← Quay lại trang sách

Chương 6 Cái cây nói gì

Tristran Thorn đang mơ.

Anh đang ở bên trong một cây táo, ánh mắt xuyên qua cửa sổ nhìn chằm chằm vào Victoria Forester, lúc này đang cởi váy. Lúc cô đã cởi chiếc váy mặc ngoài ra, để lộ lớp váy lót rườm rà, Tristran có cảm giác cành cây bên dưới chân anh bắt đầu tẽ ra, và rồi anh ngã xuống xuyên qua khoảng không giữa ánh trăng...

Anh đang ngã vào mặt trăng.

Và mặt trăng đang nói với anh: Xin cậu, mặt trăng thì thầm, bằng chất giọng khiến anh thấy có phần giống với giọng mẹ anh, hãy bảo vệ nó. Hãy bảo vệ con tôi. Chúng muốn làm hại nó. Tôi đã làm tất cả những gì có thể rồi. Và mặt trăng hẳn còn muốn nói thêm nhiều nữa, mà có khi trăng đã làm thế thật, nhưng mặt trăng đã trở nên nhạt nhòa, chỉ còn là ánh sáng lờ mờ trên mặt nước xa xăm phía dưới anh, rồi sau đó anh nhận ra một con nhện con đang bò ngang mặt anh, còn cổ anh thì vẹo hẳn sang một bên, vậy là anh giơ tay lên cẩn thận gạt con nhện ra khỏi má, và vầng dương buổi sáng đang trong mắt anh, cả thế giới tắm trong màu vàng óng và xanh lục.

“Anh đang mơ,” một giọng phụ nữ trẻ vang lên đâu đó bên trên anh. Giọng nói dịu dàng với khẩu âm kỳ lạ. Anh có thể nghe thấy tiếng lá xào xạc từ cây ngô đồng bên trên đầu anh.

“Phải,” anh nói, với người ở trên cây, bất kể người đó là ai, “tôi đang mơ.”

"Tối qua tôi cũng mơ,” giọng nói bảo. “Trong mơ, tôi ngước mắt lên và tầm nhìn bao trọn cả khu rừng, và tôi có thể nhìn thấy một thứ khổng lồ đang di chuyển xuyên qua rừng. Nó càng lúc càng tiến lại gần hơn, vậy là tôi đã biết nó là gì.” Cô đột ngột ngừng lời.

“Nó là gì?” Tristran hỏi.

“Mọi thứ,” cô nói. “Nó là Pan. Hồi tôi còn bé, ai đó - có thể là một con sóc, chúng cứ nói liên mồm ấy, hoặc là một con ác là, hay có khi là một con cá - đã bảo tôi rằng Pan sở hữu toàn bộ khu rừng này. Chậc, không phải sở hữu kiểu cá nhân sở hữu đâu. Không phải là kiểu Pan sẽ bán khu rừng cho người khác, hay dựng một bức tường bao quanh...”

“Hay đốn cây,” Tristran đỡ lời. Sự im lặng bao trùm. Anh thầm hỏi không biết cô gái đã đi đâu. “Này?” anh gọi. “Này?”

Tiếng lá cây loạt soạt phía trên đầu anh.

“Đáng lẽ anh không nên nói năng kiểu thế,” cô nói.

“Xin lỗi,” Tristran nói, không hoàn toàn ý thức được mình đang xin lỗi vì cái gì. “Nhưng cô đã bảo rằng Pan sở hữu khu rừng...”

“Tất nhiên là thế,” giọng nói bảo. “Đâu có khó để sở hữu một thứ gì đó. Hoặc tất cả mọi thứ. Anh chỉ cần phải biết rằng nó là của anh, rồi sau đó cứ tùy ý mặc kệ nó thôi. Pan sở hữu khu rừng này, kiểu như thế ấy. Và trong giấc mơ của tôi, Pan bước đến chỗ tôi. Anh cũng ở trong giấc mơ của tôi nữa, đang cầm sợi xích dắt một cô gái buồn rầu đi. Cô ấy là một cô gái rất rất buồn. Pan đã bảo tôi giúp đỡ anh.”

“Tôi?”

“Và điều đó khiến tôi cảm thấy ấm áp, râm ran và mềm cả lòng, từ tận các chóp lá cho tới đầu các ngọn rễ. Vậy là tôi tỉnh dậy, và anh đang ở đó, tựa đầu bên thân tôi mà ngủ thiếp đi, ngáy y như một chú lợn con.”

Tristran gãi mũi. Anh thôi không tìm kiếm một người phụ nữ đang ở giữa đám cành lá cây ngô đồng ở phía trên đầu anh nữa, mà thay vào đó nhìn vào chính cái cây. “Cô là một cái cây,” Tristran nói, tìm cách diễn đạt thành lời các suy nghĩ của mình.

“Tôi không phải sinh ra đã là một cái cây đâu,” giọng nói vang lên giữa tiếng lá ngô đồng xào xạc. “Một phù thủy đã biến tôi thành cây.”

“Trước đó thì cô là gì?” Tristran hỏi.

“Theo anh thì ngài ấy có thích tôi không?”

“Ai cơ?”

“Pan ấy. Nếu anh là Chúa Rừng, hẳn là anh sẽ không giao việc cho người nào đó, bảo họ cung cấp tất cả những phương tiện hỗ trợ và sự trợ giúp có thể, trừ phi anh thích họ, đúng không?”

“Chà...” Tristran nói, nhưng khi anh vẫn còn đang loay hoay tìm một câu trả lời khôn ngoan thì cái cây đã nói, “Một nữ thần. Tôi từng là một nữ thần rừng. Nhưng tôi bị một hoàng tử theo đuổi, không phải một hoàng tử tốt, là kiểu trái lại ấy, và, chậc, anh có cho rằng một hoàng tử, thậm chí là một hoàng tử thuộc diện xấu xa đi nữa, ắt sẽ hiểu rõ các giới hạn hay không?”

“Cô nghĩ thế à?”

“Tôi nghĩ đúng như thế đấy. Nhưng hắn không hiểu, vậy nên tôi vừa chạy vừa cầu khẩn, và rồi - bụp - cái cây. Anh thấy sao?”

“Chà,” Tristran nói. “Tôi không biết hồi làm nữ thần rừng cô trông như thế nào, thưa cô, nhưng cô đúng là một cái cây tuyệt đẹp.”

Cái cây không trả lời ngay lập tức, nhưng lá cây khẽ xào xạc. “Hồi còn là nữ thần, tôi cũng khá dễ thương đấy,” cô bẽn lẽn thú nhận.

“Chính xác mà nói thì phương tiện hỗ trợ và sự trợ giúp kiểu như thế nào vậy?” Tristran hỏi. “Không phải tôi càu nhàu gì đâu nhé. Ý tôi là, ngay lúc này đây thì tôi cần đến tất cả mọi sự trợ giúp và phương tiện hỗ trợ mà tôi có thể huy động được. Nhưng nếu ta muốn có sự hỗ trợ thì một cái cây hẳn không phải là chỗ hiển nhiên ta sẽ tìm đến. Cô không thể đi cùng tôi, hay là cho tôi đồ ăn thức uống, hay mang ngôi sao đến đây, hay là đưa chúng tôi quay về Bức Tường gặp tình yêu đích thực của tôi. Tôi dám chắc nhỡ trời mưa, cô sẽ giúp mọi người tránh mưa rất hiệu quả, nhưng hiện tại, trời đâu có mưa...”

Cái cây xào xạc. “Sao anh không kể cho tôi nghe những chuyện anh đã trải qua cho tới bây giờ nhỉ,” cái cây nói, “và cứ để tôi quyết định xem liệu tôi có thể giúp đỡ được hay không.”

Tristran dợm giọng phản đối. Dựa vào tốc độ chạy nước kiệu của một con kỳ lân, anh có thể cảm nhận được ngôi sao đang di chuyển cách anh càng ngày càng xa, và nếu nói anh không có thời gian dành cho chuyện gì, thì đó chính là chuyện kể lại những cuộc phiêu lưu từ trước đến nay trong đời anh. Nhưng rồi anh bất chợt nhận ra rằng tính cho đến thời điểm này, bất kỳ tiến triển nào anh đạt được trên con đường thực thi sứ mệnh cũng đều bắt nguồn bằng việc chấp nhận sự giúp đỡ được đề nghị trao cho anh.

Vậy nên anh ngồi xuống mặt đất rừng và kể cho cây ngô đồng nghe tất cả những chuyện anh có thể nghĩ ra: về tình yêu thuần khiết và chân thành của anh dành cho Victoria Forester; lời hứa mang một ngôi sao băng về cho cô - không phải một ngôi sao băng bất kỳ nào đó, mà là ngôi sao băng họ đã nhìn thấy, cùng nhau, từ trên đỉnh đồi Dyties; về hành trình anh tiến vào Xứ Tiên. Anh kể cho cái cây nghe về những chặng đường anh đã qua, về người đàn ông bé nhỏ lông lá cùng những cư dân xứ tiên tí hon đã lấy cắp cái mũ quả dưa của anh; anh kể cho cô nghe về cây nến thần, về cuốc đi vượt không biết bao nhiêu dặm đường để tới chỗ ngôi sao nơi trảng rừng, về con sư tử cùng kỳ lân, và về sự tình đã khiến anh lạc mất ngôi sao.

Anh kết thúc câu chuyện của mình, và sự im lặng buông phủ. Những chiếc lá trên cây ngô đồng run run nhẹ nhàng, như thể đang đón một cơn gió nhẹ, và rồi run dữ dội hơn, như thể một cơn bão đang đến. Rồi sau đó, những chiếc lá làm thành một giọng nói trầm nhưng cuồn cuộn cảm xúc, “Nếu lúc đó anh vẫn trói cô ấy nhưng rồi cô ấy thoát được khỏi các trói buộc, vậy thì trên khắp đất trời này không có bất kỳ sức mạnh nào có thể khiến tôi ra tay giúp đỡ anh, không bao giờ trừ phi Pan Vĩ Đại hay Phu nhân Sylvia đích thân cầu xin khẩn nài tôi. Nhưng anh đã tháo xích cho cô ấy, và bởi vậy tôi sẽ giúp anh.”

“Cảm ơn cô,” Tristran nói.

“Tôi sẽ nói cho anh ba sự thật. Tôi sẽ nói với anh hai điều ngay bây giờ, nhưng còn điều cuối cùng sẽ được dành cho đến khi anh cần nó nhất. Anh sẽ phải tự đánh giá xem khi đó là bao giờ.”

“Đầu tiên, ngôi sao đang gặp nguy hiểm nghiêm trọng. Những chuyện xảy ra trong một khu rừng sẽ nhanh chóng được biết đến ở những vùng ranh giới xa xôi nhất của nó, và cây cối kể cho gió, gió truyền lời cho cánh rừng tiếp theo khi nó thổi tới đó. Có nhiều thế lực rắp tâm làm hại cô ấy, và còn tệ hơn cả làm hại nữa. Anh phải tìm ra cô ấy, và bảo vệ cô ấy.”

“Thứ hai, có một con đường xuyên qua rừng, băng qua chỗ cây linh sam kia kìa (và tôi có thể kể cho anh nghe khối chuyện về cây linh sam đó, đủ khiến cho tảng đá cũng phải đỏ mặt đấy), và trong vài phút nữa, một cỗ xe ngựa sẽ chạy đến xuôi theo con đường đó. Nhanh lên thì anh sẽ không lỡ mất nó.”

“Còn thứ ba, anh đưa tay ra đây.”

Tristran chìa tay ra. Từ phía trên đầu anh, một cái lá màu đồng chậm chạp rơi, xoay tròn, bay lượn và đổ nhào xuống. Nó hạ xuống gọn gàng trong lòng bàn tay phải của anh.

“Đây,” cái cây nói. “Giữ nó cẩn thận nhé. Và lắng nghe nó, khi nào anh cần nó nhất. Còn giờ,” cô nói với anh, “cỗ xe đang đến gần đây rồi. Chạy đi! Chạy đi!"

Tristran nhặt túi hành lý lên rồi chạy đi, vừa chạy vừa lóng ngóng nhét cái lá vào trong túi cái áo suông. Anh có thể nghe thấy tiếng móng ngựa gõ trên trảng rừng, càng lúc càng tiến đến gần hơn. Anh biết rõ chẳng thể nào bắt kịp nó được, chẳng còn hy vọng tiếp cận được nó, nhưng anh vẫn guồng chân nhanh hơn, cho tới khi âm thanh duy nhất anh nghe thấy là tiếng trái tim anh đập thình thịch trong lồng ngực và trong hai tai, cùng tiếng không khí rít lên khi anh hít khí vào buồng phổi. Anh hết bò rồi lại lao xuyên qua bãi dương xỉ diều hâu, cuối cùng cũng ra được đến chỗ con đường đúng lúc cỗ xe trờ tới.

Đó là một cỗ xe màu đen được bốn con ngựa đen như mun kéo, điều khiển bởi một người đàn ông xanh xao mặc áo choàng đen dài. Cỗ xe cách Tristran tầm hai mươi bước chân. Anh đứng đó, nuốt từng ngụm khí lớn, rồi anh cố gọi to, nhưng cổ họng khô khốc, anh cũng chẳng còn hơi sức đâu nữa, thành ra giọng anh khi thoát ra chỉ còn là một tiếng thì thào khàn khàn, khô khốc. Anh cố hét lên, nhưng lại chỉ thành ra thở khò khè.

Cỗ xe lướt qua anh, không hề giảm tốc độ.

Tristran ngồi trên nền đất, cố lấy lại hơi thở. Rồi, lo lắng cho ngôi sao, anh bèn đứng dậy cất bước, nhanh hết sức có thể, bám theo con đường rừng, Đi bộ chưa quá mười phút thì anh gặp cỗ xe màu đen. Một cành cây khổng lồ, to chẳng kém gì một cái cây, đã rơi từ trên một cây sồi xuống giữa đường ngay trước mặt đàn ngựa, và người xà ích, cũng là người duy nhất có mặt trên xe, đang hì hục cố dọn nó đi cho quang đường.

“Cái thứ chết toi chết dập này,” người xà ích, khoác một chiếc áo choàng dài màu đen và Tristran đoán chừng tầm gần năm mươi tuổi, nói, “chẳng có gió hay bão dông gì. Nó cứ thế mà rơi xuống chứ. Dọa bọn ngựa sợ chết khiếp.” Giọng y trầm và oang oang.

Tristran và người xà ích tháo bốn con ngựa ra khỏi xe rồi buộc chúng vào cành sồi kia. Rồi hai người đẩy, còn bốn con ngựa kéo, và hợp lực lại, họ đã lôi được cành sồi sang bên vệ đường. Tristran âm thầm nói cảm ơn với cây sồi đã bị gãy cành kia, với cây ngô đồng cùng thần Pan của các khu rừng, rồi sau đó anh xin người xà ích cho anh đi nhờ qua rừng.

“Ta không chở khách,” người xà ích vừa nói vừa xoa xoa cái cằm râu ria.

“Hiển nhiên là vậy,” Tristran nói. “Nhưng nếu không có tôi, ông sẽ vẫn bị mắc kẹt ở đây. Chắc chắn ông trời đã cử ông đến giúp tôi, cũng như ông trời đã cử tôi đến giúp ông. Tôi sẽ không khiến ông phải mua thêm đường đâu, và biết đâu sẽ có lúc ông phải lấy làm mừng vì có thêm tay thêm chân hỗ trợ đấy.”

Người xà ích nhìn Tristran một lượt từ đầu đến chân. Rồi hắn thò tay vào bên trong cái túi nhung đeo lủng lẳng ở thắt lưng, moi ra một nắm đá hoa cương vuông màu đỏ.

“Nhặt một viên đi,” hắn nói với Tristran.

Tristran nhặt một viên đá, chìa cho người đàn ông thấy biểu tượng được khắc bên trên. “Hừm” người xà ích chỉ nói mỗi thế. “Nhặt viên khác đi.” Tristran làm theo. “Viên khác nữa.” Người đàn ông lại xoa cằm. “Được rồi, anh có thể đi với ta,” hắn nói. “Các chữ rune có vẻ chắc chắn về chuyện đó. Mặc dù sẽ vẫn có nguy hiểm. Nhưng có lẽ sẽ còn thêm nhiều cành cây gãy khác cần phải dọn đi. Nếu thích thì anh có thể ngồi ở trước, trên ghế xà ích bên cạnh ta đây này, và bầu bạn với ta.”

Kể thì cũng kỳ quái thật, Tristran nghĩ như thế trong lúc leo lên ghế xà ích, nhưng lúc liếc mắt vào trong thùng xe lần đầu tiên, anh tưởng như đã nhìn thấy năm người đàn ông nhợt nhạt, tất cả đều có màu xám, giương mắt nhìn anh rầu rĩ. Nhưng đến lần sau anh nhìn vào trong, chẳng có ai ở trong đó hết.

Chiếc xe ngựa lắc lư và sầm sập lăn bánh trên con đường rậm cỏ bên dưới mái lá xanh vàng. Tristran lo lắng không yên về ngôi sao. Anh nghĩ có lẽ cô đã tỏ ra bẳn tính thật, nhưng xét cho cùng, có vô khối lý do để biện hộ cho điều đó mà. Anh chỉ mong sao cô có thể tránh xa rắc rối cho tới khi anh bắt kịp cô.

Thỉnh thoảng, người ta vẫn nghe đồn rằng dãy núi màu xám đen trông như một bộ xương sống vắt từ Bắc xuống Nam xuôi theo vùng Xứ Tiên kia trước đây vốn là một người khổng lồ, to lớn và nặng nề đến độ một ngày kia, do đã quá mệt mỏi vì cứ phải gồng hết sức lên để sống và di chuyển, anh ta bèn nằm xoài ra trên vùng đồng bằng và chìm vào một giấc ngủ sâu đến độ mỗi nhịp tim cách nhau đến hằng bao nhiêu thế kỷ. Nếu chuyện này có từng xảy ra thật thì hẳn cũng phải từ cách đây lâu lắm, từ Thời Đầu của thế giới, khi vạn vật chỉ toàn đá với lửa, nước với gió, và dẫu cho nó không phải sự thực thì cũng chẳng còn mấy người còn sống để mà chứng minh điều đó.

Dẫu vậy, dù chuyện này có phải là thật hay không, người ta vẫn gọi bốn ngọn núi lớn trong rặng núi này là núi Đầu, núi Vai, núi Bụng và núi Đầu Gối, còn dãy đồi thấp dưới chân núi phía Nam có tên là Chân. Có nhiều con đèo chạy xuyên qua các dãy núi, trong đó một con đèo nằm giữa đầu vào vai, tại đúng nơi dành cho cái cổ, và một con đèo ở ngay sườn phía Nam núi Bụng.

Đây là những ngọn núi hoang, nơi cư ngụ của những sinh vật hoang dã: quỷ lùn da xám đen, những kẻ hoang dã lông lá, người rừng đi lạc, dê núi và thần lùn đào mỏ, những nhà ẩn dật, kẻ lưu đày và thỉnh thoảng còn có cả phù thủy núi. Rặng núi này không thuộc vào hàng ngũ những rặng núi cao hẳn hoi của Xứ Tiên, kiểu như núi Huon với Stormhold ở trên đỉnh. Nhưng dẫu sao đi nữa, các lữ khách lẻ loi muốn băng qua nó thì cũng chẳng dễ dàng gì.

Nữ hoàng phù thủy đã băng qua con đèo phía Nam núi Bụng được vài ngày, và giờ đang đợi ở cửa đèo. Hai con dê của mụ đã được buộc vào một bụi gai, trệu trạo nhai cây. Mụ ngồi ghé vào một bên cỗ xe đã tháo hai con dê, mài dao trên một hòn đá mài.

Con dao vốn là đồ đã được mụ dùng từ lâu: cán làm từ xương, lưỡi dao là mảnh vỡ thủy tinh núi lửa, đen như hạt huyền, với những hạt băng hình hoa tuyết trắng xóa khảm vĩnh viễn vào trong đá vỏ chai. Mụ có hai con dao: con nhỏ hơn là một con dao pha lưỡi rìu, nặng và cứng, dùng để xẻ khung xương sườn, chặt khớp và chia khúc; con còn lại có lưỡi dài kiểu dao găm, dùng để cắt tim.

Khi hai con dao đã được mài sắc đến độ dùng lưỡi dao nào mụ cũng đều có thể cắt ngọt xớt ngang cổ họng ta mà ta chỉ cảm thấy như vừa có một sợi tóc cực mỏng chạm lướt qua, trong khi dòng máu ấm tràn đầy sinh lực của ta thực hiện một cuộc tẩu thoát âm thầm, nữ hoàng phù thủy bèn cất chúng đi và bắt đầu công đoạn soạn sửa của mình.

Mụ tới chỗ hai con dê và thì thầm một câu thần chú với mỗi con.

Tại chỗ hai con dê vừa nãy, một người đàn ông có chòm râu dê màu trắng đang đứng cạnh một người phụ nữ với dáng vẻ trẻ con và đôi mắt lờ đờ.

Họ không nói gì.

Mụ cúi xuống cạnh cỗ xe và thì thầm với nó vài lời. Cỗ xe không có phản ứng gì, và nữ hoàng phù thủy giậm chân lên trên tảng đá.

“Ta đang già mất rồi,” mụ nói với hai người hầu. Họ không nói gì đáp lại, thậm chí cũng chẳng tỏ dấu hiệu gì cho thấy họ hiểu ý mụ. “Những thứ vô tri thì bao giờ cũng khó bị biến đổi hơn những thứ có sinh khí. Linh hồn chúng già cỗi hơn, ngu ngốc hơn và khó thuyết phục hơn. Giá như ta lấy lại được tuổi trẻ đích thực của mình... này nhé, vào Thời đại Thứ nhất của thế giới này, ta còn có thể biến núi thành biển và biến mây thành lâu đài nữa cơ. Ta có thể bổ sung dân số cho các thành phố từ những viên sỏi trên bãi đá cuội. Giá như ta trẻ lại...”

Mụ thở dài và giơ một bàn tay lên: một ngọn lửa màu xanh dương lập lòe một hồi quanh các ngón tay mụ, rồi sau đó, khi mụ hạ tay thấp xuống và cúi người để chạm vào cỗ xe, ngọn lửa biến mất.

Mụ đứng thẳng dậy. Giờ trên mái tóc đen như quạ của mụ đã điểm những dải màu xám, và bọng mắt tối màu đã xuất hiện bên dưới hai mắt; nhưng cỗ xe đã biến mất, và mụ lúc này đang đứng trước một quán trọ nhỏ bên rìa đèo núi.

Xa xa, tiếng sấm ầm ì, trầm lặng, và ánh chớp loáng nhoáng từ tít đường chân trời.

Biển hiệu quán trọ lắc lư ken két trong gió. Biển hiệu có vẽ hình một cỗ xe song mã.

“Hai chúng mày,” mụ phù thủy nói, “ở bên trong. Nó đang chạy theo đường này, vậy nên nhất định nó sẽ phải đi qua con đèo này. Giờ thì ta chỉ cần phải đảm bảo sao cho nó tiến vào bên trong thôi. Mày,” mụ nói với người đàn ông có chòm râu dê trắng, “là Billy, chủ quán trọ này. Ta sẽ là vợ mày, còn đứa này,” mụ chỉ về người con gái mắt lờ đờ, trước đây vốn là Brevis, “là con gái chúng ta, làm hầu phòng.”

Một tiếng sấm nữa vang vọng từ những đỉnh núi, ầm ầm hơn trước nhiều.

“Trời sắp mưa rồi,” mụ phù thủy nói. “Chúng ta chuẩn bị bếp núc thôi.”

Tristran có thể cảm nhận được ngôi sao ở phía trước họ, đang di chuyển ổn định về phía trước. Anh cảm thấy dường như anh sắp bắt kịp cô rồi.

Và anh nhẹ nhõm nhận ra cỗ xe tứ mã màu đen vẫn tiếp tục bám theo con đường ngôi sao đang đi. Có một lúc, khi con đường phân nhánh, Tristran đã lo là họ có thể đã rẽ sai đường. Anh đã chuẩn bị sẵn sàng bỏ cỗ xe để đi tiếp một mình, nếu nhỡ đúng là nhầm thật.

Bạn đồng hành của anh ghìm cương ngựa, leo xuống khỏi ghế xà ích và moi các chữ rune của hắn ra. Sau khi việc tham khảo đã xong xuôi, hắn bèn leo trở lại chỗ ngồi, đánh xe rẽ sang đường nhánh bên tay trái.

“Nếu tôi làm thế này không quá mạo phạm” Tristran nói, “thì cho phép tôi mạo muội hỏi, ông đang tìm kiếm gì vậy?”

“Định mệnh của ta,” người đàn ông nói, sau một hồi im lặng. “Quyền cai trị của ta. Còn anh?”

“Có một cô gái đã bị xúc phạm bởi lối cư xử của tôi,” Tristran nói. “Tôi mong có thể đền bù được cho cô ấy.” Và khi nói câu này, anh biết anh đang nói thật lòng.

Tay xà ích lầm bầm gì đó.

Tấm màn lá của khu rừng chẳng mấy đã càng lúc càng mỏng. Cây cối thưa thớt dần, và Tristran trợn tròn mắt nhìn những ngọn núi trước mặt họ, miệng há hốc. “Nhìn núi kìa!” anh nói.

“Khi nào anh già dặn hơn,” bạn đồng hành của anh nói, “anh phải ghé thăm thành trì của ta mới được, nó nằm tít trên những vách đá cheo leo của núi Huon cơ. Đó mới là núi, và từ nơi đó, chúng ta có thể nhìn xuống những dãy núi mà nếu so với chúng thì những thứ kia" - y ra dấu về phía đỉnh núi Bụng ở ngay trước mặt họ - “chỉ là những ngọn đồi thấp khiêm nhường nhất trần đời.”

“Thật lòng mà nói,” Tristran đáp, “tôi mong sẽ dành nốt phần đời còn lại làm một anh nông dân chăn cừu trong làng Bức Tường, vì những phấn khích tôi trải qua tính đến thời điểm này đã vượt quá mức bất kỳ ai có thể cần đến rồi, nào là nến rồi cây rồi cô gái và kỳ lân. Nhưng tôi xin được nhận lời mời đầy hiếu khách này, và xin cảm ơn ông. Nếu có khi nào ông ghé thăm Bức Tường, nhất định ông phải tạt qua nhà tôi nhé, rồi tôi sẽ biếu ông quần áo len cùng pho mát cứng, và món thịt cừu hầm đủ cho ông ăn đến nứt bụng ra thì thôi.”

“Anh tử tế quá,” người xà ích nói. Con đường giờ đã dễ đi hơn, chỉ toàn sỏi vụn và đá tảng đã được ép phẳng xuống mặt đường, và hắn quất roi đen đét hối thúc bốn con ngựa đen chạy nhanh hơn. “Vậy ra anh đã nhìn thấy một con kỳ lân hả?”

Tristran đã định kể cho người bạn đồng hành nghe toàn bộ nội tình cuộc đụng độ với con kỳ lân, nhưng rồi anh nghĩ lại, và chỉ nói đơn giản, “Nó là con vật cao quý nhất.”

“Kỳ lân là loài sinh vật thuộc về mặt trăng” người xà ích nói. “Ta chưa từng nhìn thấy con nào. Nhưng nghe nói chúng phụng sự mặt trăng và tuân theo mọi ý muốn của mặt trăng. Đến tối mai chúng ta sẽ tới chỗ núi. Ta sẽ dừng lại nghỉ ngơi lúc hoàng hôn tối nay. Nếu muốn, anh có thể ngủ bên trong xe ngựa; còn ta sẽ ngủ bên cạnh đống lửa.” Giọng người đàn ông không có chút thay đổi nào, nhưng Tristran biết rõ, với một sự chắc chắn mãnh liệt đến độ vừa bất ngờ vừa choáng váng, rằng người đàn ông này đang sợ hãi một thứ gì đó, đang kinh hoảng tới tận đáy sâu tâm hồn.

Tối đó, ánh chớp lập lòe trên các đỉnh núi. Tristran ngủ trên cái ghế da trong cỗ xe, gối đầu lên một bao yến mạch; anh mơ thấy những con ma, mặt trăng và các vì sao.

Tảng sáng, trời bắt đầu đổ mưa, đột ngột như thể bầu trời bỗng hóa thành nước. Những đám mây xám là là giấu các ngọn núi khuất khỏi tầm nhìn. Giữa cơn mưa như trút, Tristran và người xà ích thắng ngựa vào xe và bắt đầu lên đường. Con đường giờ toàn dốc, và lũ ngựa giữ tốc độ như khi đi bộ.

“Anh cứ vào trong đi,” người xà ích nói. “Việc gì mà cả hai ta đều phải chịu ướt chứ.” Họ đang khoác chung một tấm vải dầu vừa tìm thấy lúc nãy bên dưới ghế xà ích.

“Tôi khó mà có thể ướt hơn được nữa,” Tristran nói, “trừ phi nhảy thẳng xuống sông. Tôi cứ ở lại đây thôi. Hai cặp mắt và hai đôi tay có lẽ sẽ hỗ trợ được kha khá cho chúng ta đấy.”

Bạn đồng hành của anh làu nhàu gì đó. Hắn đưa bàn tay ướt lạnh lên lau nước mưa trên mắt và miệng, rồi hắn nói, “Anh ngốc quá, anh bạn. Nhưng ta đánh giá cao điều này.” Hắn chuyển sợi dây cương sang tay trái và chìa bàn tay phải ra. “Ta được biết đến với tên Primus. Hoàng tử Primus.”

“Tristran. Tristran Thorn,” anh nói, chẳng hiểu sao lại có cảm giác người đàn ông này đã giành được quyền biết tên thật của anh.

Họ bắt tay nhau. Mưa rơi nặng hạt hơn. Bầy ngựa giảm tốc độ, nhích đi từng chút một khi con đường biến thành một dòng suối nhỏ, còn cơn mưa nặng hạt đã che khuất toàn bộ tầm nhìn, y như là một màn sương mù vô cùng dày đặc.

“Có một gã đàn ông” hoàng tử Primus nói, lúc này phải hét váng lên mới át được tiếng mưa, gió quất từng lời bay ra khỏi môi hắn. “Y cao, trông na ná như ta, nhưng gầy hơn, giống quạ hơn. Mắt y có vẻ lờ đờ vô tội, nhưng bên trong đó ẩn tàng cái chết. Y được gọi là Septimus, vì y là người con trai thứ bảy được cha chúng ta sinh ra. Nếu có khi nào gặp y thì anh cứ chạy trốn đi. Ta mới là đối tượng của y. Nhưng y sẽ chẳng chùn tay mà giết chết anh một khi anh cản đường y, hoặc có lẽ, y sẽ chẳng ngại ngần gì mà không biến anh thành công cụ giết chết ta.”

Một luồng gió hoang dại trút nguyên cả xô nước xuống cổ Tristran.

“Y có vẻ là một kẻ hết sức nguy hiểm,” Tristran nhận xét.

“Y là kẻ nguy hiểm nhất anh có thể gặp trên đời.”

Tristran lẳng lặng nhìn vào trong màn mưa cùng bóng tối đang buông dày hơn. Càng lúc, con đường càng khó để nhìn ra. Primus lại lên tiếng, bảo, “Nếu anh mà hỏi thì ta phải nói rằng cơn bão này có gì đó thật phi tự nhiên.”

“Phi tự nhiên?”

“Hoặc vượt quá tự nhiên; siêu nhiên, tùy anh gọi thế nào thì gọi. Hy vọng trên đường sẽ có nhà trọ. Bọn ngựa cần nghỉ ngơi, còn ta chỉ muốn một cái giường khô ráo cùng bếp lửa ấm áp. Và cả một bữa ăn ngon nữa.”

Tristran hét lên đồng thuận. Họ ngồi cạnh nhau, càng lúc càng ướt nặng hơn. Tristran nghĩ đến ngôi sao cùng con kỳ lân. Giờ chắc cô lạnh lắm, lại còn ướt nữa. Anh thấy lo cho cái chân gãy của cô, thầm nghĩ chắc cô phải bị cái yên làm cho đau đớn lắm. Toàn bộ chuyện này là lỗi của anh. Anh thấy thật khổ sở.

“Tôi là người khốn khổ nhất trần đời,” anh nói với Hoàng tử Primus, lúc họ dừng lại cho lũ ngựa ăn món yến mạch ướt nhoét lấy từ túi thức ăn cho ngựa.

“Anh còn trẻ, lại còn đang yêu,” Primus nói. “Mọi thanh niên ở vào hoàn cảnh của anh đều là anh chàng khốn khổ nhất trần đời.”

Tristran lấy làm lạ không biết bằng cách nào Hoàng tử Primus có thể đoán ra sự tồn tại của Victoria Forester. Anh tưởng tượng ra cảnh mình quay về Bức Tường, ngồi trước lò sưởi sáng rực nơi phòng khách, kể cho cô nghe về các chuyến phiêu lưu của mình; nhưng chẳng hiểu sao mọi câu chuyện của anh đều có vẻ hơi tẻ nhạt.

Ngày hôm đó, ngay từ tảng sáng trời dường như đã sâm sẩm tối, và giờ bầu trời cơ hồ đã đen kịt. Con đường họ đang đi vẫn tiếp tục dốc lên. Mưa ngớt một lát, nhưng rồi lại trút xuống gấp đôi, dữ dội hơn bao giờ hết.

“Có phải ở kia có ánh đèn không nhỉ?” Tristran hỏi.

“Ta chẳng nhìn thấy gì cả. Có khi là ma trơi, hay ánh chớp...” Primus nói. Ngay sau đó, họ đã đến một ngã rẽ trên đường, và hắn nói, “Ta nhầm rồi. Đó đúng là ánh đèn. Mắt tinh lắm, chàng trai. Nhưng có vô khối thứ xấu xa ở giữa những ngọn núi này. Chúng ta đành phải hy vọng rằng chúng sẽ thân thiện.”

Giờ mục tiêu đã ở ngay trong tầm mắt, lũ ngựa được tiếp thêm năng lượng, bèn gia tăng tốc độ. Một ánh chớp lóe lên chiếu tỏ những ngọn núi cheo leo đang vươn lên ở hai bên sườn họ.

“Chúng ta gặp may rồi!” Primus nói, chất giọng trầm của y oang oang như sấm dậy. “Đó là một quán trọ!"