Chương 4 “Liệu tôi có thể đến đó trong thời gian một ngọn nến cháy tàn?”
Tháng Mười trôi mỗi lúc một xa theo từng bước chân Tristran; anh có cảm giác như thể mình đang bước dần tới mùa hè. Có một con đường mòn xuyên qua khu rừng, một bên là hàng rào cây mọc cao, và anh đi theo con đường đó. Cao tít phía trên đầu anh, các vì sao đang lấp lánh, lập lòe, và vầng trăng tròn tỏa rạng một màu vàng óng, màu ngô chín. Dưới ánh trăng, anh có thể nhìn thấy những bông tầm xuân điểm xuyết giữa hàng rào.
Giờ anh đã thấy buồn ngủ. Anh đấu tranh một hồi để cố thức, nhưng rồi anh bèn cởi áo khoác, thả túi xuống - một cái túi hành lý lớn bằng da thuộc, loại túi trong hai mươi năm nữa sẽ trở nên nổi tiếng với tên gọi túi Gladstone - và anh ngả đầu tựa lên cái túi, phủ áo khoác lên che người.
Anh nhìn chằm chằm lên các vì sao: trong mắt anh, chúng dường như là các vũ công, trang nghiêm và duyên dáng, đang trình diễn một điệu vũ vô cùng phức tạp. Anh tưởng như mình có thể nhìn thấy khuôn mặt các vì sao; chúng nhợt nhạt, và đang mỉm cười dịu dàng, như thể những vì sao ấy đã trải qua một thời gian rất dài ở bên trên thế giới, quan sát những xáo trộn, niềm vui và nỗi đau của con người bên dưới, đến độ chúng không thể cưỡng lại được niềm thích thú mỗi lần lại có thêm một con người nhỏ bé nào đó đinh ninh mình chính là trung tâm của thế giới, đúng y như suy nghĩ của mỗi người trong chúng ta.
Và rồi Tristran nhận ra anh đang mơ, và anh bước vào trong phòng ngủ, cũng chính là phòng học của làng Bức Tường: cô Cherry gõ tấm bảng đen, buộc tất cả bọn họ im lặng, rồi Tristran nhìn xuống tấm bảng học sinh để xem bài học như thế nào, nhưng anh không sao đọc nổi mình đã viết gì lên bảng. Rồi cô Cherry, trông giống mẹ anh đến mức Tristran sửng sốt vì trước giờ chưa từng nhận ra họ chính là cùng một người, gọi Tristran để anh nhắc lại cho cả lớp biết thời gian trị vì của mọi đức vua và nữ hoàng nước Anh...
“Xin lỗi,” một giọng nói nhỏ khàn khàn vang lên trong tai anh, “nhưng phiền anh mơ mộng yên ắng hơn chút được không? Các giấc mơ của anh đang chồng lấn vào các giấc mơ của tôi, và trên đời này nếu có thứ gì mà tôi chẳng thể xoay xở được thì đó chính là ngày tháng đấy. William Người Chinh Phục, 1066, tôi chỉ nhớ được đến chừng đó thôi, và tôi sẵn sàng đổi nó lấy một con chuột biết nhảy"
“Ừm?” Tristran nói.
“Yên tĩnh hơn nhé,” giọng nói cất lời. “Nếu anh không phiền.”
“Xin lỗi,” Tristran nói, và sau đó các giấc mơ của anh chỉ còn màu đen.
“Bữa sáng” một giọng nói vang lên sát tai anh “Đó là món nấm, chiên bơ, ăn kèm tỏi dại.”
Tristran mở mắt: ánh sáng ban ngày chiếu xuyên qua hàng rào hoa tầm xuân, vảy lên cỏ những đốm màu vàng và xanh lục. Một thứ gì đó tỏa mùi thật sảng khoái.
Một cái hộp thiếc đã được đặt ngay cạnh anh.
“Đồ ăn hẻo lắm,” giọng nói kia nhận xét. “Đồ ăn quê thì thế thôi. Chẳng có gì giống như giới quý tộc vẫn quen dùng, nhưng đối với một kẻ hèn nhát như tôi thì một món nấm ngon quả là kho báu.”
Tristran chớp mắt, và với tay vào trong cái bát thiếc, dùng hai ngón tay kẹp ra một miếng nấm to đùng. Nó vẫn đang nóng hổi. Anh thận trọng cắn một miếng, cảm thấy nước nấm chảy tràn trong miệng. Nó đúng là món ngon nhất anh từng được ăn, và sau khi đã nhai rồi nuốt xong, anh bèn nói thế.
“Anh thật tử tế quá” dáng hình nhỏ bé nói khi ngồi ở phía bên kia đống lửa nhỏ đang lép bép tỏa khói trong không khí buổi sáng. “Anh thật tử tế, tôi chắc chắn thế đấy. Nhưng anh biết, và tôi cũng biết, rằng nó chỉ là nấm dại chiên thôi, và chẳng bao giờ sánh được với một món đích thực...”
“Còn chút nào nữa không vậy?” Tristran hỏi, nhận ra anh đang đói ngấu: đôi khi một chút xíu thức ăn cũng có thể gây tác động đó với ta.
“Ôi chao, anh mới lịch sự làm sao chứ,” dáng hình bé nhỏ kia nói, người này đang đội một cái mũ mềm rộng và mặc một cái áo khoác rộng thùng thình. “Còn nữa không vậy? Anh ta nói thế đấy, cứ như thể nó là món trứng cút chần và linh dương hun khói kèm nấm truýp chứ không phải chỉ là một món nấm bình thường, ít nhiều giống với một thứ đã chết ngắc được cả tuần rồi và đến mèo cũng chả thèm xớ đến. Lịch sự quá.”
“Tôi thật sự, thực lòng muốn thêm một miếng nấm nữa,” Tristran nói, “nếu chuyện đó không phiền phức quá.”
Người đàn ông bé nhỏ - nếu ông ta quả thật là người, một điều mà Tristran thấy có phần không được chắc lắm - thở dài rầu rĩ, rồi với con dao vào bên trong cái chảo đang cháy xèo xèo trên bếp lửa và gẩy hai miếng nấm to tướng vào trong cái bát thiếc của Tristran.
Tristran thổi phù phù hai miếng nấm, rồi nhón tay bốc chúng lên ăn. “Nhìn anh xem,” người bé nhỏ lông lá kia nói, giọng ông ta pha giữa tự hào và buồn rầu, “ăn mấy miếng nấm này cứ như là anh thích chúng lắm, cứ như thể vào trong miệng anh, chúng chẳng hề giống mùn cưa, ngải đắng và cửu lý hương vậy.”
Tristran liếm các ngón tay và cam đoan với vị ân nhân của mình rằng chúng đúng là những miếng nấm ngon nhất mà anh từng có vinh hạnh được nếm.
“Giờ thì anh nói thế thôi,” người thết đãi anh nói giọng ảm đạm, “nhưng chỉ một tiếng đồng hồ sau là anh sẽ chẳng nói vậy nữa đâu. Chắc chắn người ta sẽ không tán thành ý kiến của anh đâu, y như cô bán cá không tán thành ý kiến với anh chàng của cô ta về một nàng tiên cá. Và anh có thể nghe người ta nói như thế từ Garamond tới tận Stormhold. Cái lối ngôn ngữ ấy! Nó đã biến tai tôi thành màu xanh dương, đúng thế đấy.” Người bé nhỏ lông lá kia dài thườn thượt “Nhân nói đến bụng dạ của anh” ông ta nói, “tôi phải chăm lo cho bụng dạ của tôi đằng sau cái cây kia đã. Anh làm ơn để mắt đến cái ba lô đằng kia giùm tôi nhé? Tôi sẽ rất cảm kích.”
“Tất nhiên rồi,” Tristran lịch sự nói. Người bé nhỏ lông lá biến mất đằng sau một cây sồi; Tristran nghe thấy vài tiếng càu nhàu, rồi người bạn mới của anh lại xuất hiện, lên tiếng, “Xong rồi. Tôi biết một người ở Paphlagonia sáng nào thức dậy cũng nuốt chửng một con rắn sống. Y thường nói y luôn chắc chắn một điều, đó là trọn cả ngày y sẽ chẳng gặp chuyện nào tệ hại hơn thế được. Dĩ nhiên là người ta đã bắt y ăn một bát tú hụ sâu róm trước khi treo cổ y lên, nên có lẽ lời tuyên bố đó cũng chỉ là suy đoán thôi.”
Tristran xin phép rời đi một lát. Anh đi tiểu bên gốc sồi, ngay cạnh đó có một bãi phân nhỏ chắc chắn không phải do bất kỳ con người nào thải ra. Nó giống như phân nai hay phân thỏ.
“Tôi là Tristran Thorn,” Tristran nói khi đã quay trở lại. Người bạn dùng bữa sáng cùng anh đã gói ghém đồ ăn sáng - lửa, chảo, tất tật - và cất biến chúng vào trong ba lô.
Ông ta bỏ mũ ra, ấn nó áp vào ngực, rồi ngước mắt nhìn Tristran. “Bị Quyến Rũ,” ông ta nói. Ông ta gõ tay lên bên thành ba lô, trên có dòng chữ: BỊ PHÙ PHÉP, BỊ MÊ HOẶC, BỊ BỎ BÙA VÀ BỊ LÚ LẪN. “Tôi từng bị lú lẫn,” ông ta giãi bày tâm sự, “nhưng anh biết những chuyện này là như thế nào rồi đấy.”
Nói xong câu này, ông ta cất bước dọc con đường. Tristran đi theo sau. “Này! Tôi nói này” Tristran gọi. “Chậm chút được không?” Vì bất chấp cái ba lô to đùng (khiến Tristran liên tưởng tới gánh nặng của Christian trong Hành trình của người hành hương, một cuốn sách được cô Cherry đọc cho đám học trò nghe vào sáng thứ Hai hằng tuần và nhận xét rằng mặc dù nó do một người thợ hàn nồi viết ra nhưng vẫn là một cuốn sách hay), người đàn ông bé nhỏ này - Bị Phù Phép? Tên ông ta là thế à? – vẫn đang bước ra xa anh với tốc độ chẳng thua kém gì một con sóc leo cây.
Sinh vật bé nhỏ ấy vội vã quay ngược trở lại “Có chuyện gì à?” ông ta hỏi.
“Tôi không theo kịp được,” Tristran thú nhận “Ông đi nhanh quá.”
Người đàn ông bé nhỏ lông lá giảm bớt tốc độ “Anh thứ lỗi cho nhé,” ông ta nói, trong lúc Tristan lập bập bước theo sau. “Tôi vốn chỉ có một mình nên thành ra đã quen kiểu một mình một nhịp.”
Họ sánh bước bên nhau, dưới ánh mặt trời xanh vàng chiếu qua những tán lá vừa nở bung. Đó là một kiểu ánh sáng Tristran chỉ thấy độc mùa xuân mới có. Anh thầm hỏi lòng không biết họ đã bỏ mùa hè ở lại phía sau xa như với tháng Mười chưa. Thỉnh thoảng, Tristran lại nhận xét về một ánh màu nháng lên trong một cái cây hay một bụi rậm, và người đàn ông bé nhỏ lông lá sẽ nói gì đó đại loại như, “Chim bói cá đấy. Người ta vẫn thường gọi nó là Ngài Chim Trả. Chim xinh,” hoặc, “Chim ruồi tím. Uống mật hoa. Bay lượn trên cao,” hoặc, “Chim sẻ cánh vàng. Chúng sẽ giữ khoảng cách, nhưng đừng có đến quá gần chúng nhé, nếu không là gặp rắc rối đấy, vì bọn khốn này thể nào cũng kéo theo phiền phức.”
Họ ngồi ăn trưa bên một bờ suối. Tristran mang ra ổ bánh mì tròn, táo chín đỏ và khoanh pho mát - cứng, chua và dễ bị vỡ vụn - đã được mẹ anh đưa cho. Và mặc dù người đàn ông bé nhỏ kia nhìn cả bánh lẫn pho mát bằng ánh mắt ngờ vực, ông ta vẫn ngấu nghiến cả hai và liếm vụn bánh mì cùng vụn pho mát dính trên các ngón tay, rồi tóp tép nhai táo. Sau đó, ông ta múc đầy nước suối vào ấm rồi đun sôi nước để pha trà.
“Anh kể cho tôi nghe chuyện của anh được chứ?” người đàn ông nhỏ bé lông lá nói giữa lúc họ đương ngồi bệt dưới đất uống trà.
Tristran ngẫm nghĩ một lát rồi nói, “Tôi đến từ làng Bức Tường, nơi ấy có một cô gái trẻ tên là Victoria Forester, một cô gái khác biệt hẳn so với những người cùng giới, và cho cô ấy, chỉ một mình cô ấy, tôi đã trao trọn trái tim mình. Khuôn mặt cô ấy...”
“Đầy đủ các bộ phận bình thường chứ?” sinh vật bé nhỏ kia hỏi. “Mắt? Mũi? Răng? Tất cả đều bình thường?”
“Tất nhiên.”
“Vậy thì anh có thể bỏ qua phần đó được đấy” người đàn ông nhỏ bé lông lá nói. “Chúng ta sẽ coi như mọi thông tin đã được cung cấp rồi. Vậy cô gái trẻ này đã bắt anh làm chuyện ngốc nghếch ngu xuẩn chết tiệt nào vậy?”
Tristran đặt cái cốc gỗ đựng trà xuống rồi đứng dậy, tức giận.
“Điều gì,” anh hỏi, bằng một giọng mà anh tin chắc lộ rõ sắc thái ngạo mạn và khinh miệt, “lại có thể khiến cho ông tưởng tượng ra rằng cô gái yêu dấu của tôi đã bắt tôi thực hiện một nhiệm vụ ngu ngốc nào đó?”
Người đàn ông bé nhỏ ngước nhìn anh chần chằm với đôi mắt như hai cái hạt đen láy. “Bởi vì đó là lý do duy nhất khiến một anh chàng như anh đủ ngu ngốc đến độ băng qua ranh giới để tiến vào Xứ Tiên. Từ trước đến nay, những người từ xứ sở của anh từng đến nơi này chỉ gồm người hát rong, kẻ đang yêu và người điên. Trông anh không có vẻ là người hát rong, và anh - xin thứ lỗi cho tôi vì đã nói thế này nhé, anh bạn, nhưng sự thật đúng là thế đấy - rõ là cũng bình thường y như vụn pho mát. Vậy nên, nếu anh hỏi tôi thì xin thưa rằng, lý do chính là tình yêu rồi.”
“Bởi vì,” Tristran tuyên bố, “mọi kẻ đang yêu đều có trái tim của một người điên và đầu óc của một nghệ sĩ hát rong.”
“Thật à?” người đàn ông bé nhỏ hỏi, vẻ hoài nghi. “Tôi chẳng để ý bao giờ. Vậy là có một cô gái trẻ nào đấy. Cô ta đã bảo anh đến đây tìm vận may à? Chuyện đó từng rất phổ biến đấy. Ta thường thấy các anh chàng trẻ tuổi lang thang khắp nơi, tìm kiếm cái kho vàng đã được một con cự xà hay một quái nhân tội nghiệp nào đó ky cóp chắc chắn phải hàng bao nhiêu thế kỷ.”
“Không. Không phải vận may của tôi. Nói cho đúng thì đó là một lời hứa tôi cần hoàn thành cho cô gái tôi vừa nhắc đến đấy. Tôi... chúng tôi đã nói chuyện, và tôi hứa với cô ấy nhiều điều, rồi chúng tôi nhìn thấy ngôi sao băng này, và vậy là tôi hứa sẽ mang nó về cho cô ấy. Và nó rơi...” - anh vung cánh tay về phía một rặng núi nằm đâu đó ở hướng mặt trời thường mọc - “... ở kia.”
Người đàn ông bé nhỏ lông lá gãi cằm. Hoặc miệng; có lẽ đó là miệng ông ta. “Anh biết tôi sẽ làm gì không?”
“Không” Tristran hỏi, niềm hy vọng dâng lên trong lòng, “làm gì?”
Người đàn ông bé nhỏ chùi mũi. “Tôi sẽ bảo cô ta hãy cắm mặt vào chuồng lợn đi cho xong, sau đó tôi ra ngoài và tìm một cô gái sẽ hôn tôi mà chẳng thèm đòi hỏi gì hết. Anh chắc chắn sẽ tìm được một cô. Ở vùng đất của anh, cứ ném bừa nửa viên gạch, thì cũng còn lâu mới có chuyện không trúng phải một cô nàng nào đó.”
“Không có cô gái nào khác đâu,” Tristran tự tin nói.
Người đàn ông bé nhỏ khịt mũi, rồi họ nhấc hành lý lên và cùng nhau bước tiếp. “Anh có nghiêm túc không?” người đàn ông bé nhỏ nói. “Về chuyện ngôi sao băng ấy?”
“Có,” Tristran đáp.
“Chậc, nếu tôi mà là anh thì tôi sẽ không đả động đến chuyện đó đâu,” người đàn ông bé nhỏ nói. “Có đầy người sẽ quan tâm đến thông tin kiểu đấy với ý định không hề tốt đẹp đâu. Tốt hơn hết hãy giữ mồm giữ miệng. Nhưng đừng bao giờ nói dối”
“Vậy tôi nên nói thế nào?”
“Chà,” ông ta nói, “ví dụ nhé, nếu họ hỏi anh từ đâu đến, anh có thể nói ‘Phía sau tôi’, và nếu họ hỏi anh định đi đâu, anh sẽ nói, ‘Phía trước tôi.’”
“Tôi hiểu rồi,” Tristran nói.
Con đường họ đang đi dần trở nên khó mà nhìn rõ được. Một cơn gió lạnh thổi tung mái tóc Tristran và anh rùng mình. Con đường dẫn họ vào trong một khoảnh rừng xám với những cây bạch dương mảnh dẻ, nhợt nhạt.
“Ông nghĩ liệu đường đi có xa không?” Tristran hỏi. “Đến chỗ ngôi sao ấy?”
“Bao nhiêu dặm thì tới Babylon?” người đàn bé nhỏ nói giọng hoa mỹ. “Khoảnh rừng này không hề có ở đây vào lần gần đây nhất tôi đi trên đường này,” ông ta bổ sung.
“Bao nhiêu dặm thì tới Babylon,” Tristran nhắc lại, với chính mình, trong lúc họ đi xuyên qua khoảnh rừng xám.
“Ba lần hai mươi cộng thêm mười dặm.
Liệu tôi có thể đến đó trong thời gian một ngọn nén cháy tàn?
Có chứ, và rồi quay trở lại.
Có chứ, nếu chân anh nhẹ tênh và lanh lẹ,
Anh có thể đến đó trong thời gian một ngọn nến cháy tàn”
“Chính thế đó,” người đàn ông nhỏ bé lông lá nói, đầu quay hết bên nọ sang bên kia, như thể ông ta đang lo lắng, hoặc hơi bất an.
“Nó chỉ là một bài đồng dao thôi mà,” Tristran nói.
“Chỉ là bài đồng dao...? Chao ôi, ở phía bên này của bức tường, có những người sẵn sàng dành bảy năm lao lực cho món phép thuật vặt vãnh đó đấy. Còn từ nơi anh đến, các anh lẩm bẩm những câu từ đó cho các em bé nghe cùng với nào là ‘Ngủ ngoan nhé bé ơi’ hay ‘Ùng tùng tùng’ mà chả nghĩ ngợi sâu xa gì hết... Anh lạnh à, anh bạn?”
“Nghe ông nhắc đến mới thấy, đúng đấy, tôi hơi lạnh.”
“Nhìn xung quanh đi. Anh có nhìn thấy đường không?”
Tristran chớp chớp mắt. Khoảnh rừng xám tắm đẫm ánh sáng, màu sắc và trông thật xa xăm. Anh cứ tưởng họ đang đi theo một con đường, nhưng giờ khi anh cố gắng nhìn rõ đường, nó lại lờ mờ và biến mất, giống như một ảo giác. Anh đã lấy cái cây đó, và cái cây kia, và cái hòn đá kia làm mốc cho con đường... nhưng chẳng còn đường nữa, chỉ có không gian u ám, cảnh tranh tối tranh sáng, và cây cối lờ nhờ.
“Chúng ta gặp rắc rối đến nơi rồi,” người đàn ông lông lá nói khẽ.
“Chúng ta có nên bỏ chạy không?” Tristran bỏ cái mũ quả dưa xuống và cầm nó phía trước mặt.
Người đàn ông bé nhỏ lắc đầu. “Chẳng mấy ích lợi đâu,” ông ta nói. “Chúng ta đã đi thẳng vào bẫy, và cho dù có chạy thì chúng ta cũng sẽ vẫn cứ ở trong bẫy thôi.”
Ông ta tiến tới chỗ cái cây gần nhất, một thân cây cao nhạt màu có vẻ thuộc giống bạch dương, và đá mạnh vào nó. Vài cái lá khô rơi xuống, rồi một thứ gì đó màu trắng từ trên cành cây rơi xuống mặt đất cùng với một âm thanh khe khẽ, khô khốc. Tristran bước tới gần và nhìn xuống xem sao; đó là một bộ xương chim, sạch sẽ, trắng hếu và khô cong.
Người đàn ông bé nhỏ rùng mình. “Tôi có thể chơi trò hoán đổi vị trí,” ông ta nói với Tristran “nhưng ở đây, chẳng ai có điều kiện tốt hơn chúng ta để tôi hoán đổi... Không có khả năng trốn thoát bằng cách bay, cứ nhìn vào cái thứ kia là rõ.” Ông ta đưa một bàn chân có vẻ như có vuốt nhọn ra chọc chọc vào bộ xương. “Và những người kiểu như cậu chẳng bao giờ học được cách đào bới - nhưng nói như thế không có nghĩa là biết đào bới thì sẽ có ích gì cho chúng ta...”
“Có lẽ chúng ta có thể tự trang bị vũ khí cho mình,” Tristran nói.
“Tự trang bị vũ khí cho mình?”
“Trước khi chúng đến.”
“Trước khi chúng đến? Sao chứ... chúng ở đây mà, đồ đầu đất. Chính là đám cây cối đấy. Chúng ta đang ở trong một cánh rừng ăn thịt.”
“Rừng ăn thịt?”
“Do tôi mà ra cả... Nhẽ ra tôi nên chú ý hơn để xem ta đang đi đâu. Giờ thì anh sẽ chẳng bao giờ lấy được ngôi sao của anh đâu, còn tôi sẽ chẳng bao giờ kiếm được hàng hóa của tôi. Rồi một ngày nào đó, một đứa ất ơ tội nghiệp nào đó bị lạc trong rừng sẽ tìm thấy hai bộ xương của chúng ta đều đã bị lóc sạch sẽ như chùi, và chỉ có thế mà thôi.”
Tristran nhìn ông ta không chớp mắt. Trong ánh sáng lờ nhờ, có vẻ như đám cây cối đang ken lại, càng lúc càng dày đặc hơn, mặc dù trên thực tế, anh không nhìn thấy có bất cứ thứ gì đang chuyển động. Anh thầm băn khoăn không biết người đàn ông bé nhỏ này có phải bị ngớ ngẩn không, hoặc là đang tưởng tượng ra mọi chuyện.
Có gì đó châm vào bàn tay trái của anh. Anh vỗ lên tay, đinh ninh sẽ nhìn thấy một con côn trùng. Anh nhìn xuống, thấy một cái lá vàng nhạt. Nó loạt soạt rơi xuống đất. Trên mu bàn tay anh, một tia máu đỏ ướt nhoét phun ra. Khu rừng thì thầm xung quanh họ.
“Chúng ta có làm được gì không?” Tristran hỏi.
“Tôi chẳng nghĩ ra được gì cả. Giá như chúng ta biết con đường thật ở đâu... cho dù có là rừng ăn thịt đi nữa thì nó cũng không thể phá hủy con đường thật được. Chỉ giấu nó khỏi chúng ta, dẫn dụ chúng ta đi xa khỏi nó thôi...” Người đàn ông bé nhỏ nhún vai, thở dài.
Tristran với tay lên xoa trán. “Tôi... Tôi có biết con đường ở đâu,” anh nói. Anh chỉ tay. “Nó ở dưới kia kìa.”
Đôi mắt đen như hạt huyền của người đàn ông bé nhỏ sáng lên long lanh. “Anh chắc chứ?”
“Chắc, thưa ông. Băng qua cái xác kia và đi lên một chút về phía bên phải. Con đường nằm ở chỗ đó."
“Làm sao anh biết?” người đàn ông hỏi.
“Tôi biết thế thôi,” Tristran đáp.
“Được rồi. Đi thôi!” Và người đàn ông bé nhỏ xốc hành lý lên rồi chạy đi, tốc độ đủ chậm để Tristran - cái túi hành lý bằng da đung đưa đập vào hai cẳng chân, tim đập thình thịch, hơi thở dồn dập - có thể theo kịp.
“Không! Không phải hướng đó. Quá sang bên trái cơ!” Tristran hét to. Cành cây và gai nhọn đâm thủng, xé toạc quần áo anh. Họ chạy trong im lặng.
Cây cối dường như đã tự dàn ra thành một bức tường. Lá cây rơi ào ào xuống quanh họ, châm chích đau đớn, nhức nhối mỗi khi chạm vào da Tristran, cắt rạch quần áo anh. Anh leo lên dốc, dùng bàn tay rảnh rang phủi đám lá cây, vung túi đập vào đám cành nhánh.
Sự im lặng bị phá vỡ bởi tiếng rên rỉ. Là tiếng người đàn ông nhỏ bé lông lá. Ông ta đã dừng phắt lại, đứng yên một chỗ, rồi, đầu hất ngược ra sau, ông ta bắt đầu hú lên về phía bầu trời.
“Hăng hái lên nào,” Tristran nói. “Chúng ta gần đến nơi rồi.” Anh chụp lấy bàn tay để không của người đàn ông bé nhỏ lông lá nắm trong bàn tay to hơn hẳn của mình, rồi kéo ông ta tiến về phía trước.
Và thế là họ đứng trên con đường thực: một con đường cỏ xanh um chạy xuyên qua khu rừng xám. “Ở chỗ này, chúng ta an toàn chưa?” Tristran hỏi, vừa thở hổn hển vừa lo lắng nhìn quanh.
“Chúng ta an toàn rồi, miễn là vẫn bám sát con đường,” người đàn ông bé nhỏ lông lá nói, và ông ta đặt hành lý xuống, ngồi lên đường cỏ, nhìn chằm chằm cây cối xung quanh.
Những cái cây nhợt nhạt rung lắc, mặc dù gió không hề thổi, và như Tristran thấy, chúng có vẻ rung lắc đầy giận dữ.
Người bạn đường của anh từ nãy đã bắt đầu run rẩy, những ngón tay lông lá của ông ta cào vuốt cỏ xanh. Rồi ông ta ngước nhìn Tristran. “Tôi cho là cậu không mang theo một thứ gì đó kiểu như một chai đồ uống có cồn đâu nhỉ? Hay có thể là một bình trà ngọt nóng hổi?”
“Không” Tristran nói. “E là không có rồi."
Người đàn ông bé nhỏ khịt mũi, dò dẫm ổ khóa ở cái ba lô khổng lồ của ông ta. “Quay mặt đi,” ông ta nói với Tristran. “Đừng nhìn lén đấy.”
Tristran quay đi.
Âm thanh lục lọi, va đập vang lên. Rồi tiếng ổ khóa cài đánh tách, sau đó là, “Nếu thích thì anh quay lại được rồi.” Người đàn ông bé nhỏ đang cầm một cái chai tráng men. Ông ta đang giật mạnh cái nút chai nhưng chỉ hoài công vô ích.
“Ừm. Ông có muốn tôi giúp không?” Tristran hy vọng người đàn ông bé nhỏ lông lá sẽ không tự ái trước lời đề nghị của anh. Lẽ ra anh chẳng cần phải lo thế làm gì; người bạn đồng hành của anh giúi cái chai vào tay anh.
“Đây này,” ông ta nói. “Tay cậu có khả năng mở được đấy.”
Tristran kéo kéo và lôi cái nút chai ra. Anh có thể ngửi thấy một thứ mùi nồng nàn nào đó, giống như mật ong trộn với khói củi và đinh hương. Anh trả cái chai lại cho người đàn ông nhỏ bé.
“Một thứ vừa hiếm vừa ngon thế này mà ta uống thẳng từ chai thì quả là một tội ác,” người đàn ông nhỏ bé lông lá nói. Ông ta gỡ cái cốc gỗ nhỏ buộc ở thắt lưng ra, rồi run run rót một chút xíu thứ chất lỏng màu hổ phách vào trong cốc. Ông ta khịt mũi ngửi, rồi nhấp một ngụm, rồi mỉm cười, để lộ hàm răng trắng nhọn.
“Aaaaaaaa. Dễ chịu hơn hẳn.” Ông ta chuyển cái cốc sang cho Tristran.
“Nhấm nháp từ từ thôi,” ông ta nói. “Cái chai này sánh ngang gia tài của cả một ông vua đấy. Tôi đã phải tốn hai viên kim cương trắng xanh to tướng, một con chim sơn ca máy biết hát và một cái vảy rồng cho nó đấy.”
Tristran nhấp món đồ uống. Nó tỏa hơi ấm xuống tận đầu ngón chân anh và khiến anh có cảm giác như trong đầu đang ngập tràn những bong bóng tí hon.
“Ngon, nhỉ?”
Tristran gật đầu.
“Quá ngon so với những người như anh và tôi, tôi e là vậy. Dầu sao thì cũng mặc. Nó xoa dịu lòng ta trong những thời khắc rối loạn, và đây chắc chắn chính là một thời điểm như thế. Thoát khỏi khu rừng này thôi nào,” người đàn ông bé nhỏ lông lá nói “Nhưng đường nào đây...?”
“Đường kia,” Tristran nói, chỉ sang phía bên trái họ.
Người đàn ông bé nhỏ đậy lại nắp và nhét cái chai nhỏ vào trong túi, xốc ba lô lên vai, rồi hai người họ sánh bước trên con đường màu xanh đâm xuyên qua khu rừng xám.
Sau vài tiếng đồng hồ, đám cây cối màu trắng bắt đầu thưa dần, rồi sau đó, họ thoát ra khỏi rừng ăn thịt và bước đi giữa hai bức tường thấp bằng đá xù xì, dọc theo một bờ đất cao. Khi Tristran quay lại nhìn con đường họ vừa đi qua, anh chẳng thấy dấu hiệu của bất kỳ khu rừng nào hết; con đường phía sau lưng họ là những ngọn đồi thạch nam chìm trong một màu tím ngắt.
“Ta có thể dừng lại đây,” người bạn đường của anh nói. “Chúng ta có chuyện cần bàn. Ngồi xuống đi."
Ông ta đặt cái túi khổng lồ xuống rồi leo lên trên ngồi, vậy nên thành ra lúc này ông ta đang cúi xuống nhìn Tristran, hiện đang ngồi trên một tảng đá ven đường. “Có một vấn đề tôi vẫn chưa rõ lắm. Nào, nói tôi nghe xem. Anh là người ở đâu nhỉ?”
“Bức Tường” Tristran nói. “Tôi đã bảo ông rồi còn gì.”
“Cha mẹ anh là ai?”
“Tên cha tôi là Dunstan Thorn. Mẹ tôi là Daisy Thorn."
“Ừm. Dunstan Thorn... Ừm. Tôi từng gặp cha anh một lần rồi. Ông ấy đã cho tôi trọ một đêm. Ông ấy cũng không tệ, mặc dù chẳng nhanh mồm nhanh miệng cho lắm trong lúc có người đang phải cố gắng kiếm một chỗ ngả lưng.” Ông ta gãi miệng. “Vẫn không giải thích được... Có bất kỳ điều gì bất thường trong gia đình anh không?”
“Em gái tôi, Louisa, biết vẫy tai.”
Người đàn ông bé nhỏ lông lá vẫy phần phật đôi tai to, lông lá của mình. “Không, không phải cái đó,” ông ta nói. “Nói đúng hơn thì tôi đang nghĩ đến một người bà từng là phù thủy nổi tiếng, hay một người chú là pháp sư lỗi lạc, hoặc một vài vị tiên ở đâu đó trong cây phả hệ gia đình.”
“Theo tôi biết thì không có đâu,” Tristran thú nhận.
Người đàn ông bé nhỏ thay đổi chiến thuật. “Làng Bức Tường ở đâu nhỉ?” ông ta hỏi. Tristran chỉ cho ông ta. “Đồi Tranh Luận ở đâu nhỉ?” Tristran chỉ lần nữa, không chút lưỡng lự. “Đảo Catavarian ở đâu nhỉ?” Tristran chỉ về phía Tây Nam. Anh không hề biết đồi Tranh Luận hay đảo Catavarian có tồn tại cho đến tận khi người đàn ông bé nhỏ nhắc đến chúng cũng nhưng anh vẫn chắc chắn một trăm phần trăm về vị trí của chúng cũng như anh chắc chắn bàn chân trái của anh đang đặt ở chỗ nào và mũi anh đang nằm trên mặt anh vậy.
“Hừm. Thế này nhé. Anh có biết Freemartin Muskish Vĩ Đại ở đâu không?”
Tristran lắc đầu.
“Anh có biết thành Transluminary của Freemartin Muskish Vĩ Đại ở đâu không?”
Tristran chỉ tay, vẻ chắc chắn.
“Vậy Paris thì sao? Thành phố ở Pháp ấy?”
Tristran ngẫm nghĩ một hồi. “Chậc, nếu Bức Tường ở phía kia, vậy thì tôi đoán là Paris đại loại là cũng sẽ ở cùng hướng đó, hẳn là thế rồi.”
“Để xem nào,” người đàn ông bé nhỏ lông lá nói, nửa nói với Tristran nửa tự nhủ với chính mình. “Anh có thể xác định được các địa điểm ở Xứ Tiên, nhưng ở thế giới của anh thì không, chỉ trừ Bức Tường, và đó là một ranh giới. Anh không xác định được vị trí của mọi người... nhưng... nói tôi nghe coi, anh bạn, anh có thể xác định được vị trí của ngôi sao anh đang tìm không?”
Tristran chỉ ra, ngay lập tức. “Ở hướng kia kìa” anh nói.
“Hừm. Tốt. Nhưng vẫn chẳng giải thích được gì hết. Anh đói không?”
“Hơi hơi. Và tôi rách rưới tả tơi,” Tristran nói, chọc ngón tay vào những cái lỗ hổng toang hoác trên quần và áo khoác, những chỗ đã bị cành cây và gai nhọn đâm, cũng như bị lá cây cắt vào trên đường chạy. “Và nhìn đôi bốt của tôi này...”
“Trong túi của anh có gì?”
Tristran mở cái túi Gladstone ra. “Táo. Pho mát. Nửa ổ bánh mì tròn. Và một lọ pa tê cá. Con dao nhíp. Tôi có quần áo lót để thay, và hai đôi tất len. Đáng lẽ ra tôi nên mang thêm quần áo...”
“Cứ giữ lọ pa tê cá lại,” người bạn đồng hành của anh nói, rồi ông ta nhanh nhẹn chia những đồ ăn còn lại thành hai phần đều nhau.
“Anh đã giúp tôi một việc,” ông ta vừa nói vừa nhai táo rôm rốp, “và tôi không quên một chuyện như thế đâu. Đầu tiên, chúng ta lo đến vụ quần áo của anh đã, sau đó sẽ tiễn anh đi tìm ngôi sao kia. Được chứ?”
“Ông thật tử tế quá,” Tristran vừa lo lắng nói vừa lạng pho mát lên trên mẩu bánh mì.
“Được rồi,” người đàn ông nhỏ bé lông lá nói. “Đi tìm cho anh một cái chăn nào.”
Tảng sáng, ba hoàng tử của Stormhold chạy xuôi con đường núi hiểm trở, trên cỗ xe được sáu con ngựa đen kéo. Bọn ngựa khoác trên mình những bộ lông đen không ngừng tung bay, cỗ xe thì vừa mới được sơn đen, còn các hoàng tử Stormhold đều mặc đồ tang.
Với Primus, đồ tang là chiếc áo choàng dài, màu đen, kiểu thầy tu; Tertius mặc trang phục trang nhã theo kiểu của một thương nhân đang trong kỳ tang trong khi Septimus mặc áo chẽn đen và tất dài đen, đội mũ đen gắn một sợi lông vũ đen, và nhìn kiểu gì cũng giống với một tay sát thủ bảnh bao bước ra từ một vở kịch lịch sử không mấy quan trọng thời Elizabeth.
Các hoàng tử Stormhold liếc nhìn nhau, người thận trọng, người cảnh giác, người vô cảm. Họ không nói gì: nếu có thể kéo bè kết phái, Tertius hẳn sẽ cánh bên Primus để chống lại Septimus. Nhưng không đời nào có chuyện lập liên minh gì ở đây.
Cỗ xe lọc xọc lắc lư.
Xe dừng lại một lần cho lần lượt từng vị hoàng tử giải quyết các nhu cầu cấp bách của bản thân. Rồi nó lại lọc xọc chạy xuôi con đường đồi núi trập trùng. Cùng nhau, ba hoàng tử của Stormhold đặt thi hài của người cha vào Sảnh Tiền Nhân. Những người anh em đã qua đời của họ dõi nhìn theo từ những cánh cửa ra vào của đại sảnh, nhưng không nói năng gì.
Sẩm tối, người xà ích gọi to, “Đến Nottaway rồi!” và ông ta ghìm cương dừng cả đoàn lại phía bên ngoài một nhà trọ xập xệ, được xây áp vào một thứ trông có vẻ như tàn tích một ngôi nhà tranh của người khổng lồ.
Ba hoàng tử của Stormhold xuống khỏi xe ngựa, duỗi dài những đôi chân tù túng. Các khuôn mặt cứ liếc nhìn họ xuyên qua những ô cửa sổ ghép từ các đít chai thủy tinh của quán trọ.
Chủ quán trọ, một thần lùn cáu bẳn khó tính, ló ra khỏi cửa. “Chúng ta sẽ cần phơi phóng mấy chiếc giường đấy, thêm cả một nồi thịt cừu hầm trên bếp nữa,” ông ta gọi to.
“Cần phơi bao nhiêu giường đây?” cô hầu phòng Letitia hỏi vọng ra từ cầu thang.
“Ba nhé,” thần lùn đáp. “Tôi cá là thể nào họ cũng để xà ích ngủ cùng ngựa cho xem.”
“Ba cơ đấy,” Tilly, người giúp việc, thì thầm với Lacey, người coi chuồng ngựa, “trong khi bất kỳ ai cũng có thể nhìn thấy có đến cả bảy quý ông đang đứng trên đường.”
Nhưng khi các hoàng tử của Stormhold bước vào, bọn họ chỉ có mỗi ba người, và họ tuyên bố tay xà ích sẽ ngủ trong chuồng ngựa.
Bữa tối gồm có món thịt cừu hầm và bánh mì tươi mới ra lò nóng hổi đến độ vẫn còn bốc khói khi bị bẻ ra thành miếng nhỏ, và mỗi hoàng tử đều lấy một chai rượu Baragundia thượng hạng còn chưa bật nắp (vì không vị hoàng tử nào sẵn lòng chia sẻ chai rượu với đồng bọn, thậm chí còn chẳng cho phép rót rượu từ chai vào trong một cái ly có chân). Chuyện này xúc phạm ghê gớm đến thần lùn, vì ông này vẫn cho rằng - tuy nhiên, không ý kiến ý cò gì trong tầm nghe của các vị khách - đáng lý cũng phải cho rượu thở (*) nữa chứ.
(*). Để rượu tiếp xúc với không khí một thời gian trước khi uống thì hương vị sẽ đậm đà, uống sẽ ngon hơn.
Người xà ích ăn bát thịt hầm, uống hai vại bia rồi đi ngủ ở chuồng ngựa. Ba anh em mỗi người bước về một phòng, rồi chặn cửa ra vào lại.
Tertius đã tuồn một đồng bạc cho cô hầu phòng Letitia khi cô ta mang chảo than đến sưởi giường cho gã, vậy nên gã hoàn toàn không chút ngạc nhiên khi, ngay trước nửa đêm, một tiếng gõ vang lên từ cửa phòng.
Cô ta mặc bộ đồ lót một mảnh màu trắng, cúi người chào khi gã mở cửa và mỉm cười bẽn lẽn. Cô ta cầm theo một chai rượu vang.
Gã khóa cánh cửa lại sau lưng, dẫn cô ta tới giường, rồi tại đây, đầu tiên gã bảo cô ta cởi bộ đồ lót ra, ngắm nghía khuôn mặt cùng thân hình cô ta dưới ánh nến, hôn cô ta lên trán, lên môi, hai núm vú, rốn và ngón chân cô ta, sau đó, khi đã tắt nến đi gã làm tình với cô ta, không nói một lời, trong ánh trăng nhạt nhòa.
Một lúc sau, gã làu nhàu kêu lên, và bất động.
“Ngon lành đấy chứ, anh yêu?” Letitia hỏi.
“Phải,” Tertius nói, vẻ cảnh giác, như thể lời nói của cô ta che đậy một cái bẫy nào đó. “Đúng vậy.”
“Anh có muốn thêm một hiệp nữa không, trước khi em rời đi?"
Để đáp lại, Tertius chỉ vào giữa hai chân mình. Letitia cười khúc khích. “Chúng ta có thể làm cho anh chàng đó dựng thẳng trở lại chỉ trong nháy mắt thôi,” cô ta nói.
Rồi cô ta rút cái nút bần ra khỏi chai rượu cô ta đã mang theo vào trong phòng và lúc nãy đã để xuống cạnh giường, sau đó chuyển cái chai tới chỗ Tertius.
Gã ngoác miệng cười với cô ta, nuốt một ít rượu, rồi kéo cô ta lại gần.
“Em cá là nó thật ngon lành,” cô ta nói với gã. “Nào, anh yêu, lần này hãy để em cho anh thấy em thích nó ra sao... sao vậy, có chuyện gì vậy?” Vì Hoàng tử Tertius xứ Stormhold đang quằn quại trên giường, mắt trợn trừng, hơi thở nặng nhọc.
“Rượu đó?” gã thở hào hển. “Cô lấy nó từ đâu?”
“Em trai anh,” Letty nói. “Em gặp ngài ấy trên cầu thang. Ngài ấy bảo nó là món thuốc bổ và chất làm cứng hiệu quả, và nó sẽ giúp chúng ta có một buổi tối nhớ mãi không quên.”
“Đúng như thế đấy,” Tertius lào thào, rồi gã co rút cả người, một lần, hai lần, ba lần, sau đó cứng đơ. Và bất động.
Tertius nghe thấy Letitia bắt đầu gào thét, như thể từ một nơi nào đó xa rất xa. Gã nhận ra bốn dáng hình quen thuộc đang đứng cùng gã trong bóng tối bên cạnh tường.
“Cô ta xinh đẹp thật đấy,” Secundus thì thầm và Letitia tưởng như nghe thấy tiếng rèm sột soạt.
“Septimus là kẻ xảo quyệt nhất,” Quintus nói “Hắn ta đã lén cho vào đĩa lươn của tôi đúng cái món quả Mắt búp bê đó đấy,” và Letitia tưởng như cô ta đang nghe thấy tiếng gió hú vọng xuống từ những vách núi đá cheo leo.
Cô ta mở cửa ra cho những người hầu trong nhà vừa bị dựng dậy bởi tiếng la hét của cô ta, và cuộc lùng sục được tiến hành ngay sau đó. Tuy nhiên, hoàng tử Septimus đã biến mất tăm, và một con ngựa đực đen đã biến mất khỏi đàn trong chuồng ngựa (trong lúc người xà ích vẫn nằm ngáy o o ở đó, chẳng hề bị kinh động đến giấc ngủ).
Hoàng tử Primus, khi thức dậy vào sáng hôm sau, cảm thấy vô cùng bực bội.
Hắn không đồng ý khép tội chết cho Letitia, tuyên bố cô ta cũng là nạn nhân của trò xảo trá của Septimus y như Tertius, nhưng ra lệnh cho cô ta phải tháp tùng thi thể Tertius quay trở lại lâu đài Stormhold.
Hắn cho cô ta một con ngựa đen để chở cái xác, cộng thêm một túi tiền xu. Khoản tiền đó đủ để trả để công cho một dân làng Nottaway đi theo cô ta - đảm bảo lũ sói sẽ không nẫng mất con ngựa hay xác em trai của hắn - và để trả cho người xà ích khi gã ta cuối cùng cũng thức dậy.
Và sau đó, một mình trên cỗ xe được kéo bởi bốn con ngựa đen như than, hoàng tử Primus rời khỏi làng Nottaway, trong tâm trạng cáu kỉnh bực bội hơn gấp nhiều lần so với khi hắn đặt chân đến đấy.
Brevis dừng ở giao lộ, đang mắm môi mắm lợi kéo một sợi dây thừng. Sợi thừng này được buộc vào một con dê đực có sừng, râu rậm, đôi mắt láo liên, mà Brevis định mang ra chợ bán.
Sáng đó, mẹ Brevis đã đặt một củ cải duy nhất lên trên bàn trước mặt gã và bảo, “Brevis, con trai ơi. Củ cải này là thứ duy nhất mẹ nhổ được ngày hôm nay đấy. Tất tật hoa màu của chúng ta đều đã mất mùa rồi, thức ăn của chúng ta đã hết sạch sành sanh. Chúng ta chẳng còn gì để bán ngoài con dê đực. Vậy nên mẹ muốn con tròng dây vào cổ con dê, rồi mang nó ra chợ bán cho một nông dân. Sau đó thì cầm tiền bán dê - nếu ít hơn một đồng vàng florin(*) thì đừng có bán đấy, nhớ chưa - mua một con gà mái, bắp ngô và củ cải; và có lẽ chúng ta sẽ không chết vì đói”
(*) Florin: đồng tiền cổ của Anh, có giá trị bằng 2 shilling.
Vậy là Brevis nhai món củ cải khô xác, cay nồng lưỡi, rồi dành hết thời gian còn lại của buổi sáng đuổi theo con dê quanh chuồng, trong quá trình đó đã bị dính một vết bầm tím ở mạng sườn cộng thêm một phát cắn vào đùi, và cuối cùng, với sự giúp đỡ của một thợ hàn nồi tình cờ đi ngang qua, gã cũng khuất phục được con dê đủ để bắt nó dừng lại, rồi, để lại bà mẹ bận rộn băng bó những vết thương con dê đã gây ra cho người thợ hàn nồi, gã lôi con dê lên đường tới chợ.
Thỉnh thoảng, con dê lại nảy ra ý định vùng lên dẫn đầu, vậy là Brevis sẽ bị lôi xềnh xệch theo sau, gót giày miết kin kít lên lớp bùn khô giữa lòng đường, cho tới khi con dê quyết định - đột ngột và không hề báo trước, chẳng bắt nguồn từ một lý do nào mà Brevis có thể lý giải được - dừng lại. Đến lúc đó, Brevis sẽ đứng thẳng dậy và quay lại với công việc lôi con vật đó đi.
Gã đã đến chỗ giao lộ nằm nơi bìa rừng, mồ hôi nhễ nhại, đói ngấu và bầm giập cả người, kéo theo con dê nhất quyết không chịu hợp tác. Có một người phụ nữ cao ráo đang đứng ở giao lộ. Một vòng tròn bạc yên vị trên cái vương miện trang sức màu đỏ thẫm bao quanh mái tóc đen của mụ ta, và bộ váy mụ mặc cũng đỏ thắm hệt như đôi môi mụ.
“Người ta gọi cậu là gì, hả cậu chàng?” mụ hỏi, bằng giọng giống y mật ong nâu thơm nức.
“Người ta gọi tôi là Brevis, thưa bà,” Brevis vừa nói vừa quan sát cái thứ lạ lùng phía sau lưng người phụ nữ. Đó là một cái xe ngựa nhỏ, nhưng chẳng có gì được thắng vào giữa càng xe. Gã thầm thắc mắc không hiểu cái xe đến được đó bằng cách nào.
“Brevis à,” mụ rủ rỉ. “Một cái tên mới hay ho làm sao. Cậu có muốn bán cho ta con dê của cậu không, cậu chàng Brevis?”
Brevis ngập ngừng. “Mẹ tôi bảo tôi mang con dê tới chợ,” gã nói, “và bán nó để lấy một con gà mái, mấy bắp ngô và một ít củ cải, rồi mang tiền thừa về cho bà ấy.”
“Mẹ cậu bảo cậu bán con dê bao nhiêu tiền?” người phụ nữ váy đỏ tươi hỏi.
“Không dưới một đồng florin,” gã đáp.
Mụ ta mỉm cười, rồi giơ cao một bàn tay. Thứ gì đó lấp lánh ánh vàng. “Này, ta sẽ đưa cho cậu đồng guinea(*) vàng này nhé,” mụ nói, “đủ để mua cả chuồng gà mái cùng cả trăm giạ củ cải đấy.”
(*) Guinea: đồng vàng cổ của Anh, có giá trị bằng 21 shilling.
Gã trai há hốc miệng.
“Chúng ta thỏa thuận thế nhé?”
Gã trai gật đầu, vung bàn tay đang nắm sợi dây thừng buộc cổ con dê đực. “Đây,” là tất cả những gì gã có thể thốt lên thành lời, những ảo tưởng về của cải vô hạn và số củ cải không đếm xuể quay cuồng trong đầu gã.
Người phụ nữ cầm sợi dây thừng. Rồi mụ ta chạm một ngón tay vào trán con dê, ở giữa hai con mắt màu vàng của nó, sau đó tháo sợi dây thừng ra.
Brevis chắc mẩm con dê thể nào cũng phóng vọt vào rừng hay lao xuôi theo một trong mấy con đường, nhưng con dê vẫn ở yên tại chỗ, như thể đã bị hóa đá tại đúng vị trí đó. Brevis chìa tay ra đòi đồng guinea vàng.
Đến lúc đó, người phụ nữ nhìn gã, quan sát gã từ hai đế bốt lấm lem bùn đất cho tới mái tóc cắt ngắn bết mồ hôi, và mụ ta mỉm cười lần nữa.
“Cậu biết đấy,” mụ nói, “ta cho rằng một cặp đôi tương xứng với nhau thì sẽ ấn tượng hơn nhiều so với chỉ có một bên đơn lẻ. Cậu có nghĩ thế không?”
Brevis không hiểu mụ đang nói đến chuyện gì và gã há miệng định nói với mụ như vậy. Nhưng ngay lúc đó, mụ vươn một ngón tay dài ra, chạm vào sống mũi gã, chỗ giữa hai con mắt, và gã nhận ra mình chẳng thể nói bất kỳ lời nào.
Mụ ta búng ngón tay, vậy là Brevis và con dê vội vã tới đứng vào giữa hai cái càng xe của mụ; Brevis ngạc nhiên nhận ra gã đang đứng trên bốn chân, và có vẻ như gã chẳng cao hơn bao nhiêu so với con vật bên cạnh.
Mụ phù thủy quất roi đen đét, và cỗ xe của mụ lóc xóc chạy xuôi con đường bùn đất, được kéo bởi một cặp đôi tương xứng gồm hai con dê trắng có sừng.
Người đàn ông bé nhỏ lông lá đã lấy cái quần, áo gi lê cùng áo khoác tả tơi của Tristran, rồi, để anh ở lại đó với một chiếc chăn phủ lên người, ông ta tiến vào ngôi làng nằm trong thung lũng giữa ba ngọn đồi thạch nam.
Tristran ngồi bên dưới tấm chăn, giữa buổi tối ấm áp, và đợi.
Ánh sáng lập lòe trong bụi táo gai đằng sau anh. Anh tưởng đó hẳn là sâu đóm hay đom đóm, nhưng lúc quan sát kỹ hơn, anh nhận thấy hóa ra đám sáng đó là những người tí hon đang sáng nhấp nháy và bay chuyền từ cành cây này sang cành cây khác.
Anh lịch sự ho lên. Hai chục con mắt tí hon chằm chằm nhìn xuống anh. Một vài sinh vật bé nhỏ ấy biến mất. Số khác thì bay lên cao, náu mình giữa bụi táo gai, trong khi một nhóm khá đông khác bạo gan hơn số còn lại, bay về phía anh. Họ bắt đầu phá lên cười, bằng chất giọng cao vút leng keng như tiếng chuông ngân, chỉ trỏ về phía Tristran, vào đôi bốt rách cùng chiếc chăn, vào mớ quần áo lót và chiếc mũ quả dưa. Tristran đỏ bừng mặt, kéo cái chăn bọc quanh người.
Một trong những cư dân tí hon cất tiếng hát:
Ái chà chà oái chài chài
Chàng trai trong một cái chăn,
Trên hành trình viển vông
Tìm kiếm một ngôi sao
Rõ rành rành
Đang băng khắp Xứ Tiên
Hãy lột chăn ra đi
Xem anh là người thế nào.
Và một người khác hát:
Tristran Thorn
Tristran Thorn
Không biết tại sao mình lại được sinh ra
Và lập một lời thề ngu ngốc
Quần sọc, áo khoác, sơ mi đều đã rách
Vậy nên anh tuyệt vọng ngồi đây
Chẳng mấy mà phải đối diện với sự khinh rẻ của tình yêu đích thực đời anh
Wistran
Bistran
Tristran
Thorn.
“Cút đi, đồ ngớ ngẩn,” Tristran nói, mặt đỏ phừng phừng, và vì trong tay chẳng sẵn thứ gì khác, anh bèn ném cái mũ quả dưa của mình về phía họ. Bởi vậy nên đến lúc người đàn ông bé nhỏ lông lá trở về từ làng Chốn Vui Chơi (mặc dù tại sao ngôi làng lại được gọi như thế thì nay chẳng ai nói được, vì đây là một nơi ảm đạm, tối tăm, và vốn đã như thế từ thời xa lắc xa lơ), ông ta thấy Tristran đang ngồi sầu não bên cạnh một bụi táo gai, quấn mình trong chăn, thương tiếc cho cái mũ đã mất.
“Họ nói xấu về tình yêu đích thực của tôi,” Tristran nói. “Tiểu thư Victoria Forester. Sao họ dám làm thế?”
“Chả có gì mà đám dân tí hon ấy không dám làm đâu,” bạn anh nói. “Và họ nói vô khối chuyện vớ vẩn. Nhưng họ cũng nói ối chuyện khôn ngoan đấy. Cậu cứ đánh liều, thích gì nghe nấy, không thích gì thì cứ mặc kệ họ.”
“Họ bảo chẳng mấy mà tôi sẽ đối diện với sự khinh rẻ của tình yêu đích thực đời mình.”
“Họ nói vậy thật hả?” Người đàn ông nhỏ bé lông lá đang trải một đống quần áo lên trên bãi cỏ. Dù chỉ được chiếu sáng bởi ánh trăng, Tristran vẫn có thể nhìn ra đống quần áo đang được ông ta trải ra đó chẳng có chút xíu điểm tương đồng nào với những món quần áo Tristran đã cởi ra ban nãy.
Ở làng Bức Tường, đàn ông mặc trang phục màu nâu, xám và đen; thậm chí đến cả cái khăn quàng cổ đỏ rực nhất đeo trên cổ người nông dân hồng hào nhất cũng chẳng mấy mà bị nắng mưa đánh bay màu để chuyển sang một màu sắc nhã nhặn hơn. Tristran nhìn thứ vải màu nâu đỏ, vàng nhạt và đỏ thẫm, nhìn vào những món quần áo trông giống với trang phục của nghệ sĩ biểu diễn dạo hay những thứ cất trong tủ trang phục hóa trang của người họ hàng Joan của anh, rồi hỏi, “Quần áo của tôi à?”
“Giờ chúng là quần áo của anh đấy,” người đàn ông bé nhỏ lông lá nói, giọng tự hào. “Tôi đã đổi lấy chúng đấy. Những thứ này có chất lượng tốt hơn - xem này, nó không dễ bị thủng hay rách đâu – và nó không hề tả tơi hay rách rưới, và đồng thời, anh sẽ không bị lộ rõ là một người lạ. Anh biết đấy, đây là những thứ người dân ở đây vẫn mặc.”
Tristran âm thầm tính đến khả năng cứ quấn mình trong chăn mà hoàn thành đoạn hành trình còn lại, giống như một thổ dân man dại trong một cuốn sách giáo khoa anh từng được học. Rồi sau đó, kèm theo một tiếng thở dài, anh tháo bốt, thả cho cái chăn rơi xuống mặt cỏ, và nhờ vào sự hướng dẫn của người đàn ông bé nhỏ lông lá (“Không, không, chàng trai ơi, cái này mặc trên cái đó cơ. Ôi chao, thời nay người ta dạy gì cho họ vậy hả?”), chẳng mấy chốc anh đã chỉnh tề trong bộ trang phục mới rất bảnh.
Đôi bốt mới vừa chân hơn gấp vạn lần so với đội cũ.
Chắc chắn đây là bộ trang phục mới rất bảnh. Mặc dù, như người ta thỉnh thoảng vẫn nói, cái áo không làm nên thầy tu hay lông chim đẹp chưa chắc con chim đã đẹp, nhưng đôi khi người ta vẫn có thể bổ sung chút gia vị vào trong công thức có sẵn. Và Tristran Thorn trong bộ trang phục màu đỏ thẫm và vàng nhạt không còn là anh chàng Tristran Thorn trong chiếc áo khoác và bộ lễ phục quen thuộc nữa. Bước chân anh nhuốm nét ngang tàng, cử chỉ toát lên vẻ thong dong mà trước đây anh chưa hề có. Cằm anh nghếch lên thay vì cúi gằm xuống, và đôi mắt lấp lánh thứ ánh sáng anh chưa từng sở hữu khi đội chiếc mũ quả dưa.
Đến lúc họ đánh chén xong bữa ăn được người đàn ông bé nhỏ lông lá mang về từ Chốn Vui Chơi - bao gồm cá hồi xông khói, một bát đậu tươi đã lột vỏ, mấy cái bánh nho khô kèm một chai bia nhỏ - Tristran đã không còn chút xíu cảm giác bất tiện nào với bộ quần áo mới.
“Nào,” người đàn ông bé nhỏ lông lá nói. “Anh đã cứu mạng tôi, anh bạn, lúc ở trong rừng ăn thịt, còn cha anh, ông ấy đã giúp đỡ tôi hồi xưa trước khi anh ra đời, và không đời nào có chuyện tôi mà lại là kẻ không biết đền ơn đáp nghĩa...”
Tristran bắt đầu lầm bầm gì đó, ý là người bạn đường của anh vốn đã làm quá đủ cho anh rồi, nhưng người đàn ông bé nhỏ lông lá phớt lờ anh và nói tiếp.”... vậy nên tôi đang nghĩ: anh biết ngôi sao của anh ở đâu, phải không?”
Tristran giơ tay chỉ, không chút lưỡng lự, về phía đường chân trời tối đen.
“Nào, nó xa bao nhiêu, đường tới chỗ ngôi sao của anh ấy? Anh có biết không?”
ngọn núi
Từ trước đến giờ, Tristran chưa từng nghĩ gì đến vấn đề đó, nhưng anh nhận thấy mình đang nói “Một người đàn ông có thể đi bộ, chỉ dừng lại để ngủ, trong lúc mặt trăng khi tròn khi khuyết phía trên đầu anh ta nửa tá lần, anh ta băng qua những ngọn núi nguy hiểm và những sa mạc thiêu đốt trước khi tiến được đến nơi ngôi sao đã rơi xuống,”
Lời lẽ nghe chẳng giống gì lối nói bình thường của anh và anh ngạc nhiên chớp chớp mắt.
“Đúng như tôi nghĩ,” người đàn ông lông lá bé nhỏ nói, tiến tới chỗ hành lý của ông ta rồi cúi rạp người lên trên, thành ra Tristran không xem được ông ta đã mở nó bằng cách nào. “Và có vẻ như anh không phải người duy nhất đang săn lùng nó. Anh còn nhớ những lời tôi đã nói lúc trước chứ?”
“Về chuyện đào một cái hố để chôn phân của tôi hả?”
“Không phải chuyện đó.”
“Về chuyện đừng nói cho ai biết tên thật hay mục đích của tôi?”
“Cũng không phải chuyện đó.
“Vậy là chuyện gì?”
“Bao nhiêu dặm thì tới Babylon?” người đàn ông nhắc lại câu nói cũ.
“Ồ. Phải. Câu đó.”
“Liệu tôi có thể đến đó trong thời gian một ngọn nến cháy tàn? Đến đó rồi quay trở lại. Chỉ có điều phải là nến sáp mới được. Hầu hết các loại nến khác sẽ không làm được thế đâu. Phải tìm mãi mới được cây này đấy.” Và ông ta lôi ra một mẩu nến to cỡ một quả táo dại, rồi đưa nó cho Tristran.
Tristran chẳng thể nhận ra điểm gì bất thường ở mẩu nến. Nó là loại nến sáp, không phải nến mỡ, đã được dùng nhiều lần và bị chảy sáp. Bấc đã cháy thành than đen sì.
“Tôi làm gì với nó đây?” anh hỏi.
“Đúng thời điểm thì làm gì cũng được,” người đàn ông bé nhỏ lông lá nói rồi lấy thêm thứ gì đó ra khỏi hành lý. “Cầm cả cái này nữa đi. Anh sẽ cần nó đấy.”
Nó sáng lấp lánh dưới ánh trăng. Tristran đón lấy nó; món quà của người đàn ông bé nhỏ có vẻ như là một sợi xích mỏng bằng bạc, mỗi đầu có một cái móc. Khi chạm tay vào, nó lạnh ngắt và trơn tuột.“Cái gì vậy?”
“Loại thường thôi. Hơi thở mèo và vảy cá, cùng ánh trăng trên hồ trữ nước, được những người lùn nấu chảy, tôi, rèn. Nếu muốn mang ngôi sao về cùng thì cậu sẽ cần đến nó đấy.”
“Thật à?”
“Ồ, phải.”
Tristran để mặc sợi xích rơi vào trong lòng bàn tay: nó giống y như thủy ngân vậy. “Tôi biết giữ nó ở đâu đây? Bộ quần áo chết tiệt này có cái túi nào đâu.”
“Cứ quấn nó lại quanh cổ tay cho tới khi nào cần dùng. Như thế đấy. Được rồi nhé. Nhưng anh có một cái túi ở áo suông đấy chứ, bên dưới kia kìa, thấy không?”
Tristran tìm thấy cái túi được may ở chỗ khuất. Phía bên trên túi có một cái khuyết áo nhỏ, và anh bèn cài vào khuyết áo bông hoa tuyết điểm, bông hoa thủy tinh cha anh đã đưa cho anh làm bùa khai vận khi anh rời Bức Tường. Anh vẫn thầm hỏi không biết trên thực tế, nó có giúp anh đổi vận hay không, và nếu có, thì đó là vận may hay vận rủi?
Tristran đứng dậy. Anh siết chặt cái túi da trong tay.
“Nào,” người đàn ông bé nhỏ lông lá nói. “Giờ thì việc anh cần làm là thế này nhé. Cầm cây nến trong bàn tay phải và giơ lên cao đi; tôi sẽ thắp nến hộ anh. Rồi sau đó, hãy đi tới chỗ ngôi sao của anh. Anh sẽ dùng sợi xích để đưa nó quay trở lại đây. Cây nến này chẳng còn dư lại nhiều bấc đâu, vậy nên tốt hơn hết anh hãy làm cho nhanh, bước cho dứt khoát - bất kỳ sự lãng phí thời gian nào cũng sẽ khiến anh hối hận đấy. Đi mau bước rảo, được chứ?”
“Tôi... tôi nghĩ là được,” Tristran nói.
Anh đứng đó, lòng nôn nao. Người đàn ông bé nhỏ lông lá lướt một bàn tay phía bên trên cây nến, ngọn lửa nến bùng lên một ánh sáng trên vàng dưới xanh. Gió đang thổi lồng lộng, nhưng ánh nến không hề chập chờn dù chỉ một chút xíu.
Tristran nắm cây nến trong tay và bắt đầu tiến về phía trước. Ánh nến soi tỏ vạn vật: mọi cái cây, mọi bụi rậm, mọi nhánh cỏ.
Bước thêm một bước, Tristran đã đứng ngay bên cạnh một cái hồ, và ánh nến sáng rực trên mặt nước; sau đó, anh bước xuyên qua những ngọn núi, qua những vách đá cheo leo heo hút, nơi ánh nến được phản chiếu trong đôi mắt của những sinh vật trên núi tuyết; và rồi anh băng qua những đám mây dù không thành dạng hẳn hoi nhưng vẫn dễ dàng nâng đỡ được trọng lượng của anh; rồi tay nắm chặt cây nến, anh đã ở dưới lòng đất, ánh nến lấp lóa phản chiếu lại ch?