Chương 3 Trong chương này, chúng ta sẽ gặp gỡ vài người khác, -nhiều người trong số đó vẫn đang sống,- có hứng thú với số phận của ngôi sao băng
Stormhold vốn được đục đẽo từ lớp đá trên đỉnh núi Huon nhờ công vị vua đầu tiên của Stormhold, người đã trị vì vào cuối Thời đại Thứ nhất, đầu Thời đại Thứ hai. Nó đã được mở rộng, hoàn thiện, được đào sâu, khoét dài vào bên trong bởi lớp lớp những thế hệ vua của Stormhold, cho tới bây giờ, cái chóp núi nguyên thủy cạp vào bầu trời như thể cái răng nanh được chạm khắc hoa mỹ của một con quái vật xám khổng lồ bằng đá hoa cương.
Ngay chính Stormhold cũng lừng lững giữa trời, nơi những đám mây dông tụ lại thành cụm trước khi hạ xuống tầng không khí thấp hơn, trút mưa, sấm sét và sự tàn phá lên trên miền đất phía dưới.
Đức vua Stormhold đời thứ tám mươi mốt đang nằm hấp hối trong căn phòng được tạc từ mỏm núi cao nhất, trông y như một lỗ hổng giữa một chiếc răng sún. Cái chết vẫn tồn tại trên mảnh đất phía bên kia cánh đồng chúng ta vẫn biết.
Ông ta triệu tập đàn con đến bên giường bệnh, và họ kéo đến, cả người đang sống lẫn người đã chết, rồi họ run lên giữa căn phòng đá hoa cương lạnh ngắt. Họ quây quần bên giường đức vua, kính cẩn chờ đợi, người sống đứng phía bên phải, người chết ở bên trái.
Bốn người con trai của ông ta đã chết: Secundus, Quintus, Quartus cùng Sextus, và họ, những dáng hình xám xịt, mong manh và lặng lẽ, đứng bất động.
Ba người con trai của ông ta vẫn còn sống: Primus, Tertius và Septimus. Họ đứng phía bên phải căn phòng, vững chãi, bất an, nhấp nhổm chuyển chân trụ hết bên trái lại đến bên phải, gãi má gãi mũi, cứ như thể thấy tủi hổ trước sự yên nghỉ câm lặng của những người anh em quá cố. Họ không hề liếc mắt sang phía bên kia phòng nhìn những người anh em đã qua đời của mình, cư xử - với sự nỗ lực lớn nhất họ có thể viện đến - như thể chỉ có mỗi họ và cha họ là hiện diện trong căn phòng giá lạnh này, nơi cửa sổ là những cái lỗ to tướng hở hoác giữa lớp đá hoa cương, cho phép những con gió lạnh thông thống thổi xuyên qua.
Và bất kể nguyên nhân là vì họ không thể nhìn thấy hay bởi vì chính họ đã giết những người anh em quá cố ấy (mỗi người một mạng chỉ trừ Septimus đã giết cả Quintus lẫn Sextus, bằng cách đầu độc Quintus với một đĩa lươn tẩm gia vị và, nhờ năng lực và trọng lực mà chẳng cần phải vận dụng bất kỳ kỹ xảo nào, chỉ cần đẩy Sextus ngã khỏi vách núi dựng đứng vào một tối nọ khi hai người đang ngắm nhìn dông bão với sấm rung chớp giật xa xăm bên dưới), thì họ cũng chọn cách phớt lờ những người anh em này, còn việc họ hành động như vậy là do sợ hãi vì tội lỗi, sợ bị phát giác, hay sợ ma thì cha họ chẳng biết được.
Tự thâm tâm, ông vua đời thứ tám mươi mốt vẫn ấp ủ hy vọng rằng đến lúc ông ta đi đến đoạn cuối cuộc đời, sáu trong số bảy hoàng tử trẻ sẽ không còn trên dương thế, chỉ để lại duy nhất một người sống sót. Người còn lại đó sẽ trở thành vua của Stormhold và Chúa tể vùng Đá Cheo Leo đời thứ tám mươi hai; xét cho cùng, đó cũng chính là cách ông ta giành được quyền cai trị mấy trăm năm về trước.
Nhưng bọn trẻ thời nay chỉ là một đám èo uột, chẳng ai có được sự năng nổ tháo vát, chẳng ai có được sự cường tráng và sinh lực dồi dào mà ông ta nhớ là mình đã từng sở hữu thời còn trẻ...
Ai đấy đang nói gì đó. Ông ta cố gắng tập trung
“Thưa cha,” Primus nhắc lại bằng giọng trầm oang oang. “Tất cả chúng con đều đang ở đây. Cha cần gì ở chúng con?”
Ông lão nhìn hắn không chớp mắt. Khò khè khó nhọc, ông ta hít vào trong buồng phổi một hơi không khí loãng giá buốt rồi cất tiếng bằng tông giọng cao và lạnh lẽo, y như đá hoa cương, “Ta đang hấp hối. Chẳng mấy chốc, thời gian của ta sẽ hết, và các con sẽ mang thi hài của ta vào sâu trong núi, tới Sảnh Tiền Nhân, rồi các con sẽ đặt nó - đặt ta - vào trong cái hố thứ tám mươi mốt mà các con đặt chân đến, có nghĩa là, cái đầu tiên còn đang để trống, và rồi các con sẽ đặt ta ở lại đó. Nếu không làm như vậy, từng người các con sẽ đều bị nguyền rủa, còn tháp Stormhold sẽ rung chuyển và sụp đổ."
Ba người con trai còn sống của ông ta không nói gì. Tuy nhiên, tiếng rì rầm lan ra giữa bốn người con trai đã chết: có lẽ đang bày tỏ nỗi nuối tiếc vì xác họ đã bị đám đại bàng ngấu nghiến, hay bị những dòng sóng cuồn cuộn cuốn trôi, rơi xuống thác nước, trôi ra ngoài biển cả, vĩnh viễn không được yên nghỉ nơi Sảnh Tiền Nhân.
“Nào. Về vấn đề kế tục.” Giọng đức vua khò khè thoát ra từ trong họng, như một cơn gió được ép ra từ cái ống bễ tàn tạ. Mấy người con trai còn sống của ông ta ngẩng đầu lên: Primus, người con cả, với bộ râu rậm rạp màu nâu đã điểm nhiều sợi bạc, mũi khoằm, mắt xám, có vẻ khấp khởi ngóng trông; Tertius, với bộ râu đỏ vàng, mắt nâu hung hung trông cảnh giác; Septimus, bộ râu đen vẫn đang trên đà mọc thêm, cao và nhìn không khác gì một con quạ, ra vẻ vô cảm, đúng cái vẻ vô cảm từ trước đến nay của y.
“Primus. Tới chỗ cửa sổ đi.”
Primus sải bước tới chỗ lỗ hổng trên vách đá và nhìn ra ngoài.
“Con thấy gì?”
“Chẳng có gì cả, thưa vua cha. Con nhìn thấy trời đêm phía trên đầu chúng ta, và những đám mây phía dưới chúng ta.”
Ông lão run lên bên dưới tấm da gấu núi đang che phủ thân thể mình.
“Tertius. Tới chỗ cửa sổ đi. Con nhìn thấy gì?”
“Chẳng gì cả, thưa cha. Hệt như anh Primus đã bảo với cha. Bầu trời đêm treo trên đầu chúng ta, mang màu thâm sì, và những đám mây phủ lên vạn vật bên dưới chúng ta, tất cả đều xám xịt và méo mó”
Đôi mắt ông lão trở nên vặn vẹo trên khuôn mặt, trông như thể đôi mắt cuồng dại của một con chim săn mồi. “Septimus. Con. Cửa sổ.”
Septimus sải chân tiến tới chỗ cửa sổ và đứng cạnh hai người anh trai, tuy nhiên không quá gần.
“Con thì sao? Con nhìn thấy gì?”
Y ngó ra bên ngoài lỗ hổng. Gió thổi rát mặt y, khiến mắt y cay sè, ứa nước mắt. Một ngôi sao lập lòe, yếu ớt, giữa bầu trời nhuộm màu chàm.
“Con nhìn thấy một ngôi sao, thưa cha.”
“À,” vị vua đời thứ tám mươi mốt khò khè nói. “Đưa ta tới cửa sổ.” Bốn người con trai đã chết rầu rĩ nhìn ông ta trong lúc ba người con trai còn sống đưa ông ta tới bên cửa sổ. Ông lão đứng dậy, hoặc gần như đứng dậy, nặng nề tựa lên bờ vai rộng của đám con, nhìn chằm chằm bầu trời xám xịt như chì.
Những ngón tay của ông ta, khẳng khiu và sưng phù ở khớp ngón tay, lóng ngóng rờ rẫm viên đá hoàng ngọc treo trên sợi dây chuyền bạc nặng trịch trên cổ. Sợi dây chuyền như một cái mạng nhện tõe ra theo cái nắm tay của ông lão. Ông ta chìa bàn tay đang nắm chặt viên hoàng ngọc ra, hai đầu sợi dây chuyền bạc bị đứt lìa lúc lỉu.
Những hoàng tử quá cố của Stormhold thì thầm với nhau, bằng chất giọng của người chết, nghe không khác gì tiếng tuyết rơi: viên đá hoàng ngọc là Sức mạnh Stormhold. Ai mang nó sẽ là chủ nhân của Stormhold, miễn là anh ta mang trong mình dòng máu Stormhold. Ai trong số những người con trai đang còn sống sẽ được lãnh chúa đời thứ tám mươi mốt trao cho viên đá đây?
Mấy người con trai đang sống không nói năng gì, nhưng lần lượt từng người trông có vẻ háo hức, cảnh giác và vô cảm (nhưng là một kiểu vô cảm dối trá, sự vô cảm của một khuôn mặt đá tảng mà chỉ đến khi đã leo được nửa chừng và không còn đường nào lùi xuống, người ta mới nhận ra là không thể leo lên được)
Ông lão không tựa vào mấy người con nữa mà đứng thẳng dậy, và khi đó trông cao hẳn. Trong một thoáng, ông ta toát ra đầy đủ khí chất của vị vua Stormhold từng đánh bại những Yêu tinh phương Bắc tại trận chiến của Chúa tể vùng Đá Cheo Leo; người cha của tám đứa con - bảy người trong số đó là con trai - với ba bà vợ; người đã lần lượt giết chết bốn anh em trai của mình trong cuộc đấu, khi còn chưa đầy hai mươi tuổi, mặc dù người anh cả lớn hơn gấp gần năm lần tuổi ông ta và là một chiến binh vĩ đại lừng lẫy tiếng tăm. Chính người đàn ông này đã giơ viên đá hoàng ngọc lên, nói bốn từ bằng một thứ ngôn ngữ đã tuyệt tích từ lâu, và những từ đó lơ lửng giữa không trung y như những tiếng ngân của một cái chiêng đồng khổng lồ.
Rồi ông ta ném viên đá vào không trung. Mấy người anh em trai còn sống nín thở trong lúc viên đã vẽ một hình vòng cung bên trên những đám mây. Họ đoan chắc nó ắt đã đạt đến cái đỉnh cực của đường cong, nhưng rồi, bất chấp mọi lý do, nó vẫn tiếp tục lên cao mãi trong không trung.
Lúc này, nhiều ngôi sao khác đang lấp lánh giữa bầu trời đêm.
“Với người tìm về được viên đá Sức mạnh Stormhold, ta trao gửi phúc lành của ta, cùng vai trò vua của Stormhold, kèm theo mọi quyền thế của nó,” vị vua đời thứ tám mươi mốt lên tiếng, giọng nói khi cất lên dần dần mất đi sức mạnh, cho tới khi, một lần nữa, nó lại thành tiếng khò khè của một ông già lụ khụ, giống như tiếng gió thổi xuyên qua ngôi nhà hoang.
Mấy người anh em, còn sống lẫn đã chết, chằm chằm nhìn viên đá. Nó cứ thế rơi ngược lên về phía bầu trời, cho tới khi khuất khỏi tầm mắt.
“Vậy chúng con có nên bắt mấy con đại bàng rồi thắng yên cương để chúng chở chúng con lên trời không?” Tertius hỏi, giọng hoang mang, bực bội.
Cha gã không nói gì. Ánh sáng cuối cùng của ngày phai nhạt dần, và những vì sao chi chít đến độ không thể đo đếm được treo lơ lửng phía trên đầu họ, tỏa sáng rạng rỡ.
Một vì sao rơi xuống.
Tertius thầm nghĩ, mặc dù không mấy chắc chắn, rằng đây là ngôi sao đầu tiên trong đêm, ngôi sao mà người em Septimus của gã đã nhắc đến. Ngôi sao, một vệt ánh sáng, lao qua bầu trời đêm, rồi nhào xuống đâu đó ở phía Tây Nam của họ.
“Đấy,” vị vua đời thứ tám mươi mốt thì thầm, rồi ông ta ngã xuống mặt sàn bằng đá, hơi thở tắt lịm.
Primus gãi râu, nhìn xuống cái thân hình sụm xuống thành một đống kia. “Anh đã thoáng nghĩ đến việc,” hắn nói, “đẩy xác lão già khốn kiếp này ra ngoài cửa sổ. Toàn bộ cái chuyện ngu xuẩn này là gì vậy?”
“Tốt hơn hết là đừng” Tertius nói. “Chúng ta không muốn phải chứng kiến Stormhold sụp đổ đâu. Ta cũng không muốn vì chuyện đó mà bị giáng một lời nguyền lên đầu. Tốt hơn hết là cứ để ông ấy vào Sảnh Tiền Nhân đi.”
Primus nhấc xác người cha lên và mang ông ta quay trở lại cái giường phủ lông thú. “Chúng ta sẽ thông báo cho dân chúng biết ông ấy đã chết,” hắn nói. Bốn người anh em đã chết túm tụm lại cùng Septimus bên cửa sổ.
“Chú nghĩ anh ta đang nghĩ gì?” Quintus hỏi Sextus.
“Anh ta đang băn khoăn không biết viên đá rơi xuống đâu, và làm sao để lấy được nó đầu tiên” Sextus nói, nhớ lại cú ngã lộn ra ngoài vách đá và rơi vào cõi vĩnh hằng của mình.
“Ta cực kỳ hy vọng thế đấy,” vị vua Stormhold đời thứ tám mươi mốt quá cố nói với bốn người con trai đã chết của mình. Nhưng ba người con trai vẫn chưa chết của ông ta chẳng nghe thấy gì hết.
Một câu hỏi kiểu như “Xứ Tiên lớn đến đâu?” không chấp nhận một câu trả lời đơn giản.
Xứ Tiên, xét cho cùng, không phải một vùng đất, một lãnh thổ hay thuộc địa. Các bản đồ Xứ Tiên đều không đáng tin cậy, và có lẽ chẳng thể dựa vào được.
Chúng ta kể về các vị vua và nữ hoàng của Xứ Tiên cũng theo đúng cách hẳn chúng ta sẽ dùng để nói đến các vị vua và nữ hoàng của nước Anh. Nhưng Xứ Tiên rộng lớn hơn nước Anh nhiều, vì nó rộng lớn hơn cả thế giới (vì kể từ thời khởi thủy, những vùng đất từng bị loại ra khỏi bản đồ, bởi các nhà thám hiểm hay chiến binh da đỏ đã khám phá và chứng minh rằng chúng không hề tồn tại ở đó, đều đã đến lánh nạn ở Xứ Tiên; vậy nên cho đến bây giờ, thời điểm chúng ta bắt đầu viết về nó, nó quả thật đã là một nơi rộng lớn mênh mông, bao gồm đủ mọi loại phong cảnh và địa hình địa vật). Ở đây, thật sự, có Rồng. Còn có cả điểu sư, rồng bay, mã ưng, tử xà và rắn nhiều đầu. Cũng có đủ các loại động vật thân thuộc hơn, những con mèo quấn quýt và xa cách, những con chó trung dũng và nhút nhát, sói và cáo, đại bàng và gấu.
Trong một cánh rừng nhỏ rậm rạp và sâu thẳm đến độ gần như chẳng kém gì một khu rừng rậm, có một ngôi nhà nhỏ bằng gỗ lợp tranh, trát đất sét xám, toát lên vẻ u ám tột độ. Một con chim nhỏ màu vàng đậu trên cái cành trong một chiếc lồng bên ngoài căn nhà. Nó không hót, chỉ đậu rầu rĩ im lặng, bộ lông xù lên xơ xác. Ngôi nhà tranh có một cái cửa ra vào, lớp sơn từng một thời màu trắng giờ đang bong tróc.
Bên trong, ngôi nhà tranh chỉ có một phòng không ngăn cách. Xúc xích và thịt hun khói treo lủng lắng từ trên rui, cùng với một cái xác cá sấu khô đét. Một đống than bùn cháy đỏ bốc khói trong cái lò sưởi lớn áp sát một bức tường, và khói len lỏi từng chút một lên cái ống khói tít trên cao. Ba tấm phủ trên ba cái giường cao - một cái rộng và cũ, hai cái còn lại thì nhỏ hơn cỡ giường đẩy một chút.
Có các vật dụng làm bếp và một cái chuồng rộng bằng gỗ, hiện đang trống trơn, đặt ở một góc khác. Có các cửa sổ quá bẩn chẳng nhìn xuyên qua được và tất tật mọi thứ đều phủ một lớp bụi nhờn dày cộp.
Thứ sạch sẽ duy nhất trong nhà là một tấm gương bằng kính đen, cao ngang tầm một người đàn ông cao lớn, rộng ngang cửa ra vào một nhà thờ, đặt dựa vào một bức tường. Ngôi nhà này thuộc về ba người phụ nữ cao tuổi. Họ thay phiên nhau ngủ trên cái giường lớn, nấu bữa tối, đặt bẫy trong rừng để bắt những con thú nhỏ, kéo nước lên từ cái giếng sâu đằng sau nhà.
Ba người phụ nữ này thuộc dạng ít nói.
Có ba người phụ nữ khác trong ngôi nhà nhỏ. Họ mảnh khảnh, tóc đen và trông vui vẻ. Căn phòng nơi họ cư ngụ lớn gấp nhiều lần diện tích ngôi nhà tranh; sàn đá thạch anh, các cột chống làm bằng đá thủy tinh núi lửa. Ở phía sau có một khoảng sân nhỏ, hoàn toàn thoáng đãng và có các ngôi sao lơ lửng trên bầu trời đêm phía trên.
Một đài phun đang phun nước trong sân, dòng nước cuộn chảy và ào ạt đổ xuống từ một bức tượng nàng tiên cá đầy đê mê đang há ngoác miệng. Dòng nước đen trong trẻo từ miệng nàng phun xuống hồ nước bên dưới, lờ mờ sáng và làm lay động các vì sao.
Ba người phụ nữ, cùng căn phòng của họ, ngụ trong tấm gương đen.
Ba bà già là Lilim - nữ hoàng phù thủy - sống đơn độc trong rừng.
Ba người phụ nữ trong gương cũng là Lilim: nhưng liệu họ là người nối nghiệp các bà già kia hay là cái bóng của họ, liệu có phải chỉ ngôi nhà tranh đơn sơ trong rừng là có thật, hay ở một nơi nào đó, các Lilim thật ra đang sống trong một căn phòng tối, với một cái đài phun hình nàng tiên cá đang phun nước giữa khoảng sân nhỏ tràn ngập các vì sao, những chuyện đó thì chẳng ai biết chắc chắn, ngoài các Lilim ra.
Hôm ấy, một bà già xuất hiện từ trong rừng mang theo một con chồn cổ họng tung tóe máu.
Bà ta đặt nó lên trên cái thớt bụi bặm và lấy một con dao sắc. Bà ta rọc con dao vào tứ chi cùng cổ con chồn, rồi, bằng một bàn tay nhem nhuốc, bà ta lột lớp da ra khỏi con vật đó, chẳng khác gì người ta lột bộ đồ ngủ khỏi người một đứa trẻ, sau đó bà ta thả cái xác trần trụi lên tấm thớt gỗ.
“Ruột nhé?” bà ta hỏi, giọng run run.
Người phụ nữ nhỏ bé nhất, già nhất và đầu tóc rối bù nhất trong số họ, lúc này đang ngồi đu đưa trong một cái ghế bập bênh, nói, “Cũng tốt thôi.” Bà già đầu tiên xách đầu con chồn lên, lạng mỏng nó ra từ cổ cho tới háng. Nội tạng của nó xổ ra trên thớt, đỏ tươi, tím sẫm và có màu như quả mận, bộ ruột và các cơ quan sống còn trải trên phiến gỗ bẩn thỉu như những món nữ trang ướt nhoét. Người phụ nữ rít lên, “Đến nhanh lên! Đến nhanh lên!”
Rồi bà ta dùng con dao nhẹ nhàng gẩy gẩy bộ ruột con chồn, và lại rít lên lần nữa.
Bà già đang ngồi trong ghế bập bênh đứng dậy (Trong gương, một người phụ nữ đen sì vươn người nhổm dậy khỏi cái trường kỷ.) Bà già cuối cùng đang quay về từ nhà xí, guồng chân hết cỡ chạy ra khỏi rừng.
“Cái gì?” bà ta hỏi. “Cái gì đấy?”
(Trong gương, người phụ nữ trẻ thứ ba đã nhập hội với hai người kia. Bộ ngực của cô ta nhỏ và cao, đôi mắt đen tuyền.)
“Nhìn này,” bà già đầu tiên ra dấu, dùng con dao chỉ chỉ.
Mắt họ chỉ có màu xám nhạt nhòa của tuổi già, và họ nheo mắt nhìn đống nội tạng trên thớt.
“Cuối cùng thì,” một người trong bọn họ nói, và người khác bảo, “Đến lúc rồi đấy.”
“Vậy, trong chúng ta, ai sẽ đi tìm nó đây?” người thứ ba hỏi.
Ba người phụ nữ nhắm mắt lại, ba bàn tay già nua chọc vào bộ ruột chồn trên thớt. Một bàn tay già nua mở ra. “Tôi có quả cật.”
“Tôi có gan.”
Bàn tay thứ ba xòe ra. Đó là tay của Lilim già nhất. “Tôi có tim,” bà ta nói, giọng đắc thắng.
“Chị định đi như thế nào?”
“Trên chiếc xe ngựa cũ của chúng ta, nếu tôi tìm được gì ở các giao lộ thì thứ đó sẽ kéo xe.”
“Chị sẽ mất vài năm đấy.”
Bà già lớn tuổi nhất gật đầu.
Bà già ít tuổi nhất, người lúc nãy vừa về từ nhà xí, với những bước chân chậm rãi đau đớn, bước tới một cái tủ kéo cao xiêu vẹo và cúi người xuống. Bà ta lấy một cái hộp sắt gỉ sét từ ngăn kéo cuối cùng, mang nó tới chỗ hai người chị. Cái hộp được buộc xung quanh bằng ba sợi dây cũ rích, mỗi sợi đều có nút thắt riêng. Ba bà già lần lượt tháo các nút thắt trên sợi dây của mình, rồi người đang cầm cái hộp mở nắp ra.
Một món gì đó màu vàng tỏa sáng lấp lánh nơi đáy hộp.
“Chẳng còn nhiều nhặn gì” Lilim trẻ nhất, người đã biết đến tuổi già từ hồi cánh rừng nơi họ sống vẫn còn chìm dưới mặt biển, thở dài.
“Vậy thì cũng may là chúng ta đã tìm ra được món mới, phải không?” bà già lớn tuổi nhất nói giọng quàu quạu, và nói xong câu này, bà ta vung bàn tay đầy móng vuốt vào trong hộp. Thứ màu vàng cố gắng tránh né bàn tay bà ta, nhưng bà ta đã tóm được nó, trong lúc nó vẫn vặn vẹo và lờ mờ tỏa sáng, rồi bà ta há miệng ra và thảy nó vào bên trong.
(Trong tấm gương, ba người phụ nữ nhìn chằm chằm ra ngoài.)
Một sự rung lắc và giần giật diễn ra tại tâm điểm của tất cả.
(Giờ thì chỉ còn hai người phụ nữ nhìn chằm chằm từ trong tấm gương đen)
Trong căn nhà tranh, hai bà già nhìn chằm chằm vẻ ghen tị và hy vọng trộn lẫn trên khuôn mặt của người phụ nữ xinh đẹp, cao ráo, tóc đen, mắt đen, đôi môi đỏ thắm.
“Ôi trời ơi” mụ ta nói, “chỗ này bẩn quá đi mất.” Mụ sải bước tới bên giường. Có một cái rương gỗ lớn đặt cạnh giường, được che phủ bởi một tấm thảm phai màu. Mụ giật tấm thảm ra, mở rương, lục lọi bên trong.
“Đây rồi,” mụ ta nói, giơ một cái váy đỏ tươi lên. Mụ ném cái váy lên giường rồi lột mớ quần áo tả tơi mụ vẫn mặc lúc còn là một bà già.
Hai người em gái đưa mắt ngang qua căn phòng nhìn chằm chằm vào thân hình lõa lồ của bà chị với vẻ thèm khát.
“Đến lúc tôi mang trái tim của cô ta trở về, tất cả chúng ta sẽ đều có thêm vô khối năm nữa,” mụ nói, liếc nhìn cái cằm lún phún râu và đôi mắt trũng sâu của hai người em với vẻ ghét bỏ. Mụ luồn vào cổ tay một cái vòng đỏ tươi có hình con rắn nhỏ giấu đuôi vào giữa hai hàm.
“Một ngôi sao,” một người em gái của mụ nói.
“Một ngôi sao,” người thứ hai lặp lại.
“Chính xác,” nữ hoàng phù thủy nói, đặt một cái vòng bạc lên trên đầu. “Lần đầu tiên sau hai trăm năm. Và tôi sẽ mang nó về cho chúng ta.” Mu thè cái lưỡi đỏ thẫm ra liếm đôi môi đỏ thắm. “Một ngôi sao băng” mụ nói.
Đêm đã buông xuống trên trảng đất ven ao và bầu trời chi chít những vì sao.
Những con đom đóm lập lòe trong đám lá cây du, giữa những cây dương xỉ và bụi phỉ, chớp sáng chớp tắt như ánh đèn từ một thành phố xa xăm lạ lẫm. Một con rái cá bì bõm bơi trong con suối vốn dẫn nước vào hồ. Một gia đình chồn luồn lách ngoằn ngoèo ra hồ uống nước. Một con chuột đồng tìm thấy một quả phỉ rụng, bèn cắn bập vào lớp vỏ cứng đơ bằng những chiếc răng cửa sắc lẻm vẫn đang trên đà mọc, không phải vì đói mà bởi vì nó chính là một chàng hoàng tử bị nguyền rằng sẽ không thể lấy lại dáng hình thật của mình chừng nào còn chưa được nhai Quả Thông Thái. Nhưng nỗi phấn khích đã khiến nó trở nên bất cẩn, và mãi đến tận khi cái bóng đen chắn mất ánh trăng, con chuột mới nhận ra một con cú xám khổng lồ đã lao xuống, cắp lấy nó giữa những móng vuốt sắc nhọn và rồi lại bay vào trong màn đêm.
Con chuột đánh rơi quả phỉ xuống suối, quả phỉ bị cuốn đi, rồi bị một con cá hồi nuốt chửng. Con cú nuốt gọn con chuột chỉ sau đôi lần đánh ực, chẳng chừa lại gì ngoài cái đuôi đang buông thõng ra ngoài miệng nó, y như một sợi dây giày. Có thứ gì đó vừa khụt khịt lầm bầm vừa len qua bụi rậm – một con lửng, cú nghĩ (chính nàng cú này cũng đang bị phù phép và chỉ có thể trở lại hình dạng thật nếu chén được một con chuột đã ăn Quả Thông Thái), hay có khi là gấu con.
Lá cây xào xạc, nước chảy róc rách, và rồi trảng đất chan chứa ánh sáng chiếu rọi từ trên cao xuống, một ánh sáng trắng xóa đang càng lúc càng sáng hơn, sáng hơn nữa. Con cú nhìn nó phản chiếu trong hồ nước, một thứ ánh sáng thuần khiết chói chang, rực rỡ, sáng lóa đến độ cú ta phải dang cánh bay tới một khoảnh rừng khác. Những sinh vật hoang dã hoảng loạn ngó dáo dác xung quanh.
Ban đầu, ánh sáng trên bầu trời chẳng nhỉnh hơn vầng trăng là bao, rồi nó dường như lớn hơn, lớn mãi, và toàn bộ khu rừng nhỏ rung chuyển, run rẩy, mọi sinh vật đều nín thở, đàn đom đóm tỏa sáng rực rỡ hơn bất cứ khi nào khác trong cuộc đời của chúng, con nào cũng cố gắng thuyết phục bản thân rằng, rốt cuộc, đây chính là tình yêu(*), nhưng chẳng ích lợi gì...
* Dân gian vẫn cho rằng đom đóm phát sáng rực rỡ nhất ở nơi có tình yêu đích thực. Mỗi con đóm đóm sẽ tự thiêu đốt chính sinh mệnh của mình, chiếu sáng rực rỡ, cốt tìm kiếm cho mình một tình yêu chân chính.
Và rồi...
Một tiếng rắc vang lên, sắc lẻm như một phát súng, và ánh sáng vừa chan chứa khắp khu rừng vụt tắt. Hoặc gần như là tắt. Một ánh sáng lờ mờ phập phồng giữa bụi phỉ, như thể một đám mây sao tí hon đang lập lòe phát sáng ở đó.
Và một giọng nói vang lên, một giọng phụ nữ trong trẻo, cao vót, kêu, “Oái”, và rồi, rất khẽ, nói, “Mẹ kiếp,” và rồi lại tiếp tục “Oái,” thêm một lần nữa.
Sau đó, giọng nói chẳng hề cất lên lần nào nữa, và sự im lặng ngự trị nơi trảng đất.