Chương 21 CŨNG KHÔNG PHẢI LÀ NƠI TỆ LẮM
Ba ngày sau mẹ tôi đến Salisbury, và sáng hôm đó lúc đang đánh răng, tôi đã cố gắng đeo lên lại cái vẻ mặt khó chịu mà tôi đã sử dụng thành thục đến hoàn hảo. Nhưng trông tôi chỉ như đang nhìn vào bộ mặt lúc nào cũng trề môi ra của Aleister Jindrich trong gương.
“Đúng đấy, Jon Whitcroft, mày nên thú nhận điều đó thôi,” tôi thì thầm với hình ảnh phản chiếu của mình, ngay cả khi việc đó làm tôi phải nhận một cái nhìn khó chịu từ Stu, đứa đang đứng ngay cạnh tôi kỳ kỳ hình xăm mới của nó đi. “Mày đang tận hưởng thời gian ở đây bỏ xừ, ngay cả khi mày suýt chút nữa đã bị xé xác ra từng mảnh bởi một đàn chó săn ma quỷ và xém bị quăng khỏi một ngọn tháp nhà thờ.”
Đương nhiên là tôi không hề có ý định kể cho mẹ tất cả mấy chuyện này.
Bà đón tôi ở trường và đưa tôi đến tiệm cà phê tại quảng trường khu chợ, nơi bán bánh ngon đến mức Stu vẫn thỉnh thoảng rên rỉ về chiếc bánh trong giấc ngủ. Bà cũng lo lắng chả kém gì tôi. Tôi có thể nhận thấy từ cách bà giữ chặt hai quai của cái túi xấu kinh khủng mà Râu Xồm đã mua cho bà làm quà đính hôn. Như đã hứa, bà không đến cùng với ông ta, nhưng bà không thể tha cho tôi mấy cái ôm hôn trước mặt Angus và Stu. Hai đứa chúng nó cũng có mẹ, và như những đứa bạn thực thụ, chúng đều giả bộ như không nhìn thấy gì. Lúc chúng tôi đi về phía cổng trường, tôi nhìn thấy Ella đang đi bộ trước chúng tôi với mấy đứa bạn nó. Tôi không dám gọi nó. Mấy đứa bạn nó buôn chuyện kinh khủng luôn. Ella, tớ muốn cậu gặp mẹ tớ sẽ là đề tài cho những lời đồn thổi giật gân của chúng nó đến hàng tuần mất. Nhưng tôi không thể ngăn mình cứ đăm đăm nhìn theo nó. Mái tóc đen buông xuống lưng nó như tấm mạng che mặt của bà Ella xứ Salisbury ở Lacock.
“Cái gì thế?” mẹ tôi hỏi, đặt tay lên vai tôi.
“Không có gì ạ,” tôi ấp úng. Ella biến mất giữa hai hàng cây ở phía cuối con đường. Tôi đã kể cho nó chuyện ngài Longspee chưa biến mất khỏi nhà thờ, và tôi rất muốn được đi bộ cùng nó qua cánh đồng cỏ chăn cừu đến nhà bà Zelda, nói chuyện về bất cứ điều gì và không điều gì cả. Không ai làm điều đó tốt như Ella.
“Không có gì sao?” mẹ hỏi. “Mẹ có thể thấy con đang suy nghĩ về chuyện gì đó mà.”
Ôi trời. Câu chuyện bắt đầu khó khăn rồi đây. Tôi nên kể cho mẹ về cái gì bây giờ? Trường học? Các giáo viên? Rất khó để nói chuyện với một ai đó nếu như ta phải tránh hết những đề tài thực sự có ý nghĩa với ta. Nhưng tôi vẫn quyết tâm không kể cho mẹ chút gì về lão Stourton hay ngài Longspee.
“Jon?” Ôi không. Cái tông giọng này của bà có nghĩa là mọi chuyện bắt đầu trở nên nghiêm trọng. “Mẹ đến đây để nói chuyện với con.”
“Mẹ!” tôi nhanh chóng ngắt lời bà. “Chúng ta không phải nói chuyện đâu. Thật đấy. Không cần đâu.”
Câu nói này đã làm cho bà rơi tõm vào một sự im lặng ngượng nghịu suốt quãng đường đến Phố chính, ngoại trừ một câu chuyện ngắn về việc đứa em gái út của tôi đã cứu một chú chim bị gãy chân và mang nó về nhà.
Quán cà phê trên quảng trường khu chợ khá là đông, vì thế chúng tôi trèo cầu thang lên tầng đầu tiên, nơi ngoài chúng tôi ra chỉ có thêm ba bà già đang nhấm nháp trà. Họ nhìn chúng tôi dò hỏi lúc chúng tôi ngồi xuống một trong những cái bàn cạnh cửa sổ. Tôi đang cắn miếng bánh su kem loại dài thứ hai thì mẹ hắng giọng. Bà đã bắt đầu thắt nút cái khăn ăn của mình (xét tới việc khăn ăn này bằng giấy thì đây cũng không phải là chiến tích tầm thường lắm đâu).
“Jon này?” bà lại bắt đầu. “Mẹ đến đây để nói với con là giờ con có thể về nhà.
Tôi suýt sặc Coca cola. Tôi biết. Thật là đáng xấu hổ. Bọt trào ra từ mũi tôi và mẹ phải vỗ lưng cho tôi trong cơn hoảng loạn. Khi cuối cùng tôi đã có thể thở lại, mẹ nói một cách đầy tự hào rằng bà đã nói chuyện với thầy hiệu trưởng. Tôi đã thắng! Tôi đã thực sự chiến thắng! Nhưng tất cả những gì tôi có thể nghĩ được là: không còn Ella nữa, không còn Angus nữa, không còn Stu nữa. Không còn nước chanh xay với quả cơm cháy trên sofa nhà bà Zelda nữa, không còn mùi xà phòng oải hương của bà Alma nữa. Không còn ông bà Popplewell, không còn lâu đài giám mục, không còn đống áo choàng dàn hợp xướng ở hành lang, không còn những câu chào của cô Tinkerbell đầu mỗi buổi sáng (Chào Jon, lại một ngày tráng lệ, phải không nào?). Tôi chắc chắn là tôi thậm chí sẽ nhớ thầy Bonapart và ngay cả hồn ma của Aleister quá cố, chưa kể đến ngài Longspee.
“... và đằng nào cũng thế,” tôi nghe mẹ nói, “chắc chắn là con sẽ rất vui khi biết rằng mẹ không còn chắc Matthew có phải là người đàn ông phù hợp với mẹ hay không nữa.”
“Cái gì ạ?” Tôi nhìn bà chăm chú đến mức mặt bà đỏ rực lên.
“Chú ấy... vài ngày trước chú ấy lái xe về nhà mẹ chú ấy. Mẹ mới gặp bà ấy có một lần. Bà ấy hơi khác thường một chút. Mẹ cũng không chắc nữa... mẹ đã kể với con việc bà ấy nuôi cóc trong nhà chưa nhỉ? Dù sao thì... Matthew đã đi gặp bà ấy, việc gia đình gấp gì đó, và kể từ khi quay lại, chú ấy bắt đầu cư xử rất lạ. Chú ấy cạo hết cả bộ râu, việc này thì tốt bởi vì mẹ thực sự chưa bao giờ thích bộ râu đó, nhưng chú ấy bắt đầu hỏi những câu rất kỳ quặc. Không biết mẹ có tin vào ma không và mẹ nghĩ gì về hiệp sĩ và không biết...” bà nhấp nhanh một ngụm cà phê “và không biết sau khi chú ấy chết đi, liệu mẹ có thể chôn trái tim chú ấy trong khu vườn nhà chúng ta không. Mẹ biết, con chưa bao giờ thích chú ấy và có lẽ mẹ đã nên hỏi con lý do tại sao. Nhưng dù sao thì có lẽ mẹ sẽ không cưới chú ấy nữa.”
Tôi thấy mắt mẹ ầng ậng nước, nhưng có lẽ mẹ mong chờ một sự biểu lộ sung sướng nào đó từ phía tôi. Thay vì vậy, tôi chỉ ngồi đó với cái bánh su kem trên mấy ngón tay nhớp nháp, và tất cả những gì tôi có thể nghĩ là về chuyện Râu Xồm đang trốn trong mấy bụi rậm ở nghĩa trang Kilmington với khẩu súng trường của bà Zelda.
“Thực ra con nghĩ đó chưa phải là một lý do thỏa đáng, mẹ à,” tôi nghe thấy mình lên tiếng. Tôi đã có thể cắn đứt lưỡi mình!
“Sao cơ? Con đang nói gì vậy?” Mẹ chùi nước mắt bằng cái khăn ăn, làm nhòe hết lớp trang điểm. “Con đang chế giễu mẹ à, Jon?” bà hỏi lại một cách gắt gỏng.
“Không, con nghiêm túc đấy!” tôi thì thầm một cách chủ ý. (Ba bà già đã bắt đầu nghiêng người về hướng chúng tôi.) “Và những câu mà chú ấy hỏi... con nghĩ chúng là những câu hỏi rất hay mà.”
Tôi không biết điều gì đã ảnh hưởng đến tôi nữa. Phải chăng ngài Longspee đã khai hóa được cái phần cao quý trong tôi? “Đồ ngốc! Đây là cơ hội để mày loại bỏ Râu Xồm vĩnh viễn!” - cái phần không-được-cao-quý-lắm trong tôi lên tiếng. “Nắm lấy nó đi!” Nhưng phần cao quý trong tôi thì thầm lại một cách khá là xảo quyệt, “Thật vậy sao? Điều ấy cũng đồng nghĩa với việc mày muốn loại bỏ Ella luôn chứ gì? Xét cho cùng thì ông ta là chú của nó đấy.”
Mẹ vẫn đang nhìn tôi không thể tin nổi. “Những câu hỏi rất hay ư?” bà hỏi.
Sai đề tài rồi, Jon! Nhanh, đổi chủ đề thôi.
“Mẹ à,” tôi nói, cắn thêm một miếng to bánh su kem để tăng sức mạnh cho bản thân, mặc dù hành động đó không làm cho việc nói chuyện dễ dàng hơn chút nào. “Thực ra... con không thực sự muốn về nhà. Con thích ở đây. Vì thế tại sao mẹ không cưới Râu Xồm và con sẽ về thăm nhà hai tuần một lần vào dịp cuối tuần?”
“Ôi Jon!” bà nức nở, những giọt nước mắt của bà bắt đầu trào ra. Chúng cứ chảy tự do trên khuôn mặt bà và một bà già đi qua đưa cho mẹ một cái khăn tay (một cái khăn trông khá gớm ghiếc với ren hồng và hình thêu hoa hồng). Cái nhìn bà ta ném cho tôi thể hiện rất rõ bà ta nghĩ gì về những đứa con nói chung và tôi nói riêng. Tuy nhiên, mẹ tôi làm đống chì kẻ mắt đen sì dính đầy lên mấy bông hồng và bắt đầu cười khúc khích. Bây giờ cái nhìn của ba bà già lại thể hiện khá rõ là họ nghĩ gì về mấy bà mẹ cười khúc khích.
“Mẹ!” tôi thì thầm qua bàn. “Mọi chuyện ổn mà! Con có thể về nhà mỗi cuối tuần nếu mẹ thích.”
“Ôi Jon!” bà thì thầm lại, dụi mắt bằng cái khăn tay. Rồi bà nghiêng người qua bàn, kéo tôi lại gần, thì thầm, “Cảm ơn con,” và ôm tôi chặt đến mức tôi nghĩ bà sẽ không bao giờ buông tay ra nữa. Nhưng khi bà buông tôi ra, trông bà vô cùng hạnh phúc. Bà thậm chí còn mỉm cười với ba bà già. Sau đó bà trả lại cái khăn tay sũng nước, đen sì, và chúng tôi xuống cầu thang.
Đó là một ngày đẹp trời, ấm áp hơn tất cả những ngày tôi đã thấy ở Salisbury cho đến giờ, chúng tôi nói chuyện về lũ em tôi và con chó của chúng tôi cùng việc Râu Xồm bị dị ứng với lông chó - và bằng cách nào đó, chúng tôi đã tìm được đường về lại sân nhà thờ.
“Đi nào, vào nhà thờ thôi,” mẹ nói. “Lần cuối cùng mẹ đến đây là với bố con.”
Khu hành lang gần như vắng lặng, và thậm chí nhà thờ cũng trống trơn. Chúng tôi đi dọc lối đi chính giữa hai hàng ghế cho đến khi mẹ đột nhiên dừng lại - trước ngôi mộ của ngài Longspee.
“Bố con thích ngôi mộ này lắm,” bà nói. “Ông ấy biết mọi thứ về vị hiệp sĩ này. Mẹ thậm chí còn không nhớ được tên của ông ta...”
“Longspee ạ,” tôi nói. “William Longspee.”
“Chính thế! Đúng là nó rồi. Họ thực sự đã dạy con rất nhiều thứ ở trường này! Bố con bị ám ảnh bởi ông ấy. Có lần bố đưa mẹ đến tận Old Saturn chỉ để chỉ cho mẹ cái chỗ mà Longspee đã chết. Con có biết là người ta nói ông ấy đã bị đầu độc không?”
“Có ạ,” tôi nói. “Và ngài ấy rất yêu vợ mình.”
“Thật sao?”
“Mẹ à?” tôi hỏi lại. “Bố có bao giờ kể với mẹ là đã gặp ngài Longspee không?”
“Gặp ư? Ý con là sao?”
Bà nhìn hết sức bối rối. Như vậy là bố chưa gặp rồi. Hoặc chưa bao giờ kể với mẹ. Y như tôi.
“Mẹ có tin vào hồn ma không, mẹ?”
Bà nhìn vào khuôn mặt bằng đá cẩm thạch của ngài Longspee và nhìn một lượt những người đã chết đang yên nghỉ giữa những hàng cột.
“Không,” cuối cùng bà trả lời. “Mẹ không tin. Nếu thực sự có hồn ma thì bố con đã phải quay về thăm mẹ sau khi bố mất rồi.” Bà với tay vào trong túi. “Ôi, tại sao mẹ lại trả cái khăn tay gớm ghiếc đó lại cho bà cụ nhỉ?” bà lẩm bẩm, giọng bà đã nghẹn ngào vì nước mắt. “Đáng ra mẹ phải biết là mẹ sẽ cần nó một lần nữa chứ.”
Tôi nắm lấy tay bà. “Cũng tốt là bố không quay lại, mẹ ạ,” tôi nói thật khẽ. “Bởi vì điều ấy có nghĩa là bố hạnh phúc với nơi mình đang ở. Hồn ma không hạnh phúc lắm đâu, mẹ biết không?”
Bà nhìn tôi như thể đây là lần đầu tiên bà nhìn thấy tôi vậy. “Con bắt đầu nghĩ về các hồn ma từ bao giờ vậy, Jon? Tất cả mọi người đều bỗng dưng nói chuyện về ma quỷ. Có phải Matthew đã nhồi nhét cái đống vớ vẩn đó vào đâu con không?”
“Không ạ!” tôi trả lời. “Bọn con nói về chuyện này ở trường.” Thực sự là tôi không cảm thấy đúng đắn lắm khi nói dối trong nhà thờ, nhưng tôi nghĩ ngày hôm đó mẹ tôi không ở trong tâm thế để nghe cả câu chuyện Longspee-Stourton. Râu Xồm và tôi chỉ kể cho mẹ vài năm sau đó, và tôi vẫn không chắc là bà có tin chúng tôi hay không.
“Ở trường sao?” mẹ hỏi một cách ngờ vực. “Họ nói về ma quỷ ở đây sao? Môn gì vậy?”
“Ồ, ờm, tiếng Anh ạ?” tôi lắp bắp. “Mẹ biết đấy, Shakespeare và những thứ tương tự.”
“À ừ,” bà nói. “Chắc chắn rồi.” Sau đó bà nắm chặt tay tôi và xoa đầu tôi (thật là vô cùng xấu hổ cho đứa mười một tuổi). “Con nghĩ sao? Chúng ta có nên chia tay vị hiệp sĩ quá cố và tìm cho mình một bữa tối không?”
“Ý hay đấy ạ,” tôi trả lời. Trong một lát tôi nghĩ tôi có thể nhìn thấy ngài Longspee giữa những hàng cột với một nụ cười trên khuôn mặt. Vài tuần sau đó, tôi hỏi ngài có gặp một cậu bé nào cũng có tên Whitcroft khoảng ba mươi lăm năm trước không. Nhưng bố tôi chưa bao giờ gọi ngài Longspee cả, bởi vì ngay từ hồi ấy ông đã luôn là một người hạnh phúc.
“Thế còn bạn bè con thì sao?” mẹ hỏi lúc chúng tôi đi bên nhau băng qua bãi cỏ trước nhà thờ. “Mấy cậu bé chúng ta gặp ở trường - chúng có phải bạn thân của con không?”
“Angus và Stu ý ạ?” tôi hỏi. “Vâng. Mặc dù... cũng không hẳn ạ.”
“Con nói thế nghĩa là sao nào?” mẹ hỏi.
Anh trời chiều chiếu xuống những ngôi nhà cũ kỹ xung quanh chúng tôi và tôi nhận ra chúng tôi đang đứng tại đúng cái điểm mà lão Stourton đã đuổi kịp tôi và nơi thầy Bonapart đã đỡ tôi đứng dậy.
“Bạn thân của con là một đứa con gái,” tôi nói. “Và mẹ biết chú của nó đấy. Chính xác là mẹ sắp cưới ông ấy.”