← Quay lại trang sách

Chương 5 Trong chương này, cuộc chiến giành vương miện diễn ra quyết liệt

Dưới ánh sáng rạng rỡ buổi sớm mai, cô gái trẻ dường như đã bớt vẻ thiên tiên và giống con người hơn. Cô chẳng nói gì từ lúc Tristran thức dậy.

Anh lấy con dao cắt gọt một cành cây gãy thành một cái nạng hình chữ Y trong lúc cô gái ngồi bên dưới một cây sung dâu, chằm chằm nhìn anh và trừng mắt nhìn anh và quắc mắt nhìn anh từ chỗ ngồi của cô trên mặt đất. Anh tước vỏ một cành cây tươi xanh và quấn nó quanh cái chạc bên trên của cái nạng hình chữ Y.

Họ vẫn chưa ăn sáng, và Tristran đói đến cào cả ruột; giữa lúc anh đang làm việc, dạ dày anh sôi lên ùng ục. Ngôi sao không đả động gì đến chuyện đói hay không. Nói cho đúng thì, cô chẳng làm gì ngoài nhìn anh, ban đầu với vẻ khiển trách, rồi sau đó với sự căm ghét không hề che giấu.

Anh kéo căng vỏ cây, rồi thắt nút nó lại và lại kéo căng ra lần nữa. “Nói thật là chuyện này hoàn toàn không mang tính thù hằn cá nhân gì đâu,” anh nói, cả với cô gái lẫn với lùm cây. Dưới ánh mặt trời chiếu tỏa rạng rỡ, cô gần như chẳng hề sáng lên lấp lánh, chỉ trừ ở những chỗ mà bóng râm tối nhất chạm được vào cô.

Ngôi sao lướt một ngón trỏ xanh xao dọc theo sợi xích bạc nối giữa hai bọn họ, lần theo sợi dây vòng quanh cổ tay mảnh khảnh của cô, và không hề đáp lại.

“Tôi làm thế vì tình yêu,” anh tiếp tục. “Và cô thật sự là hy vọng duy nhất của tôi. Tên cô ấy - ý tôi là tên tình yêu của tôi ấy - là Victoria. Victoria Forester. Và cô ấy là cô gái xinh đẹp nhất, thông minh nhất, ngọt ngào nhất trên toàn thế giới rộng lớn này.”

Cô gái phá vỡ sự im lặng của mình bằng một tiếng khịt mũi chế giễu. “Và cái cô nàng ngọt ngào, thông minh này đã cử anh đến đây để hành hạ tôi?”cô hỏi.

“Chậc, không hẳn là thế. Cô biết đấy, cô ấy đã hứa sẽ trao cho tôi bất cứ điều gì tôi mong muốn – dù là được sánh vai cùng cô ấy trong lễ đường hay hôn lên đôi môi của cô ấy - nếu như tôi mang về cho cô ấy ngôi sao chúng tôi đã nhìn thấy rơi xuống vào tối hôm kia. Tôi cứ tưởng,” anh thú nhận, “rằng một ngôi sao băng thì có lẽ sẽ giống như một viên kim cương hay một tảng đá. Tôi hoàn toàn không ngờ đó lại là một cô gái.”

“Vậy thì, sau khi đã tìm thấy một cô gái rồi, chẳng lẽ anh không thể ra tay giúp đỡ cô ấy, hoặc để cho cô ấy yên à? Tại sao cứ phải lôi cô ấy vào trong sự ngu xuẩn của anh chứ?”

“Tình yêu,” anh giải thích.

Cô nhìn anh bằng đôi mắt xanh như bầu trời. “Tôi mong anh chết nghẹn vì yêu đi,” cô nói huỵch toẹt.

“Tôi sẽ không thế đâu,” Tristran nói, giọng tự tin và vui vẻ hơn nhiều so với cảm xúc thật. “Này. Thử cái này đi.” Anh đưa cái nạng cho cô rồi cúi người xuống, cố giúp cô đứng thẳng dậy. Hai bàn tay anh râm ran, không hẳn là không dễ chịu, ở những chỗ da anh chạm vào da cô. Cô ngồi trên mặt đất y như một cái gốc cây, chẳng buồn tỏ ra có chút cố gắng nào để đứng lên.

“Tôi đã bảo anh rồi,” cô nói, “tôi sẽ làm tất cả những gì có thể trong khả năng của mình để khiến mọi kế hoạch và phương kế của anh thất bại.” Cô đưa mắt nhìn quanh khoảnh rừng. “Vào ban ngày, cái thế giới này trông mới êm dịu làm sao. Và cũng tẻ ngắt làm sao.”

“Cứ dồn phần lớn trọng lượng lên người tôi, phần còn lại dồn lên cái nạng,” anh nói. “Thỉnh thoảng cô vẫn sẽ phải vận động đấy.” Anh giật mạnh sợi xích và ngôi sao buộc lòng phải bắt đầu đứng dậy, ban đầu dựa người vào Tristran, rồi sau đó, như thể ghê tởm vì sự gần gũi với anh, cô tựa lên cái nạng.

Ngay lúc đó, cô há hốc miệng hít một hơi thở mạnh, rồi ngã nhào xuống bãi cỏ, nhăn mặt nằm ở đó, miệng khẽ bật ra những âm thanh đau đớn. Tristran quỳ xuống cạnh cô. “Làm sao vậy?” anh hỏi.

Đôi mắt xanh lơ của cô sáng rực lên, nhưng chúng đang đẫm lệ. “Chân tôi. Tôi không đứng vững được. Chắc nó bị gãy thật rồi.” Làn da cô đã trở nên trắng như mây, và cô đang run rẩy.

“Tôi xin lỗi,” Tristran nói, giọng bất lực. “Tôi có thể làm cho cô một thanh nẹp. Tôi từng làm thế cho cừu rồi. Sẽ ổn cả thôi.” Anh siết bàn tay cô, rồi anh tới bên suối, nhúng cái khăn tay của mình xuống nước và đưa cho ngôi sao để cô lau trán.

Anh dùng dao tách thêm một ít cành cây gãy. Rồi anh cởi cái áo chẽn đang mặc ra, cởi thêm áo sơ mi, sau đó xé nó ra thành nhiều dải vải để buộc mấy cái que, chặt hết mức có thể, quanh cái chân bị thương của cô gái. Ngôi sao không hề phát ra âm thanh nào trong suốt quá trình này, tuy nhiên, khi anh kéo chặt nút thắt cuối cùng, hình như anh có nghe thấy cô khẽ rên lên một mình.

“Thật ra,” anh bảo cô, “đáng lẽ chúng ta nên đưa cô tới chỗ một bác sĩ tử tế. Tôi không phải bác sĩ phẫu thuật hay gì cả.”

“Không phải ư?” cô nói cộc lốc. “Anh làm tôi ngạc nhiên đấy.”

Anh để cô nghỉ ngơi một lát, dưới ánh mặt trời. Rồi sau đó, anh bảo, “Thử lại lần nữa đi nào,” và anh đỡ cô đứng dậy.

Họ tập tễnh rời khỏi trảng rừng, ngôi sao nặng nề tì lên cái nạng và lên cánh tay Tristran, cứ bước được một bước là lại co rúm người lại vì đau. Và cứ mỗi khi cô co rúm người hay bước chân chùn lại, Tristran lại cảm thấy áy náy và ngượng ngập, nhưng anh tự xoa dịu bản thân bằng cách nghĩ đến đôi mắt xám của Victoria Forester.

Họ men theo một con đường mòn xuyên qua rừng cây phỉ, trong lúc Tristran - vốn đã rút ra kết luận rằng theo lối hành xử đúng đắn thì giờ cần phải trò chuyện với ngôi sao - hỏi cô gái đã làm ngôi sao được bao lâu rồi, liệu cô có thích thú khi được làm ngôi sao hay không và liệu có phải các ngôi sao khác cũng đều là nữ cả, rồi kể cho cô biết anh vẫn luôn tưởng rằng các ngôi sao, giống như cô Cherry đã dạy, là những quả cầu khí đang cháy tỏa sáng hừng hực khắp mấy trăm dặm, giống y như mặt trời, chỉ có điều xa hơn nhiều. Trước hết thảy những câu hỏi cùng các bình luận này, cô gái đều không trả lời.

“Vậy sao cô lại rơi xuống?” anh hỏi. “Cô bị vấp vào cái gì đó à?”

Cô dừng bước, xoay người lại và nhìn anh chằm chằm, như thể cô đang nghiên cứu một thứ gì đó không mấy hay ho ở một khoảng cách xa rất xa.

“Tôi không vấp,” cuối cùng cô nói. “Tôi bị đánh trúng. Bởi cái này.” Cô thò tay vào trong váy, lôi ra một viên đá to màu vàng nhạt, đang treo lủng lẳng trên một sợi xích bạc quấn hai vòng. “Nó đã đập vào tôi, làm tôi thâm tím cả sườn và hất tôi ngã khỏi bầu trời. Và giờ thì đi đâu tôi cũng buộc phải mang nó theo cùng.”

“Tại sao?”

Có vẻ như cô đã định trả lời, nhưng rồi cô lại lắc đầu, hai bờ môi khép lại, và cô không nói năng gì. Một dòng suối nhỏ chảy róc rách, nước vỗ bờ phía bên phải họ, theo sát bước chân họ. Vầng mặt trời giữa trưa lên quá đầu, và Tristran càng lúc càng thấy đói. Anh lấy cái đầu mẩu bánh mì khô khốc ra khỏi túi, nhúng nó vào trong suối cho ẩm, rồi xẻ nó ra thành hai phần đều nhau.

Ngôi sao săm soi miếng bánh mì ướt với vẻ ghét bỏ, không chịu đưa nó lên miệng.

“Cô sẽ đói đấy,” Tristran cảnh báo.

Cô không nói gì, chỉ nâng cằm lên cao hơn chút nữa.

Họ tiếp tục đi xuyên qua vùng rừng, tốc độ chậm rì rì. Họ chật vật leo lên con đường mòn trên sườn một quả đồi, đặt chân lên trên những cành lá rơi gãy, và giờ quả đồi đã trở nên dốc đến độ lúc nào cũng chỉ chực khiến cho ngôi sao đang vấp dúi vấp dụi cùng với kẻ bắt giữ cô ngã lăn xuống dưới chân đồi. “Chẳng lẽ không có lối nào dễ đi hơn à?” cuối cùng ngôi sao hỏi. “Kiểu như một con đường tử tế ấy, hay một khoảng rừng thưa bằng phẳng chẳng hạn?"

Và ngay khi câu hỏi được nêu lên, Tristran đã biết câu trả lời. “Có một con đường rộng cách đây nửa dặm ở hướng kia,” anh vừa nói vừa chỉ cho cô thấy, “và một bãi đất trống phía kia, đằng sau cái bụi cây kia kìa,” anh vừa nói vừa quay người ra dấu về một hướng khác.

“Anh biết vậy à?”

“Phải. Không. Chậc, chỉ khi nào có người hỏi thì tôi mới biết.”

“Chúng ta tới chỗ bãi đất trống đi,” cô nói, vậy là họ cố hết sức len qua bụi cây. Mặc dù họ phải mất đến hơn nửa tiếng đồng hồ mới tới được chỗ bãi đất trống, nhưng khi họ đến được đó, mặt đất bằng phẳng chẳng kém gì một sân chơi. Khoảng không gian này có vẻ như đã được phát quang để phục vụ cho một mục đích nào đó, nhưng mục đích gì thì Tristran không thể hình dung ra được.

Ở chính giữa trảng đất, trên bãi cỏ cách chỗ họ một đoạn tương đối xa, một cái vương miện vàng trang trí cầu kỳ đang sáng lên lấp lánh dưới ánh mặt trời buổi chiều. Cái vương miện được đính rải rác những viên đá đỏ và xanh dương: hồng ngọc và ngọc bích, Tristran nghĩ. Anh đã dợm bước tính tới chỗ cái vương miện thì ngôi sao chạm vào cánh tay anh, bảo “Gượm đã. Anh có nghe thấy tiếng trống không?”

Anh nhận ra mình có nghe thấy: một tiếng trống trầm thấp rộn ràng, vang đến từ bốn phương tám hướng xung quanh họ, lúc gần lúc xa, vang vọng qua khắp rặng đồi. Và rồi, một tiếng đâm sầm ầm ĩ vang lên từ phía hàng cây ở tít phía bên kia khoảng rừng thưa, sau đó là một tiếng thét chói lói đến câm lặng.

Một con ngựa trắng khổng lồ tiến vào trong trảng đất, hai bên hông rách tướp, tứa máu. Nó lao vào chính giữa khoảng đất trống, và rồi nó xoay người, cúi đầu xuống, đối mặt với kẻ truy đuổi nó - kẻ truy đuổi này đã nhảy vào trong bãi đất trống kèm theo một tiếng gầm khiến Tristran sởn cả gai ốc. Nó là một con sư tử, nhưng chẳng mấy giống với con sư tử dơ dáy, mất răng, chảy dãi lòng thòng mà Tristran từng nhìn thấy tại một hội chợ ở làng bên. Con sư tử này to cao lực lưỡng, nhuộm màu cát dưới ánh chiều tà. Nó chạy vào trong bãi đất trống, rồi đến đó thì dừng lại, gầm gừ với con ngựa trắng.

Con ngựa có vẻ hoảng loạn. Cái bờm của nó bết bát, vừa dính mồ hôi vừa dính máu, và mắt nó vằn lên hoang dại. Tristran cũng nhận ra nó có một cái sừng dài bằng ngà nhô ra ngay chính giữa trán. Nó giận dữ đứng dậy trên hai chân sau, khụt khịt và hí vang, rồi một cái móng ngựa sắc nhọn, không đóng móng sắt đáp xuống vai con sư tử, khiến con sư tử rú lên như một con mèo khổng lồ phải bỏng và nhảy bật về phía sau. Rồi, vẫn giữ một khoảng cách nhất định, con sư tử chạy vòng vòng quanh con kỳ lân cảnh giác kia, đôi mắt vàng của nó dán chặt không rời cái sừng nhọn hoắt vẫn luôn không ngừng chĩa về phía nó.

“Ngăn chúng lại đi,” ngôi sao thì thầm. “Chúng sẽ giết chết nhau mất.”

Con sư tử gầm gừ với con kỳ lân. Thoạt tiên, đó chỉ là một tiếng gầm gừ khe khẽ, như tiếng sấm xa xa, nhưng rồi cuối cùng, nó đã trở thành một tiếng gầm lớn làm rung chuyển cây cối cũng như những tảng đá trong thung lũng và cả bầu trời. Rồi sư tử phóng vọt lên, còn kỳ lân chúi đầu lao tới trước, và trảng đất chìm ngập trong ánh vàng, bạc và đỏ, vì sư tử đã nằm lên lưng kỳ lân, bập sâu móng vuốt vào hai bên sườn kỳ lân, miệng cắn vào cổ kỳ lân, và con kỳ lân rên rỉ, chụm bốn vó nhảy lên định lật thân mình lại hòng hất con mèo khổng lồ kia ra, cố vươn móng chĩa sừng những mong chạm đến được kẻ đang hành hạ nó nhưng chỉ hoài công vô ích.

“Xin hãy làm gì đó đi. Con sư tử sẽ giết cậu ấy mất,” cô gái khẩn thiết nài nỉ.

Tristran định giải thích với cô rằng nếu anh mà mon men đến gần hai con thú đang trong cơn cuồng loạn kia thì khả năng duy nhất anh có thể trông chờ chính là sẽ bị xiên, bị đá, bị cào và bị ăn thịt; và anh còn định giải thích thêm rằng kể cả khi anh có bằng cách nào đó mà vẫn còn sống sót sau khi tiếp cận chúng thì anh cũng vô phương xoay xở thôi, bởi vì anh thậm chí chẳng có lấy cái xô nước vốn là phương pháp truyền thống ở làng Bức Tường để dập tắt những cuộc ẩu đả giữa bọn thú.

Nhưng đến khi tất cả những suy nghĩ này trôi qua đầu anh, Tristran đã đang đứng ở chính giữa bãi đất trống, cách hai con thú một tầm tay với. Mùi của con sư tử bốc lên nồng nặc, sặc mùi thú, vô cùng đáng sợ, và Tristran chỉ đứng cách một đoạn ngắn đủ để nhìn thấy rõ vẻ khẩn cầu nhuốm trong đôi mắt đen của con kỳ lân...

Sư Tử và Kỳ Lân đang đấu nhau để giành vương miện, Tristran thầm nhủ, nhớ lại một bài đồng dao lâu đời.

Sư Tử đập Kỳ Lân vòng quanh thị trấn.

Y đập một lần

Y đập hai lần

Dốc hết sức lực

Y đập ba lần cho chắc

Sư Tử giữ vững quyền năng của mình

Và cùng lúc đó, anh nhặt cái vương miện từ trên bãi cỏ; nó nặng trịch và mềm mại như sợi dây dọi. Anh tiến về phía hai con vật, nói chuyện với con sư tử theo đúng kiểu anh vẫn dùng để nói với đám cừu đực nóng nảy hay đám cừu cái khích động trên đồng cỏ của cha anh, bảo nó, “Đây này, nào... Bình tĩnh đi... Vương miện của mày đây...”

Con sư tử lắc lắc con kỳ lân giữa hai hàm răng của mình y như một con mèo đang ngoạm một cái khăn quàng len, và nó phóng ánh mắt tràn ngập ý dò hỏi về phía Tristran.

“Này,” Tristran gọi. Bờm con sư tử vương các cụm hoa và lá cây. Anh chìa cái vương miện nặng trịch về phía con thú khổng lồ. “Mày thắng rồi. Tha cho con kỳ lân đi.” Và anh tiến lại gần hơn một bước nữa. Rồi anh vươn cả hai bàn tay run rẩy ra, đặt cái vương miện lên trên đầu con sư tử.

Con sư tử trèo xuống khỏi thân hình sõng soài của con kỳ lân và lẳng lặng thả bước vòng quanh bãi đất trống, đầu ngẩng cao. Nó tiến đến bìa rừng, dừng lại ở đó vài phút để vươn cái lưỡi đỏ rực ra liếm láp vết thương, sau đó kêu lên rừ rừ như tiếng động đất, rồi con sư tử lẹ làng lẩn vào trong rừng.

Ngôi sao tập tễnh bước đến chỗ con kỳ lân bị thương và cúi rạp người xuống sát bãi cỏ, trong một tư thế kỳ khôi, cái chân gãy của cô choãi sang một bên. Cô vuốt đầu con kỳ lân. “Con vật đáng thương quá, tội nghiệp quá,” cô nói. Con kỳ lân mở đôi mắt đen nhìn cô chăm chăm, rồi nó tựa đầu lên lòng cô và lại nhắm mắt vào.

Tối đó, Tristran ăn nốt mẩu bánh cứng quèo làm bữa tối, còn ngôi sao không ăn gì. Cô khăng khăng đòi họ phải canh bên cạnh con kỳ lân, và Tristran không nỡ từ chối cô.

Bãi đất trống giờ đã chìm trong bóng tối. Bầu trời phía trên đầu họ chi chít nghìn vì sao nhấp nháy. Cô gái ngôi sao cũng rực sáng, như thể cô đã được dải Ngân Hà quét qua người; trong lúc con kỳ lân lờ mờ tỏa sáng trong bóng tối, y như mặt trăng khi được nhìn xuyên qua những đám mây. Tristran nằm cạnh thân hình to lớn của con kỳ lân, cảm nhận rõ hơi ấm của nó tỏa vào trong đêm tối. Ngôi sao nằm ở phía bên kia con vật. Nghe thì có vẻ như cô đang lầm rầm hát cho con kỳ lân nghe; Tristran chỉ mong sao anh có thể nghe giọng cô thật rõ. Những mảnh giai điệu anh loáng thoáng nghe ra được vừa lạ lẫm vừa khơi gợi trí tò mò, nhưng cô hát khẽ khàng quá mức, khiến cho anh gần như chẳng thể nghe được gì.

Ngón tay anh chạm vào sợi xích buộc hai người họ với nhau: nó lạnh như tuyết, và mảnh như ánh trăng trên hồ trữ nước hay tia sáng lấp lánh trên những vảy bạc của cá hồi khi nó vươn lên tìm thức ăn giữa lúc trời nhá nhem.

Và chẳng mấy chốc, anh chìm vào giấc ngủ.

Nữ hoàng phù thủy đánh xe men theo một con đường rừng, quất roi đen đét lên sườn hai con dê đực trắng giống nhau y đúc mỗi khi chúng tỏ ra xuống sức. Từ gần nửa dặm trước, mụ ta đã quan sát thấy ngọn lửa bếp nhỏ bập bùng cháy bên cạnh con đường, và nhìn vào màu lửa, mụ đã biết đó chính là ngọn lửa được một kẻ đồng loại của mụ đốt lên, vì lửa phù thủy khi cháy sẽ có các màu sắc rất khác thường. Vậy nên mụ ghì cương dừng hai con dê lại khi họ đến gần cái xe moóc phong cách du mục sơn màu rực rỡ cùng ngọn bếp lửa đang cháy và bà già tóc xám ngồi cạnh bếp lửa, quay mặt về phía cái xiên bắc trên ngọn lửa để nướng một con thỏ rừng. Mỡ nhỏ xuống từ phần ruột hở hoác của con thỏ, rít lên xèo xèo khi rơi xuống lửa, tỏa ra một thứ mùi trộn lẫn giữa thịt đang nấu và mùi khói củi.

Một con chim sặc sỡ đậu bên ghế xà ích phía trước chiếc xe moóc, trên một cái sào gỗ. Nó xù lông và gào lên hoảng hốt khi nhìn thấy nữ hoàng phù thủy, nhưng nó đã bị xích vào cái sào nên chẳng thể bỏ đi đâu được.

“Trước khi bà nói bất cứ điều gì,” người phụ nữ tóc xám nói, “tôi phải cho bà biết rằng tôi chỉ là một bà cụ bán hoa nghèo, một mụ già vô hại chẳng bao giờ gây chuyện với bất cứ ai, và khi nhìn thấy một quý bà cao quý và đáng sợ như bà, lòng tôi tràn ngập nỗi sợ hãi và kinh hoảng.

“Ta sẽ không làm hại bà” nữ hoàng phù thủy nói.

Bà già hom hem nheo mắt lại, đôi mắt ti hí nhìn người phụ nữ váy đỏ khắp từ trên xuống dưới.

“Đấy là bà nói thế,” bà ta nói. “Nhưng làm sao tôi biết đó có đúng là sự thật hay không, khi tôi đây là một bà già hiền lành yếu đuối, chỉ biết run rẩy khắp châu thân? Biết đâu bà lại đang rắp tâm trộm của tôi giữa đêm, hay thậm chí còn tệ hơn ấy chứ.” Và bà ta chọc một cái que khơi vào ngọn lửa, khiến nó bùng lên. Mùi thịt chín lẩn vẩn trong bầu không khí tĩnh lặng buổi đêm.

“Ta xin thề,” người phụ nữ mặc váy đỏ nói, “rằng, dựa trên các quy tắc và câu thúc của Hội Chị Em mà ta và bà là các thành viên, dựa trên uy lực của Lilim, dựa trên đôi môi cùng bầu ngực và thân thể thanh xuân của ta, ta thật lòng không hề định hãm hại bà, và sẽ đối xử với bà như với chính vị khách của mình.”

“Với tôi thế là đủ rồi, bà bạn thân mến,” mụ già nói, khuôn mặt dãn ra thành một nụ cười. “Đến đây ngồi đi nào. Chỉ bằng hai lần cừu vẫy đuôi nữa là bữa tối sẽ xong xuôi thôi.”

“Rất vui lòng,” người phụ nữ mặc váy đỏ nói.

Hai con dê khụt khịt nhóp nhép nhai cỏ và lá bên cạnh cỗ xe, vừa ăn vừa nhìn mấy con la kéo xe moóc với vẻ chán ghét. “Dê tốt đấy,” bà già nói. Nữ hoàng phù thủy nghiêng đầu mỉm cười khiêm tốn. Ánh lửa bếp phản chiếu con rắn nhỏ màu đỏ quấn quanh cổ tay mụ ta như một chiếc vòng.

Mụ già tiếp tục, “Nào, bà ơi, đôi mắt kèm nhèm của tôi chẳng còn giữ lại chút gì của ngày xưa nữa rồi, nhưng liệu tôi có đúng không khi đoán rằng một trong hai anh bạn tốt mã kia đã bắt đầu những bước đi đầu đời trên hai chân chứ không phải bốn?”

“Đúng là có những chuyện kiểu như thế đấy,” nữ hoàng phù thủy thừa nhận. “Như con chim sặc sỡ này của bà chẳng hạn.”

“Con chim đó đã đem cho đi mất một trong những món hàng quý giá của tôi, đem nó cho một kẻ chẳng ra gì, gần hai mươi năm về trước. Và chẳng cần phải nhắc đến những rắc rối mà sau đó cô ta đã mang lại cho tôi. Vậy nên, suốt thời gian này, cô ta vẫn đội lốt một con chim, trừ phi có việc gì cần, hay khi quầy hoa cần người coi sóc; và nếu tôi mà tìm được ở đâu một người hầu tử tế, khỏe mạnh, không ngại làm việc vất vả một chút thì đến lúc đó, này nhé, cô ta sẽ vĩnh viễn làm một con chim.”

Con chim buồn bã kêu líu ríu trên cây sào.

“Người ta gọi tôi là Phu nhân Semele,” bà già nói.

Hồi mụ còn nhỏ, người ta vẫn gọi mụ là Sal Nước Ao Tù đấy thôi, nữ hoàng phù thủy nghĩ, nhưng mụ ta không nói ra thành lời. “Bà có thể gọi ta là Morwanneg” thay vào đó, mụ phù thủy nói. Cái tên này, mụ ta nhớ lại, gần như là một trò đùa (vì Morwanneg có nghĩa là sóng biển, còn tên thật của mụ ta từ lâu đã chìm sâu và biến mất tăm dưới đại dương lạnh lẽo).

Phu nhân Semele đứng dậy đi vào bên trong chiếc xe moóc, sau đó trở ra với hai chiếc bát gỗ sơn màu, hai con dao cán gỗ, một bình nhỏ đựng thảo mộc khô đã được tán thành một thứ bột màu xanh lục. “Tôi đã định ăn bốc trên một cái đĩa làm bằng lá tươi,” bà ta nói, chìa một cái bát ra cho người phụ nữ váy đỏ. Cái bát sơn hình một bông hoa hướng dương bị phủ dưới một lớp bụi. “Nhưng tôi lại nghĩ, ái chà, mấy khi tôi có một vị khách tử tế đâu chứ? Vậy nên, không phải thứ tốt nhất thì nhất định là không được rồi. Đầu hay đuôi nào?”

“Tùy bà chọn,” vị khách của bà ta nói.

“Vậy thì bà lấy phần đầu nhé, với bộ não và đôi mắt ngon lành, cùng đôi tai sần sật của nó. Còn tôi sẽ lấy phần mông, chẳng có gì để gặm ngoài món thịt nhạt nhẽo.” Bà ta vừa nói vừa nhấc cái xiên ra khỏi đống lửa, rồi, dùng cả hai con dao bằng một tốc độ nhanh đến mức tưởng như lưỡi dao chỉ là một vệt sáng, bà ta xẻ xác con vật ra, lọc hết thịt khỏi xương, chia nó thành hai phần đều nhau rồi cho vào hai cái bát.

Bà ta chuyền cái bình thảo mộc sang cho vị khách. “Không có muối đâu, bà thân mến ạ, nhưng nếu bà rắc cái này lên trên thì sẽ thành mánh hay đấy. Một ít húng quế, một ít cỏ xạ hương núi - công thức đặc chế của tôi đấy.”

Nữ hoàng phù thủy nhận phần thỏ nướng của mình cùng với một con dao, rồi rắc một ít thảo mộc lên trên món ăn. Mụ chọc mũi dao xuống xiên một miếng rồi ăn ngon lành, trong lúc chủ nhân của bữa ăn gảy gảy khẩu phần của bà ta, rồi phù phù thổi đĩa thức ăn với vẻ kén chọn, làn hơi bay lên từ món thịt nâu giòn.

“Thế nào?” bà già hỏi.

“Ngon tuyệt cú mèo,” vị khách của bà ta thực lòng đáp.

“Ngon thế là nhờ thảo mộc đấy,” bà già giải thích.

“Ta có thể nếm thấy vị húng quế và cỏ xạ hương” vị khách nói, “nhưng còn có một vị khác nữa mà ta khó lòng xác định được là gì.”

“À,” Phu nhân Semele nói, và bà ta nhấm nháp một mẩu thịt.

“Chắc chắn đó là một vị rất không phổ biến.”

“Đúng vậy đấy. Nó là một loại thảo mộc chỉ mọc ở Garamond, trên một hòn đảo nằm giữa một cái hồ rộng. Nó thích hợp nhất với mọi loại thịt cá, và nó nhắc tôi nhớ đến hương vị của một chút lá thì là, với thoang thoảng vị nhục đậu khấu. Hoa của nó có sắc cam quyến rũ nhất trần đời. Nó có lợi cho bệnh đầy hơi và sốt rét lắm đấy, thêm nữa, nó còn có tác dụng như một thứ thuốc ngủ liều nhẹ, với một đặc tính lạ lùng khiến cho người nếm phải nó sẽ chỉ nói sự thật trong vài tiếng đồng hồ liền.”

Người phụ nữ váy đỏ đánh rơi cái bát gỗ lên nền đất. “Cỏ lú?” mụ ta hỏi. “Bà dám cho ta ăn cỏ lú.”

“Có vẻ là thế đấy, bà thân mến ạ,” và bà già cười cùng cục rồi vui vẻ huýt lên. “Nào, giờ thì nói tôi nghe xem nào, Phu nhân Morwanneg, nếu như đó đúng là tên bà, bà định đi đâu trên cỗ xe đẹp đẽ kia? Và sao bà lại giống với một người tôi từng quen biết thế chứ nhỉ...? Mà Phu nhân Semele thì chẳng bao giờ quên ai hay cái gì hết đâu nhé.”

“Ta đang trên đường tìm một ngôi sao” nữ hoàng phù thủy nói, “đã rơi xuống khu rừng rộng lớn ở phía bên kia núi Bụng. Và khi tìm thấy cô ta, ta sẽ lấy con dao xịn của mình cắt lấy quả tim cô ta giữa lúc cô ta vẫn còn đang sống, lúc trái tim cô ta vẫn thuộc về cô ta. Vì trái tim của một ngôi sao sống chính là thứ thuốc thần diệu chống lại mọi cạm bẫy của tuổi tác và thời gian. Các cô em gái của ta đang chờ ta quay trở về.”

Phu nhân Semele huýt lên và ôm lấy người, hết đu ra phía trước lại lắc về phía sau, những ngón tay xương xẩu bấu vào hai bên sườn. “Trái tim của một ngôi sao hả? Hô hô! Hô hô! Nó sẽ thành một món giá trị lắm cho xem. Ta sẽ nhấm nháp nó đủ cho tuổi thanh xuân của ta quay trở lại, mái tóc ta sẽ chuyển từ màu xám sang màu vàng óng ả, và hai bầu vú nhão nhệu chảy xệ của ta sẽ trở nên vừa cao vừa rắn chắc. Rồi ta sẽ mang tất phần còn lại của trái tim tới Phiên Chợ Lớn ở Bức Tường. Hô hô!”

“Mụ sẽ không làm thế đâu,” vị khách của bà ta nói, rất khẽ khàng.

“Không ư? Bà là khách của tôi, bà thân mến ơi. Bà đã lập lời thề rồi. Bà đã nếm thức ăn của tôi. Theo luật của Hội Chị Em chúng ta, bà không được phép làm bất cứ điều gì hại đến tôi.”

“Ồ, ta có thể làm ra rất nhiều chuyện để hại mụ đấy, Sal Nước Ao Tù ạ, nhưng ta sẽ chỉ nói rằng người nào đã ăn cỏ lú thì mấy tiếng đồng hồ sau đó sẽ chẳng nói bất cứ điều gì ngoài sự thật; và thêm một điều nữa...”

Ánh sét xa xăm chớp nháy trong lời lẽ của mụ ta lúc mụ cất tiếng, và khu rừng nín lặng, như thế mọi chiếc lá, mọi cái cây đều đang chăm chú lắng nghe điều mụ nói.

“Ta nói điều này đây: mụ đã đánh cắp thứ thông tin mụ không bỏ công tìm hiểu, nhưng nó sẽ không mang lại ích lợi gì cho mụ. Vì mụ sẽ không thể nhìn thấy ngôi sao, không thể nhận ra nó, không thể chạm vào nó, nhấm nháp nó, tìm thấy nó, giết chết nó. Thậm chí cho dù có kẻ cắt lấy trái tim của nó mà dâng cho mụ, mụ cũng sẽ không biết điều đó, vĩnh viễn không biết mụ đang nắm giữ gì trong tay. Ta nói thế đấy. Đây là những lời của ta, và chúng đều là sự thật. Và hãy nghe thêm điều này nữa: ta đã thề, dựa trên quy ước của Hội Chị Em, rằng ta sẽ không làm hại mụ. Nếu không phải đã thề như thế, ta sẽ biến mụ thành một con bọ cánh cứng đen, và ta sẽ vặt sạch chân mụ, từng cái từng cái một, rồi để mặc mụ đó làm mồi cho chim chóc, vì cái tội đã sỉ nhục ta như thế này.”

Phu nhân Semele trợn tròn mắt hoảng loạn, và mụ nhìn không chớp mắt qua ngọn lửa vào vị khách của mình. “Bà là ai?” bà ta hỏi.

“Trước đây thời mụ biết đến ta,” người phụ nữ váy đỏ nói, “ta đã cùng các em của mình cai trị Carnadine, trước khi nó biến mất.”

“Thật sao? Nhưng bà đã chết rồi mà, chết lâu lắm rồi.”

“Người ta chẳng bảo Lilim đã chết từ lâu rồi đấy thôi, nhưng thiên hạ lúc nào cũng chỉ toàn dối trá. Con sóc vẫn chưa tìm ra hạt sồi sẽ mọc thành cây sồi sau này sẽ được đốn xuống để làm nôi cho đứa trẻ lớn lên sẽ giết chết ta đâu.”

Những tia sáng màu bạc lấp lánh lập lòe trong ánh lửa lúc mụ nói.

“Vậy ra chính là bà. Và bà đã lấy lại được tuổi thanh xuân của mình.” Phu nhân Semele thở dài. “Còn giờ thì tôi cũng sắp được trẻ lại rồi.”

Đến lúc đó, người phụ nữ mặc váy đỏ bèn đứng dậy, bỏ cái bát đựng phần thịt thỏ rừng của mụ ta vào trong đống lửa. “Mụ sẽ chẳng đời nào được thế đâu,” mụ ta nói. “Mụ không nghe thấy ta nói gì à? Ngay sau khi ta rời khỏi đây, mụ sẽ vĩnh viễn quên mất là đã từng gặp ta. Mụ sẽ quên sạch chuyện này, thậm chí kể cả lời nguyền của ta, dẫu vậy cái thông tin mụ thu được sẽ chọc tức mụ, khiến mụ bực bội, giống y như cơn ngứa ở cái chân đã bị cắt cụt từ lâu. Và có khi trong tương lai, mụ sẽ biết đối xử với khách một cách hậu hĩnh và tôn trọng hơn.”

Đúng lúc đó, cái bát gỗ cháy bùng lên thành một ngọn lửa lớn làm sém cả đám lá sồi ở tít phía trên đầu họ. Phu nhân Semele lấy cái que hất cái bát đã đen sì ra khỏi đống lửa, rồi giậm chân lên cái bát giữa đám cỏ mọc cao, hòng dập lửa. “Mình bị cái gì ám mà lại thả bát vào trong đống lửa thế cơ chứ?” bà ta la to. “Và xem này, một trong những con dao đẹp đẽ của mình, cháy rụi hết cả và hỏng hẳn mất rồi. Không biết mình đã nghĩ gì cơ chứ?”

Không có câu trả lời nào đáp lại. Từ xa xa trên đường vọng lại âm thanh lộp độp đều đều có lẽ là tiếng móng guốc của những con dê đang lao vào bóng đêm. Phu nhân Semele lắc đầu, như thể muốn giũ sạch bụi bặm và mạng nhện trong đầu mình. “Tao đang già mất rồi,” bà ta nói với con chim sặc sỡ đang đậu trên cái sào cạnh ghế xà ích, cũng là người chứng kiến tất cả và chẳng quên một mảy may gì. “Đang già mất rồi. Và chẳng làm được gì để thay đổi chuyện đó hết.”

Con chim bồn chồn dịch chuyển trên cây sào.

Một con sóc đỏ, sau thoáng ngập ngừng, sục sạo trong ánh lửa. Nó nhặt một hạt sồi lên, giữ nó một hồi trong hai chân trước giống như hai bàn tay, như thể nó đang cầu nguyện. Rồi nó chạy biến đi - để chôn hạt sồi, và để quên nó đi.

Scaithe’s Ebb là một thị trấn cảng nhỏ mọc trên nền đá hoa cương, một thị trấn của những thợ làm nến, thợ mộc và thợ may buồm; thị trấn của những thủy thủ già què cụt hoặc tự mở quán rượu hoặc dành phần lớn thời gian la cà trong các quán rượu, phần tóc còn lại của họ vẫn được tết thành những bím đuôi sam dính hắc ín, mặc dù phần râu mọc lởm chởm trên cằm từ lâu đã bị bụi nhuộm hẳn thành màu trắng.

Ở Scaithe’s Ebb không có gái bán hoa, hoặc không có ai tự xem mình là gái bán hoa, mặc dù lúc nào cũng có sẵn không ít phụ nữ thuận lòng nhìn nhận bản thân, nếu bắt buộc phải thế, là gái có nhiều chồng, với một ông chồng trên con tàu này cứ sáu tháng lại về đây một lần, ông chồng khác trên con tàu kia thì cứ chín tháng lại về cảng ở tầm một tháng.

Các phép tính liên quan đến chuyện này luôn làm vui lòng phần lớn dân làng; nếu có khi nào đó việc tính toán thất bại và một ông trở về nhà với vợ đúng khi một trong những ông chồng khác của bà này vẫn đang chiếm chỗ, thế thì này nhé, sẽ có đánh nhau thôi - và các quán rượu sẽ là nơi để an ủi kẻ thua cuộc. Các thủy thủ chẳng thấy sự sắp xếp này có gì không phải, vì họ biết rõ rằng theo cách này thì có ít nhất một người, đến cuối cùng, sẽ để tâm đến nếu họ không trở về từ biển cả, và sẽ khóc thương cho sự ra đi của họ; còn các bà vợ thì tự thấy vừa lòng khi biết chắc chắn rằng các ông chồng của họ cũng chẳng chung thủy gì cho cam, vì nói đến tình cảm của một người đàn ông thì chẳng gì có thể đánh bại được với biển cả, bởi biển vừa là người mẹ, vừa là người tình, và khi hồi chuông đã điểm, nàng cũng sẽ rửa sạch thi thể của anh ta, đánh giạt nó vào san hô, ngà ngọc.

Vậy là chính Scaithe's Ebb là nơi hoàng tử Primus xứ Stormhold đã đến vào một tối kia, toàn thân khoác màu đen, với bộ râu rậm và nặng nề ngang với một trong những tổ cò vẫn ngự trên các ống khói thị trấn. Hắn đến trên một cỗ xe do bốn con ngựa đen kéo và thuê một phòng trong Chỗ Nghỉ Của Thủy Thủ trên phố Crook.

Những nhu cầu và đòi hỏi của hắn đều bị cho là kỳ dị, vì hắn mang theo vào phòng mình các đồ ăn thức uống hắn đã tự chuẩn bị, cất chúng vào trong một cái rương gỗ khóa kín chỉ được mở ra khi hắn muốn lấy cho chính mình một quả táo hay một miếng pho mát hoặc một cốc rượu hạt tiêu. Phòng của hắn là căn phòng cao nhất ở Chỗ Nghỉ Của Thủy Thủ, một tòa nhà vừa nhỏ vừa cao, được xây trên một vỉa đá để thuận tiện cho cánh buôn lậu.

Hắn đã mua chuộc một đám nhóc lang thang ở nơi này, cốt để chúng báo cáo cho hắn ngay khi chúng tăm tia thấy bất kỳ kẻ lạ nào tiến vào thành phố, hoặc bằng đường bộ hoặc bằng đường biển; đặc biệt, chúng phải để ý mà tìm một gã tóc đen cao ngòng, lỏng khỏng, mặt mỏng, xương xẩu và đôi mắt vô hồn.

“Chắc chắn Primus học được cách cảnh giác rồi,” Secundus nói với năm người em đã chết của mình.

“Chậc, anh biết người ta nói gì rồi đấy,” Quintus thì thầm bằng giọng điệu đăm chiêu của người chết mà vào ngày hôm đó, nghe tựa như tiếng những con sóng xa xăm vỗ lên bờ biển đầy đá cuội, “chỉ người nào chán sống thì mới chán ngoái lại phía sau đề phòng Septimus.”

Vào buổi sáng, Primus tán chuyện với các thuyền trưởng có tàu ở Scaithe’s Ebb, hào phóng đãi rượu họ, nhưng không bao giờ ăn hay uống cùng họ. Buổi chiều, hắn quan sát các con tàu trên vũng đậu. Không lâu sau đó, giới ngồi lê đôi mách ở Scaithe’s Ebb (và số lượng này không hề nhỏ chút nào) đã nắm được tường tận mọi chuyện: quý ông râu rậm kia đang chuẩn bị bắt tàu tới phương Đông. Rồi chẳng mấy chốc, câu chuyện này đã bị gạt đi nhường chỗ cho một câu chuyện khác, ấy là quý ông kia định lên tàu Trái tim giấc mơ do thuyền trưởng Yann điều khiển, một con tàu diềm đen với boong tàu sơn màu đỏ chót và ít nhiều vẫn có được danh thơm (dựa vào việc con tàu này nhìn chung vẫn được xem là biết cách giữ các công việc cướp bóc của mình ở những vùng biển xa) và chỉ cần hắn lên tiếng là chuyến đi sẽ được tiến hành ngay.

“Ông ơi!” một đứa trẻ lang thang nói với hoàng tử Primus. “Có một ông đã vào trong thị trấn đấy, đi theo đường bộ. Ông ta trọ ở chỗ cô Pettier. Ông ta gầy nhẳng, trông chẳng khác gì con quạ, và cháu đã thấy ông ta ở quán Tiếng gầm đại dương, mua rượu đãi tất cả mọi người đang ở trong phòng. Ông ta nói ông ta là một thủy thủ mệt lử đang tìm chỗ ngủ.”

Primus vỗ tay lên mái đầu bẩn thỉu của đứa bé và đưa cho nó một đồng xu. Rồi hắn quay trở lại với công việc sửa soạn của mình, và chiều hôm đó, tàu Trái tim giấc mơ loan tin sẽ rời bến sau ba ngày ngắn ngủi nữa.

Hôm trước ngày Trái tim giấc mơ dong buồm ra khơi, người ta nhìn thấy Primus đem bán cỗ xe tứ mã cho người giữ ngựa trên phố Wardle, sau đó hắn đi bộ đến bến cảng, phân phát các đồng xu cho bọn trẻ con. Hắn vào trong cabin riêng ở Trái tim giấc mơ và nghiêm khắc ra lệnh không ai được quấy rầy hắn, bất kể vì lý do gì, dù tốt hay xấu, cho tới khi họ đã rời khỏi cảng được ít nhất một tuần.

Tối đó, một tai nạn không may đã rơi xuống đầu một thủy thủ giỏi giang vốn phụ trách các dây chằng cột buồm trên Trái tim giấc mơ. Giữa cơn say, anh ta trượt chân trên lớp đá cuội trơn tuột ở phố Revenue và ngã gãy xương hông. May sao, chẳng cần nhọc công tìm cũng đã thấy ngay một người thay thế: chính là người thủy thủ đã cùng chè chén với anh ta tối đó, và cũng chính là người đã khiến anh chàng bị thương kia mềm lòng nghe theo mà trình diễn một điệu nhảy thủy thủ có độ khó cực cao trên nền sỏi ướt.

Và người thủy thủ cao ráo, ngăm ngăm và trông y như một con quạ này tối đó đã khoanh một dấu tròn thay cho chữ ký trên các giấy tờ đi biển của y và đến lúc bình minh đã có mặt tại boong, cùng con tàu dong buồm rời bến cảng, giữa màn sương mù buổi sáng. Trái tim giấc mơ tiến về phía Đông. Hoàng tử Primus xứ Stormhold, với bộ râu vừa cạo, đứng từ trên đỉnh vách đá dõi mắt nhìn theo con tàu dong buồm rời cảng, cho tới tận khi nó biến mất khỏi tầm nhìn. Rồi hắn đi bộ đến phố Wardle, trả lại tiền và cộng thêm một khoản nữa cho người giữ ngựa, sau đó chạy dọc con đường ven biển tiến về phía Tây, trên cỗ xe màu đen được kéo bởi bốn con hắc mã.

Đó là một giải pháp hiển nhiên. Xét cho cùng, con kỳ lân đã thả nước kiệu bám theo sau họ gần như suốt cả buổi sáng, thỉnh thoảng lại dụi dụi cái trán lớn tướng của nó lên vai ngôi sao. Các vết thương rải rác hai bên sườn của nó, mới hôm trước còn nở bung ra dưới móng vuốt con sư tử như những bông hoa đỏ, giờ đã khô lại thành màu nâu và đều kết vảy.

Ngôi sao khập khiễng, cà nhắc, loạng choạng và Tristran bước đi cạnh cô, sợi dây xích lạnh lẽo trói cổ tay này với cổ tay kia.

Một mặt, Tristran cảm thấy cái ý tưởng cưỡi lên con kỳ lân có gì đó gần như báng bổ: nó không phải một con ngựa thường, không bị ràng buộc bởi bất kỳ hiệp ước cổ xưa nào giữa Người và Ngựa. Đôi mắt đen của nó nhuốm vẻ hoang dại, những bước chân bất kham lại bồn chồn và đầy nguy hiểm. Mặt khác, Tristran đã bắt đầu cảm thấy, theo một cách anh không sao giải thích rõ ràng được, rằng con kỳ lân quan tâm đến ngôi sao và muốn giúp cô. Vậy nên anh bảo, “Này, tôi biết cô vẫn quyết tâm phá tan tành mọi đường bước kế hoạch của tôi, nhưng nếu con kỳ lân này nguyện ý, có lẽ cứ để nó chở cô đi, một quãng ngắn thôi.”

Ngôi sao không nói gì.

“Thế nào?”

Cô nhún vai. Tristran quay sang con kỳ lân, nhìn thẳng vào đôi mắt đen thăm thẳm của nó. “Mày có hiểu tao nói không?” anh hỏi. Nó không nói gì. Anh những mong nó sẽ gật đầu hay gõ móng, giống như một con ngựa đã qua huấn luyện mà anh từng gặp trên bãi cỏ làng hồi còn nhỏ. Nhưng nó chỉ giương mắt nhìn. “Mày chở cô gái này nhé? Nhờ mày nhé?”

Con vật không nói một lời, cũng không gật đầu hay gõ móng. Nhưng nó tiến về phía ngôi sao và khuỵu gối xuống sát chân cô.

Tristran giúp ngôi sao leo lên lưng con kỳ lân. Có túm chặt cái bờm rối nùi của nó bằng cả hai tay và ngồi vắt hai chân sang một bên lưng ngựa, cái chân bị thương của cô chĩa ra. Và họ cứ thế mà đi trong mấy tiếng đồng hồ.

Tristran đi bộ bên cạnh họ, vác cái nạng của cô trên vai, túi hành lý của anh lúc lỉu ở một đầu. Anh nhận ra giờ khi ngôi sao đang cưỡi trên lưng con kỳ lân rồi, chuyến hành trình cũng vất vả chẳng kém so với hồi trước.

Lúc trước, anh buộc phải đi chậm, cố gắng đều nhịp với bước chân tập tễnh cà nhắc của ngôi sao, giờ anh lại đang phải rảo cẳng để theo kịp con kỳ lân, thấp thỏm lo con kỳ lân sẽ vượt trước anh quá xa và sợi xích nối giữa hai người bọn họ sẽ lôi ngôi sao ngã khỏi lưng con vật. Dạ dày anh nhộn nhạo theo từng bước chân. Anh khổ sở nhận thấy anh đang đói ngấu; chẳng mấy chốc Tristran đã bắt đầu thấy anh chẳng khác gì một kẻ sắp chết đói, chỉ còn da bọc xương, và nhanh hết tốc lực, anh cứ thế bước đi, bước đi...

Anh vấp chân và biết anh sắp ngã tới nơi rồi.

“Dừng lại đã,” anh hổn hển nói.

Con kỳ lân chậm bước lại, rồi dừng hẳn. Ngôi sao nhìn xuống anh. Rồi cô nhăn mặt, lắc đầu. “Tốt hơn hết là anh cũng nên leo lên đây đi,” cô nói. “Nếu con kỳ lân cho phép anh làm thế. Nếu không anh sẽ ngất xỉu hay sao đó, và sẽ lôi tôi ngã xuống đất cùng anh. Và ta phải đến được nơi nào đó để anh kiếm chút gì bỏ bụng”

Tristran cảm kích gật đầu.

Con kỳ lân không có vẻ gì là phản đối mà chỉ thụ động chờ đợi, vậy nên Tristran bèn tìm cách leo lên lưng nó. Thật chẳng khác gì đang leo lên một bức tường thẳng đứng, và cũng hoài công vô ích y như vậy. Cuối cùng, Tristran dắt con kỳ lân đến chỗ một cây sồi đã bị bão, hay gió cả, hoặc một gã khổng lồ cáu kỉnh nào đó, trốc cả rễ lên từ vài năm trước, rồi, tay nắm túi hành lý của mình cùng cái nạng của ngôi sao, anh vụng về trèo theo đám rễ cây lên cái thân cây cụt, và từ đó leo lên lưng con kỳ lân.

“Có một ngôi làng ở phía bên kia sườn đồi,” Tristran nói. “Có lẽ khi đến được đấy, chúng ta có thể tìm được thứ gì đó để ăn.” Anh vỗ vỗ bàn tay đang để không lên hai bên sườn con kỳ lân. Con vật bắt đầu cất bước. Tristran dời bàn tay tới eo ngôi sao, cốt giúp mình ngồi cho chắc. Anh có thể cảm nhận được lớp vải váy mỏng mềm của cô, và bên dưới nó, sợi xích dày gắn viên đá hoàng ngọc bao quanh eo.

Cưỡi kỳ lân không giống cưỡi ngựa: kỳ lân không di chuyển theo kiểu của ngựa; hành trình này phóng túng hơn và cũng lạ lẫm hơn. Con kỳ lân đợi cho đến khi Tristran và ngôi sao điều chỉnh tư thế ngồi thoải mái trên lưng nó, và rồi, chậm rãi và nhẹ nhàng, nó bắt đầu gia tăng tốc độ.

Cây cối vùn vụt lướt qua họ. Ngôi sao ngả người về phía trước, ngón tay xọc vào trong bờm kỳ lân; Tristran - con đói đã chìm dưới nỗi sợ - kẹp chặt đầu gối vào hai bên sườn kỳ lân; và chỉ biết cầu nguyện để không bị một cái cành cây lạc nào hất văng xuống đất. Chẳng mấy chốc, anh nhận ra mình bắt đầu hào hứng với trải nghiệm này. Cưỡi kỳ lân, đối với những ai vẫn có đủ khả năng cưỡi, là một trải nghiệm có gì đó khác hẳn so với bất kỳ trải nghiệm nào khác: hồ hởi, phấn khích và hay ho.

Khi họ tiến đến rìa ngôi làng, mặt trời đang lặn dần. Đến giữa một bãi cỏ mênh mông, dưới tán một cây sồi, con kỳ lân dừng phắt lại không chịu đi xa hơn. Tristran xuống ngựa, nhảy bụp xuống bãi cỏ. Mông anh đau ê ẩm, nhưng vì ngôi sao vẫn đang cúi nhìn anh và chẳng hề phàn nàn lấy một câu, anh không dám đưa tay xoa.

“Cô có đói không?” anh hỏi ngôi sao.

Cô không nói gì.

“Nghe này,” anh nói. “Tôi đang đói ngấu rồi. Đói muốn chết đến nơi rồi. Tôi không biết các cô - các ngôi sao - có ăn không, hay nếu có thì là ăn cái gì. Nhưng tôi sẽ không để cô nhịn đói đâu.” Anh nhìn cô, dò hỏi. Cô cúi nhìn anh không chớp mắt, ban đầu có vẻ dửng dưng, rồi trong một tích tắc, đôi mắt xanh lơ của cô đã đẫm lệ. Cô với một tay lên mặt lau nước mắt, để lại một vệt bùn lem trên má.

“Chúng tôi chỉ ăn bóng tối thôi,” cô nói, “và chúng tôi chỉ uống ánh sáng. Vậy nên tôi, hức, không đói. Tôi cô đơn, sợ hãi, lạnh lẽo và, hức, khốn khổ và hức, bị bắt giữ nhưng tôi, hức, không đói.”

“Đừng khóc,” Tristran nói. “Thế này nhé, tôi sẽ vào làng kiếm gì đó để ăn. Cô cứ ngồi đợi ở đây nhé. Nếu có ai đến, con kỳ lân sẽ bảo vệ cô.” Anh rướn người nhẹ nhàng nhấc cô ra khỏi lưng con kỳ lân. Con kỳ lân giũ bờm, rồi bắt đầu gặm cỏ trên cánh đồng, vẻ mãn nguyện.

Ngôi sao khịt mũi. “Đợi ở đây hả?” cô hỏi, giơ cao sợi xích vẫn đang trói hai người lại với nhau. “Ồ,” Tristran nói. “Đưa tay đây cho tôi.”

Cô chìa tay ra cho anh. Anh lóng ngóng tháo sợi xích ra, nhưng không sao tháo được.

“Hừm,” Tristran nói. Anh kéo mạnh cái vòng xích đang ôm lấy cổ tay mình, nhưng nó cũng vẫn bám chắc. “Có vẻ như,” anh nói, “tôi bị trói buộc vào cô cũng y như cô bị trói vào tôi.”

Ngôi sao hất tóc ra đằng sau gáy, nhắm mắt lại và thở dài thườn thượt. Rồi, mở mắt ra, vẻ bình tĩnh đã một lần nữa quay trở lại, cô nói, “Chắc phải có một câu thần chú hay sao đó.”

“Tôi không biết câu thần chú nào cả,” Tristran nói. Anh giơ sợi xích lên cao. Nó lấp lánh vừa đỏ vừa tím trong ánh mặt trời đang lặn. “Làm ơn đi mà?” anh nói. Một gợn sóng lăn tăn hiện trên bề mặt sợi xích, và thế là anh đã chuồi tay ra được.

“Của cô đây,” anh nói, đưa cho ngôi sao đầu bên này của sợi xích vẫn đang buộc vào cô. “Tôi sẽ cố gắng không đi quá lâu. Và nếu có bất kỳ vị tiên nào hát những bài hát ngớ ngẩn của họ cho cô nghe thì lạy trời lạy đất, đừng có ném cái nạng của cô về phía họ đấy nhé. Họ sẽ đánh cắp nó đấy.”

“Tôi sẽ không làm thế đâu,” cô nói.

“Tôi sẽ buộc lòng phải tin tưởng rằng, là một ngôi sao có danh dự, cô sẽ không chạy trốn,” anh nói.

Cô sờ cái chân đang bị nẹp. “Tôi sẽ chẳng chạy được lâu đâu,” cô nói, giọng châm chọc. Và Tristran buộc phải lấy làm vừa lòng với câu nói ấy.

Anh đi bộ nốt nửa dặm đường để đến làng. Vốn nằm cách quá xa con đường mòn, ngôi làng chẳng có nhà trọ nào, nhưng bà già phốp pháp đã giải thích chuyện này với anh cứ nhất mực đòi dẫn anh tới căn nhà tranh của bà ta, rồi lúc đến nơi thì ấn vào tay anh một cái bát gỗ đầy tú hụ cháo lúa mạch kèm cà rốt, cùng với cả một cốc bia nhỏ. Anh đổi cái khăn mùi xoa bằng vải lanh mịn lấy một chai rượu hoa cơm cháy, một khoanh pho mát xanh và một ít trái cây kỳ lạ: chúng mềm và có lông tơ, giống như mơ, nhưng lại có màu xanh tím của nho, còn mùi thì hơi giống lê chín; ngoài ra, bà già còn đưa cho anh một bó cỏ nhỏ để cho con kỳ lân.

Anh trở lại đồng cỏ nơi anh đã để ngôi sao và con kỳ lân lại, vừa đi vừa nhóp nhép một ít thứ trái cây mọng nước, dai dai và ngòn ngọt. Anh thầm hỏi không biết ngôi sao có muốn thử một quả không, không biết nếu ăn thử rồi thì cô có thích nó không. Anh hy vọng cô sẽ vừa lòng với những thứ anh mang về cho cô.

Thoạt đầu, Tristran cứ tưởng anh đã nhầm lẫn sao đó thành ra bị lạc đường dưới ánh trăng. Không: kia vẫn chính là cây sồi ấy, cái cây sồi nơi ngôi sao từng ngồi bên dưới.

“Xin chào?” anh gọi. Bọ sáng và đom đóm lập lòe hết xanh lại vàng trong hàng rào cây và giữa những cành lá. Không ai đáp lại, và Tristran cảm thấy ruột gan nhộn nhạo. “Xin chào?” anh gọi. Rồi sau đó, anh thôi không gọi nữa, bởi vì chẳng có ai ở đấy để mà đáp lại anh.

Anh thả bó cỏ xuống rồi lấy chân đá vào nó.

Cô ở phía Tây Nam của anh, di chuyển nhanh hơn nhiều so với tốc độ anh đi bộ. Anh bám theo cô trong ánh trăng rạng rỡ. Anh thầm cảm thấy lòng tê dại, thấy mình chẳng khác gì gã ngốc; nỗi áy náy, xấu hổ và hối hận dằn vặt tâm trí anh. Đáng lẽ ra anh không nên thả lỏng sợi xích trói cô, đáng lẽ ra anh nên buộc nó vào một cái cây; đáng lẽ ra anh nên bắt ngôi sao đi cùng anh vào làng. Những suy nghĩ ấy lướt qua đầu anh trong lúc anh bước đi, nhưng đồng thời, một giọng nói khác cũng vang lên, chỉ rõ rằng dẫu lúc ấy anh không tháo xích cho cô thì rồi chẳng cần phải đợi chờ lâu la gì, anh kiểu gì cũng sẽ có lúc phải làm thế thôi, và đến lúc đó cô sẽ vẫn chạy trốn khỏi anh.

Băn khoăn không biết liệu có còn gặp lại ngôi sao nữa không, anh chân thấp chân cao leo qua các bộ rễ trên con đường dẫn anh đi giữa những hàng cây cổ thụ, tiến vào trong rừng sâu. Ánh trăng dần mất hút bên dưới những tán lá dày đặc, và sau một hồi mò mẫm vấp váp trong bóng tối mà chẳng thu được kết quả gì ra hồn, anh bèn ngả người nằm xuống bên dưới một tán cây, đầu gối lên túi hành lý, mắt nhắm lại, than thân trách phận cho đến khi ngủ thiếp đi.

Trên một con đèo lởm chởm đá tảng, ở sườn cực Nam của núi Bụng, nữ hoàng phù thủy gò cương dừng cỗ xe hai dê kéo và khịt mũi hít ngửi bầu không khí lạnh buốt.

Những vì sao chi chít lạnh lẽo treo giữa bầu trời phía trên đầu mụ.

Hai cánh môi đỏ thắm của mụ cong lên thành một nụ cười xinh đẹp, rạng rỡ, thuần khiết và hoan hỉ đến độ nguyên hình ảnh ấy cũng đủ khiến cho máu trong huyết quản ta đông cứng lại. “Kia rồi” mụ nói. “Cô ta đang tiến về phía ta.”

Và ngọn gió nơi hẻm núi hân hoan hú huýt quanh mụ, như thể đang đáp lời.

Primus ngồi bên bếp than đỏ lửa, cơ thể run lên bên dưới chiếc áo choàng đen dày bịch. Một con trong đàn ngựa đen, chẳng biết đang tỉnh hay mơ, hí lên và khịt khịt mũi, rồi sau đó yên tĩnh trở lại. Primus có cảm giác khuôn mặt mình đang lạnh ngắt lạ lùng; hắn thấy nhớ bộ râu rậm ngày xưa. Hắn lấy que khều một cục đất sét tròn ra khỏi đống than. Hắn nhổ nước bọt lên hai bàn tay, rồi tách cục đất sét nóng hổi ra, hít ngửi mùi thơm phưng phức từ món thịt nhím đã được vùi giữa đống tro nướng và chậm rãi chín đều trong lúc hắn ngủ.

Hẳn tỉ mẩn đánh chén bữa sáng, nhổ những cái xương tí xíu vào trong vòng lửa sau khi đã gặm hết lớp thịt bao quanh. Hắn nuốt cho trôi thịt nhím với một miếng pho mát cứng và rượu trắng chua dịu.

Khi đã ăn xong, hắn chùi cả hai tay lên áo choàng và rồi tung các chữ rune lên, nhằm tìm ra viên đá hoàng ngọc nắm giữ quyền ban ngai vị đức vua của những trị trấn cheo leo và các địa sản mênh mông của Stormhold. Hắn tung những chữ rune lên, rồi bối rối nhìn không chớp mắt vào những viên đá hoa cương vuông nhỏ đỏ rực. Hắn nhặt chúng lên lần nữa, lắc lắc chúng trong hai bàn tay với những ngón tay dài của mình, sau đó thả chúng rơi xuống nền đất và lại nhìn chúng chăm chăm. Rồi Primus nhổ nước bọt vào đống than, khiến đống than uể oải xèo xèo. Hắn vơ đống đá lên thảy hết vào trong cái túi nhỏ ở thắt lưng.

“Nó đang di chuyển nhanh hơn, xa hơn” Primus nói một mình.

Hắn tè lên trên đống than cháy, vì hắn đang ở giữa chốn hoang dã, và ở những vùng đất này, không thiếu kẻ cướp, quỷ yêu và cả những thứ còn tệ hơn nữa, mà hắn lại không muốn đánh động cho chúng biết đến sự hiện diện của mình. Sau đó, hắn lôi mấy con ngựa tới chỗ cỗ xe rồi leo lên ghế xà ích, đánh xe chạy về phía khu rừng, về phía Tây, về phía rặng núi đằng sau nó.

Cô gái ôm ghì lấy cổ kỳ lân trong lúc nó cắm đầu lao xuyên qua khu rừng tối đen.

Ánh trăng không lọt được vào giữa đám cây cối, nhưng con kỳ lân vẫn lờ mờ tỏa sáng nhàn nhạt, y như ánh trăng, trong lúc cô gái sáng lấp lánh rực rỡ như thể đang kéo theo một đám bụi ánh sáng. Và, khi cô băng qua giữa những cây cối thì từ xa nhìn lại, người ta có thể thấy dường như cô đang nhấp nháy, chớp tắt rồi chớp tắt, y như một ngôi sao tí hon.