
Angus nhìn vào những ngôi mộ khác. “Chúng ta cũng có thể cố gắng gọi ai đấy khác.”
“Tớ không nghĩ đấy là ý hay đâu,” tôi nói. “Stu nói đúng đấy. Quay về thôi.”
Nhưng Angus phớt lờ tôi. “Người này thì sao?” nó hỏi, chỉ vào mộ của Cheney. Như tôi nói, Angus rất chi là cứng đầu một khi nó đã nhồi một thứ gì đó vào cái sọ Scotland của nó. Và đêm đó, nó đã quyết định là mình muốn nhìn thấy một hồn ma.
“Thầy Bonapart đã giảng cho chúng ta về Cheney,” Angus nói. “Ông ấy là một cận vệ của Edward Đệ mấy đấy và là người cầm cờ của Henry Đệ Thất.”
Stu nhìn tôi lo lắng.
Tôi cố gắng làm xao lãng Angus. “Henry Đệ Thất á? Có phải là người ta tìm thấy ông ấy chết trong một bụi rậm nào đó không?”
“Không, đó là Richard,” nó nói, đi về phía quan tài của Cheney. “Họ gọi ông ấy là Cheney Người Khổng Lồ,” nó thì thầm một cách tôn kính.
“Người Khổng Lồ á?” Stu thì thào. “Tại sao?”
“Họ đã đo kích thước xương của ông ấy,” Angus trả lời. “Và họ phát hiện ra là ông ấy cao ít nhất một mét chín tám. Khá là cao so với thời đấy.”
Bây giờ vẫn vậy, nếu bạn cao bằng Stu. “Tớ không nghĩ là điều đó nghe như tớ muốn gặp ông ấy đâu!” nó nói. Nó cố gắng kéo Angus ra khỏi cỗ quan tài. “Thôi nào. Nếu cậu phải gọi một hồn ma, đi tìm ai đó cùng kích cỡ với chúng ta ấy. Không phải là thầy Bonapart đã giảng về vị giám mục trẻ con đó à?”
Nhưng Angus đẩy nó ra. “Không!” nó nói. “Tớ không muốn bất kỳ hồn ma nào. Đó phải là một vị hiệp sĩ.” Nó hắng giọng và đặt bàn tay lên bộ ngực bằng đá cẩm thạch của Cheney. “E hèm. Xin chào. Ý cháu là, làm ơn, ngài Cheney...”
“Ông ta sẽ chỉ đến nếu cháu đặt một vài đồng xu lên chân mày của ông ta,” một giọng nói đằng sau chúng tôi cất lên.
Angus và Stu trở nên trắng bệch như bức tượng đá của Cheney. Nhưng tôi nhận ra giọng nói đó và cảm thấy choáng váng vì hạnh phúc.
Ngài Longspee đang đứng bên cạnh mộ của mình. Ngài phát sáng rực rỡ như thể tất cả những ngọn nến trong nhà thờ đã cho ngài vay mượn ánh sáng của mình. Tôi chưa bao giờ nhìn thấy ngài rõ như vậy. Và ngài trông đầy hạnh phúc. Chỉ hạnh phúc thôi.
“Cháu muốn chúng gặp ta. Ta nói đúng không nào, Jon?” ngài hỏi. Mồm của Angus và Stu mở rộng như mấy cái miệng máng xối ở bên ngoài.
“Vâng ạ, điều này thật tuyệt!” tôi thì thầm. Tôi đã rất chắc chắn là mình sẽ không bao giờ gặp lại ngài nữa. Trái tim tôi đang ngập tràn hạnh phúc. “Ngài Longspee! Tại sao ngài vẫn còn ở đây?”
“Cháu có thể không phải là người cuối cùng cần sự giúp đỡ của ta,” ngài trả lời.
“Nhưng còn bà Ella thì sao?”
“Bây giờ cháu đã mang cho nàng trái tim của ta rồi, nàng có thể gọi ta lúc nào cũng được.” Ngài Longspee quay qua Angus và Stu. Ngài cười còn chúng nó thì lùi lại.
“Nếu ta mà bọn cháu đã sợ rồi thì có lẽ bọn cháu không nên đánh thức Cheney đâu,” ngài nói. “Ông ta khá là dữ dằn.”
Stu há miệng nhưng không có âm thanh nào phát ra.
Ngược lại, Angus cư xử khá bình tĩnh, xét thấy đây là lần đầu tiên nó nói chuyện với một hồn ma. “Ôi, đằng nào cháu cũng chả mang theo đồng xu nào cả,” nó lí nhí.
“À, thực ra có một cách khác để gọi vị hiệp sĩ này,” ngài Longspee nói. “Các cháu có chắc không?”
Stu nhanh chóng lắc đầu, nhưng Angus thì gật đầu lia lịa, và ngài Longspee đi đến cạnh mộ của Cheney.
Chúng tôi đều co rúm lại lúc ngài rút kiếm ra. Ngài cắm ngập nó vào bộ ngực bằng đá cẩm thạch của Cheney. Từ ngôi mộ phát ra một lời nguyền rủa có thể làm chúng tôi bị phạt cấm túc hàng tuần liền trong thư viện trường.
“Đồ trời đánh thánh vật, Longspee! Đồ hiệp sĩ vô lại thủ đoạn!” Lời nói vang vọng khắp nhà thờ. Trong một lát, bức tượng đá của Cheney trông như đang bay lên. Nhưng đó chỉ là hồn ma của ông ta đang tự nhấc mình ra khỏi tảng đá mà thôi. Ông ta vung chân ra khỏi bệ đá và lao về phía ngài Longspee với đôi chân cứng đờ. Ông ta cao hơn ngài Longspee ít nhất là một cái đầu.
“Cái gì vậy, đồ con hoang hoàng tộc kia?” ông ta gầm gừ, gạt phăng ra đằng sau mái tóc dài cũng ánh bạc như phần còn lại của ông ta. “Ông muốn cưỡi ngựa đấu kiếm trong hành lang à? Chứ sao lại dựng tôi dậy?”
“Không phải tối nay,” ngài William trả lời. “Tôi muốn giới thiệu mấy người bạn của cậu cận vệ của tôi.”
Cheney quay ra đối mặt với chúng tôi. Stu nhích lại gần Angus hơn một tí.
“Cận vệ của ông á?” ông ta hỏi, gãi gãi cái cổ khổng lồ của mình. Ngay cả mấy hồn ma cũng thỉnh thoảng bị ngứa. “Đứa nào cơ?”
Tôi giơ tay. “Cháu ạ. Jon Whitcroft.” Tôi suýt nữa thêm vào, “Họ ngoại là Hartgill ạ,” lúc bước lên đứng cạnh ngài Longspee. Nhưng con ma xem cái tên ấy là quan trọng đã ra đi và rơi vào quên lãng rồi.
Cheney nhìn tôi từ đầu đến chân. Sau đấy ông ta huých một cú vào ngực ngài Longspee. “Ý ông là bây giờ ông có cận vệ còn tôi thì không à?”
“Cháu có thể làm cận vệ của ngài ạ... thưa ngài!” Angus bước lên phía trước hào hứng đến mức nó loạng choạng vấp phải chính chân mình.
Cheney hắt hơi vào bàn tay nhợt nhạt của mình và ném cho Angus một cái nhìn coi thường. “Chú mày ư? Chú mày trông giống dân Scotland một cách đáng ngờ!” ông ta khinh khỉnh khịt mũi. “Ai chả biết bọn chúng quá phiền hà để làm một cận vệ tốt. Mặt khác thì,” ông ta nói thêm, chuyển cái nhìn sang Stu, “chú mày vẫn còn khá hơn đứa bạn gầy giơ xương kia. Nó thậm chí không thể làm một cái cán cây thương cho tử tế được!” Cheney phá lên cười.
“Buồn cười lắm ạ!” Stu trả lời với giọng bị tổn thương. Mấy lời lăng mạ rõ ràng đã làm nó quên mất sự sợ hãi của mình. “Từ những chuyện cháu đã nghe Jon kể, các ngài còn chả nhấc nổi một sợi lông, nói gì đến một cây thương chứ!”
“Ta nghĩ ta phải dạy cho chú mày cách tôn trọng, nhóc chồn gầy guộc!” Cheney gầm gừ, bước về phía Stu. Nhưng ngài Longspee đã chặn đường ông ta.
“Quay về ngủ đi, John!” ngài nói. “Tâm trạng của ông thật là tồi tệ khi bị đánh thức trước nửa đêm.”
Đáp lại, Cheney ngáp to đến mức chúng tôi có thể nhìn thấy toàn cảnh nhà thờ qua miệng ông ta.
“Các ngài có phải là những hồn ma duy nhất ở đây không ạ?” Angus hỏi. Nó rõ ràng vẫn thích vị hiệp sĩ, mặc kệ mấy nhận xét của ông ta về những cận vệ người Scotland.
“Không,” ngài Longspee trả lời. “Nhà thờ này là nhà của rất nhiều hồn ma, nhưng đa số họ chỉ lộ diện cho đồng loại thôi.”
“Và rồi họ dành phần lớn thời gian để rên rỉ,” Cheney phát biểu. “Ta đi ngủ đây. Ta mong rằng lần sau ta sẽ được đánh thức dậy bởi một ai đó biết cách trả công cho một vị hiệp sĩ.” Rồi ông ta biến mất.
Angus nhìn ngắm ngôi mộ của Cheney đắm đuối như một con cún nhìn mộ chủ nhân mình. Tôi thì chỉ nhìn đến ngài Longspee, người mà hình bóng cũng đang nhòe dần đi.
“Đợi đã ạ, ngài Longspee!” tôi gọi với theo ngài. “Cháu sẽ gặp lại ngài kiểu gì ạ?”
“Cháu là cận vệ của ta, Jon Whitcroft,” ngài trả lời. “Cháu có thể gọi ta bất cứ lúc nào. Và ta cũng vậy.”
Điều này vẫn đúng đến tận bây giờ. Tôi chưa bao giờ để ngài phải đợi, và ngài cũng vậy.
Có lẽ trăng tròn đã làm cho tất cả những hồn ma trong nhà thờ khó ngủ. chúng tôi gặp hồn ma cậu thợ nề học việc tại một trong những hành lang. Cậu ấy không lớn tuổi hơn chúng tôi là mấy, nhưng cậu ấy bị khoác lên người quá nhiều nỗi bất hạnh đến mức chúng tôi cũng cảm thấy được nó như một cái bóng lạnh lẽo. Stu tuyên bố là nó đã gặp đủ ma cho một đêm rồi.
Chúng tôi vẫn không có dịp chiêm ngưỡng khẩu súng săn của ông Edward Popplewell lúc trèo qua cửa sổ vào lại tầng một, và cho đến ngày hôm nay tôi vẫn không chắc có phải Stu đã bịa ra câu chuyện đấy không nữa. Đã qua nửa đêm từ lâu mà vẫn chả đứa nào trong chúng tôi ngủ được, vì thế chúng tôi chơi bài trên giường của Stu dưới ánh sáng của mấy cây đèn pin. Tôi vẫn nghĩ là không ai trong chúng tôi muốn đêm đó kết thúc bởi vì chúng tôi biết rằng ký ức về tất cả những thứ chúng tôi đã chứng kiến sẽ phai mờ trong ánh sáng ban ngày, như ngài Longspee.