← Quay lại trang sách

HĂMLET HUYỆN SIGRÔPXKI

Trong một chuyến đi chơi, tôi được một địa chủ giàu có đồng thời là người đi săn, tên là Alêcxanđr Mikhailưts G., mời đến ăn bữa chiều tại nhà ông ta. Hồi ấy tôi nghỉ tạm ở một làng nhỏ cách cái làng lớn của ông chừng mười lăm dặm.

Tôi mặc áo frăc ( [131] ) (tôi không khuyên bất cứ ai nên đi ra ngoài nếu không có cái áo ấy, dù là đi săn chăng nữa), và tôi lên đường đến chỗ Alêcxanđr Mikhailưts. Chủ nhân mời ăn vào sáu giờ tối, tôi đến lúc năm giờ và đã thấy ở đấy rất nhiều người quí tộc: một số mặc chế phục, hoặc áo dài thông thường và một số mặc những bộ y phục khác khó gọi tên dứt khoát hơn. Chủ nhân đón tiếp tôi một cách niềm nở, nhưng liền đó ông chạy ngay vào phòng những người hầu bàn. Ông đang chờ đón một vị quan to và có vẻ hơi hồi hộp, điều đó hoàn toàn không hợp với địa vị độc lập và sự giàu có của ông. Alêcxanđr Mikhailưts chưa bao giờ lấy vợ và không ưa đàn bà; khách khứa lui tới nhà ông hầu như toàn là những người độc thân. Ông ta sống trong cảnh giàu sang, mở mang dinh cơ của cha ông để lại, tu sửa nhà cửa thật tráng lệ, hàng năm đặt mua ở Matxcơva mười lăm ngàn rúp rượu nho và nói chung, ông được mọi người hết sức kính trọng. Alêcxanđr Mikhailưts đã về hưu từ lâu và chẳng cố chạy lấy một chức vị danh giá nào cả...

Vậy thì cái gì đã khiến ông tha thiết mong mỏi cuộc đến thăm của ông khách quyền cao chức trọng kia và lo lắng từ sáng đến giờ trong ngày thết tiệc long trọng này? Điều đó vẫn nằm trong bóng tối bí ẩn, như một thày kiện quen tôi thường nói khi người ta hỏi ông ta có ăn tiền của những người tự nguyện đút lót không.

Sau khi ông chủ đã chạy đi nơi khác, tôi bắt đầu đi dạo qua các phòng. Khách khứa hầu hết là những người tôi không quen. Chừng hai chục người đã ngồi quanh cái bàn đánh bạc. Trong số người ham mê đỏ đen ấy, có hai quân nhân vẻ mặt cao quí nhưng phờ phạc, mấy viên chức dân sự thắt cà vạt cao, chặt khít, ria mép nhuộm màu rủ xuống, loại ria thường chỉ thấy ở những người cương quyết nhưng trung chính (những người trung chính ấy nghiêm trang chọn quân bài, và không quay đầu,  chỉ liếc ngang nhìn những người đến gần); năm hay sáu viên chức trong hạt, bụng tròn, tay nhỏ nhắn mũm mĩm và nhâm nhấp mồ hôi, chân cũng bé, không động đậy, nom rất mực khiêm tốn (các ngài ấy nói bằng giọng mềm mỏng, mỉm cười dịu dàng hướng về mọi phía, giữ bài ngay trước ngực áo sơ mi, và khi đánh lá bài thì không quật bài xuống bàn, mà trái lại, uyển chuyển buông bài xuống tấm dạ xanh, và khi lên những con bài ăn thì làm phát ra tiếng ken két nhè nhẹ, rất lễ độ và lịch sự).

Những người quí tộc khác ngồi trên các đi văng, túm tụm gần các cửa ra vào và cửa sổ. Có một địa chủ đã đứng tuổi, nhưng bề ngoài nom giống đàn bà, đứng trong góc phòng, run rẩy, đỏ mặt lên và bối rối vân vê cái vật trang sức ở dây đeo đồng hồ lủng lẳng trước bụng, nhưng chẳng ai để ý đến ông ta. Có mấy ông, mặc áo frắc tròn trĩnh và quần bằng vải kẻ ô vuông, đấy là sản phẩm của tay thợ may người nước ngoài ở Matxcơva, tên là Firx Kliukhin, một thợ cả bất hủ của phường may mặc.

Mấy ông này đang bàn luận hết sức buông tuồng và hăm hở, quay đi quay lại một cách dễ dàng những cái gáy béo mập và nhẵn thín. Một người trạc tuổi đôi mươi, cận thị, tóc vàng nhạt, vận đồ đen từ đầu đến chân, nom có vẻ rụt rè, nhưng lại mỉm cười châm chọc.

Tôi đã bắt đầu hơi chán thì bỗng nhiên có một  người đến cạnh tôi: đó là Voinitsưn, một gã trai học hành dở dang, sống ở nhà Alêcxanđr Mikhailưts với tư cách là... Thật cũng khó nói là với tư cách gì.

Anh ta bắn rất giỏi và biết luyện chó. Tôi quen anh ta từ hồi anh ta còn ở Matxcơva. Anh ta thuộc loại những thanh niên mà trong mọi kì thi thường "đứng ngây ra như phỗng", nghĩa là tịt mít trước các câu hỏi của giáo sư. Nói cho đẹp lời, các ngài ấy cũng còn được gọi là các chàng có râu quai. (Các bạn hẳn cũng rõ là thời ấy cách đây lâu rồi). Sự việc thường diễn ra như thế này: chẳng hạn, Voinitsưn được gọi tên. Trước đó anh ta vẫn ngồi ngay người, không nhúc nhích trên ghế dài của mình, từ chân đến đầu đẫm mồ hôi nóng và thong thả đưa mắt ngơ ngẩn nhìn quanh. Anh ta bèn đứng lên, hấp tấp cài cúc chiếc áo đồng phục cho tới tận cằm và nghiêng người lách về phía bàn giám khảo: "Mời anh lấy phiếu đề thi" - giáo sư nói với anh ta một cách nhã nhặn. Voinitsưn chìa tay ra và run run chạm những ngón tay vào đống phiếu. "Không được chọn" - một ông già nhỏ bé, lạ mặt, hay cáu bỗng nói bằng giọng run run, đấy là ông giáo sư của một khoa khác, ông ta bỗng đâm ghét gã sinh viên có râu quai xấu số này. Voinitsưn phục tùng số mệnh, lấy phiếu, đưa số báo danh của mình ra, đến gần cửa sổ trong lúc người rút phiếu trước anh ta trả lời câu hỏi. Ở gần cửa sổ, Voinitsưn  không rời mắt khỏi phiếu đề thi, chỉ trừ những lúc anh ta đưa mắt nhìn quanh một cách chậm chạp như trước, còn thì anh không động đậy chân tay một chút nào. Nhưng người trước đã trả lời xong, người ta nói với người đó: "Khá, anh có thể ra được rồi", hay thậm chí "Khá, rất khá", tùy theo khả năng của người thi. Voinitsưn được gọi lên. Anh ta đứng dậy và quả quyết bước tới gần bàn. "Anh đọc đề bài lên" - người ta bảo anh. Voinitsưn dùng hai tay bưng cái phiếu đề thi lên sát tận mũi, thong thả đọc và thong thả buông hai tay xuống. "Nào, xin mời anh trả lời" - vẫn ông giáo sư ấy vừa nói một cách uể oải vừa ngả người ra sau và khoanh tay trước ngực. Lặng phắc như tờ. "Sao anh lại im lặng thế?". Voinitsưn vẫn làm thinh. Ông già lạ mắt bắt đầu ngọ nguậy tỏ vẻ sốt ruột. "Thì biết được gì cứ nói đi chứ?". Anh chàng Voinitsưn của tôi cứ nín thít như đã chết đứng. Cái gáy hớt cao, thẳng đứng và bất động của anh ta là cái đích hứng lấy những luồng mắt tò mò của tất cả các bạn. Hai con mắt của ông giáo sư già lạ mặt như muốn bật ra: ông ta ghét cay ghét đắng Voinitsưn "Lạ thật - Một ông giám khảo khác nói - Sao anh cứ đứng lặng như người câm thế? Thế nào, anh không trả lời được câu ấy à? Vậy thì nói thẳng ra đi". - "Xin cho phép tôi rút phiếu khác ạ" - Anh chàng bất hạnh nói bằng giọng khàn khàn. Các giáo sư nhìn  nhau. "Thôi được, mời anh" - ông chủ khảo khoát tay, đáp. Voinitsưn lại rút phiếu, lại đến gần cửa sổ, lại trở lại gần bàn, và lại im lặng như cái xác không hồn. Ông già lạ mặt như muốn ăn tươi nuốt sống anh. Cuối cùng, người ta đuổi anh ra và cho điểm "0". Hẳn là các bạn cho rằng lúc ấy anh ta sẽ đi ra chứ gì? Không đâu! Anh ta trở về chỗ của mình, cứ ngồi đực ra như thế cho đến cuối buổi thi, và khi ra về, anh ta kêu lên: "Rõ thật là cái tội cái nợ! Bài gì mà quái quỉ thế kia chứ!" Và suốt ngày hôm ấy anh ta đi lang thang trong thành phố Matxcơva, thỉnh thoảng lại đưa tay lên ôm đầu và cay đắng nguyền rủa cái tài hèn của mình. Tất nhiên là anh ta không mó đến sách, và sáng hôm sau, câu chuyện cũ lại tái diễn.

Chính Voinitsưn ấy đã đến cạnh tôi. Chúng tôi nói chuyện với nhau về Matxcơva, về việc đi săn.

Anh ta bỗng nói thầm với tôi:

- Ông có muốn tôi giới thiệu với ông một tay miệng lưỡi sắc sảo nhất ở đây không?

- Xin nhờ ông.

Voinitsưn dẫn tôi đến gần một người tầm vóc nhỏ, có một chòm tóc cao trước trán và để ria mép, mặc áo frăc màu nâu và đeo chiếc cà vạt sặc sỡ.

Những đặc điểm ngoại hình cay nghiệt, linh lợi của ông ta quả thực là toát ra vẻ thông minh và độc ác. Nụ cười châm chọc, phảng phất trên miệng luôn luôn làm cho cặp môi ông ta méo đi; cặp mắt nhỏ màu đen, nheo nheo dưới hai hàng mi không đều, nom đến là xấc xược. Đứng cạnh ông ta là một địa chủ người to ngang, dáng vẻ mềm mỏng, dịu ngọt - đúng là Đường - Mật - và chột mắt. Ông ta cười hưởng ứng trước câu nói hóm của con người nhỏ nhắn kia và dường như tan ra vì thích thú. Voinitsưn giới thiệu tôi với con người miệng lưỡi sắc sảo ấy, tên ông ta là Piôtr Pêtôrôvits Lupikhin. Chúng tôi làm quen với nhau, nói mấy lời chào hỏi đầu tiên.

- Xin phép giới thiệu với ông người bạn tốt nhất của tôi - Lupikhin bỗng nói bằng giọng gay gắt và chộp lấy tay ông địa chủ dịu dàng - Này, thôi đừng ương gàn nữa, Kirila Xêlifanưts - ông ta nói thêm chẳng ai cắn anh đâu. Đây này - ông ta nói tiếp, trong lúc Kirila Xêlifanưts cúi chào một cách vụng về như thể bụng ông ta đã tụt mất - tôi xin giới thiệu, đây là một vị quí tộc rất tuyệt diệu. Cho đến năm năm mươi tuổi, ông vẫn khỏe như vâm, thế rồi tự dưng ông nảy ra ý định chữa mắt, rút cuộc là ông đâm ra chột. Từ đó, ông vẫn chữa bệnh cho nông dân của mình, và cũng đạt được kết quả như thế... Còn họ thì tất nhiên là, với lòng trung thành rất mực...

- Cái ông này rõ thật là... - Kirila Xêlifanưts lầu bầu và bật cười.

- Nói nốt đi chứ, ông bạn của tôi, nói cho hết lời đi chứ - Lupikhin tiếp luôn - Nên biết rằng ông có thể được bầu làm quan toà lắm chứ, mà nhất định là ông sẽ được bầu vào chức vụ đó, đấy rồi ông xem. Cố nhiên là các bồi thẩm sẽ nghĩ thay cho ông, cứ giả dụ như thế đi. Nhưng dù sao, để tránh mọi điều không hay, vẫn cứ cần phải biết phát biểu ý kiến, dù là nói lên ý kiến của người khác đi nữa. Có thể là bất thần quan chủ tỉnh ghé vào thăm, ngài hỏi: sao quan toà lại nói lắp bắp như thế? Giả dụ là người ta sẽ trả lời: ông ấy vừa bị trúng gió. Quan chủ tỉnh sẽ bảo: thế thì chích máu cho ông ấy mau đi. Hẳn ông phải đồng ý với tôi rằng ở địa vị ông mà xảy ra như thế thì chẳng hay ho gì.

Ông địa chủ mát tính phá lên cười.

- Ông xem, ông ấy cười được kia chứ - Lupikhin nói tiếp, hằn học nhìn cái bụng rung chuyển của Kirila Xêlifanưts. Nhưng tội gì ông ta không cười nhỉ? - Lupikhin nói thêm với tôi - ông ấy no đủ, khỏe mạnh, không có con, nông dân của ông ấy không ốm đau - ông ấy vẫn chữa bệnh cho họ mà -, vợ ông ấy hơi gàn dở (Kirila Xêlifanưts quay mặt đi một chút, giả tảng như không nghe thấy, và vẫn cười hô hô). Tôi cũng cười, nhưng vợ tôi đã bỏ đi theo một gã nhân viên đạc điền (ông ta nhe răng ra). Thế ông không biết chuyện ấy à? Đúng thế đấy! Cô ả bỗng dưng bỏ trốn và để lại một lá thư,  đại khái là: anh Piôtr Pêtôrôvits thân mến, mong anh thứ lỗi; em không thể cưỡng nổi mối tình say mê, nên đành bỏ đi với người bạn lòng của em...Còn gã đạc điền kia cuỗm được cô ả chỉ là vì gã không cắt móng tay và gã mặc quần bó sát mông. Ông ngạc nhiên à? Hẳn ông nghĩ: anh chàng này bộc tuệch quá. Nhưng lạy Chúa! Dân thảo nguyên chúng tôi vốn quen nói toạc móng heo ra như vậy. Nhưng thôi, ta ra đằng này đi... Chẳng nên đứng gần vị quan toà tương lai làm gì...

Ông ta khoác tay tôi, và chúng tôi đến gần cửa sổ.

- Ở đây tôi nổi tiếng là miệng lưỡi sắc sảo - ông ta nói với tôi trong lúc chuyện trò - ông đừng tin điều đó. Tôi chỉ là một kẻ bị chọc tức và chửi vung lên: bởi vậy tôi là thằng bạt tử. Mà tôi cần gì phải giữ lễ nhỉ? Tôi chẳng thèm đếm xỉa đến ý kiến của bất cứ ai và tôi chẳng mưu cầu gì hết. Tôi là kẻ độc ác vậy thì đã sao kia chứ? Kẻ độc ác ít ra cũng không cần trí khôn. Mà như vậy thì đầu óc nhẹ đi được rất nhiều, ông không thể tưởng tượng được đâu Cứ lấy ví dụ thế này thôi nhé, ông hãy nhìn ông chủ của chúng ta mà xem! Ông làm ơn cắt nghĩa cho tôi rõ: vì lẽ gì mà ông ta chạy lên chạy xuống, chốc chốc lại nhìn đồng hồ, mỉm cười, toát mồ hôi, làm ra vẻ trịnh trọng, bắt chúng ta phải chờ đợi đến đói khổ đói sở thế này? Làm như một  ông quan là cái gì lạ kỳ lắm đấy! Đây kìa, ông ta lại tất tưởi chạy đi, mà lại tập tễnh nữa chứ, ông xem kìa.

Và Lupikhin cười ré lên.

- Chán một nỗi là không có các bà đến dự - ông ta nói tiếp, kèm theo tiếng thở dài - một bữa ăn của những kẻ độc thân: Nếu có các bà ấy thì bở cho anh em ta. Ông xem kìa, xem kìa - ông ta bỗng kêu lên - người đang đi kia là công tước Kôzenki, cái người đàn ông cao lớn, có râu, đeo bao tay màu vàng kia kìa. Nom thấy ngay là ông ta đã từng ra nước ngoài... và bao giờ ông ta cũng đến muộn như thế. Xin nói với ông là y đần có một, đần như cặp ngựa của nhà buôn, và giá như ông được thấy y có thái độ hạ cố như thế nào khi nói chuyện với bọn chúng tôi, giá như ông được thấy y mỉm cười độ lượng như thế nào để đáp lại những lời chúc tụng của các bà mẹ và những đứa con gái đói khổ của chúng tôi!... Ấy vậy mà đôi khi y cũng nói những câu hài hước kia đấy, tuy là mỗi lần qua đây y chỉ ghé lại ít ngày thôi. Nhưng y pha trò hài hước như thế nào mới được chứ? Thật đúng là y dùng con dao cùn cứa sợi dây thừng. Y không thể chịu nổi tôi...Tôi đến chào y đây.

Lupikhin chạy về phía công tước.

- Còn kia là kẻ thù riêng của tôi - ông ta đột  nhiên quay về phía tôi và nói - ông thấy cái gã to béo, mặt nâu sẫm và tóc chởm ngược trên đầu như cái bàn chải ngựa kia chứ, đấy, cái gã vo mũ vào trong tay, đang men tường lách đi và lơ láo nhìn khắp các phía như chó sói kia kìa. Tôi đã bán cho hắn một con ngựa với giá bốn trăm rúp, nhưng ngựa của tôi đáng giá một nghìn rúp kia; và bây giờ thằng cha "ăn không nên đọi, nói không nên nhời" ấy hoàn toàn có quyền khinh miệt tôi. Thế nhưng bản thân hắn rất thiếu trí tưởng tượng, đặc biệt vào buổi sáng, trước bữa trà, hay liền sau bữa trưa, nếu người ta nói với hắn: chào ông, thì hắn trả lời: Cái gì? Kia là một viên quan - Lupikhin nói tiếp - một viên quan tam phẩm về hưu, một viên quan đã phá sản. Ông ta có cô con gái làm bằng đường củ cải, và nhà máy của ông ta mắc bệnh tràng nhạc... Chết nỗi, tôi nói nhầm... nhưng thôi, ông hiểu rồi đấy... A! cả ông kiến trúc sư cũng đến!

Một người Đức, mà lại để ria và không biết công việc của mình, kì lạ thay! Nhưng kể ra hắn cần quái gì phải am hiểu công việc của hắn; hắn chỉ cần ăn của đút và đặt cho thật nhiều cột ở mặt nhà của các ngài quí tộc trụ cột ( [132] ) của chúng ta thôi mà!

Lupikhin lại cười hô hố... Nhưng bỗng nhiên, cả nhà xôn xao lo ngại. Ông quan quyền cao chức trọng đã đến. Chủ nhân đâm bổ ra phòng ngoài.

Mấy người tâm phúc trong nhà và mấy ông khách sốt sắng đâm bổ theo... Tiếng chuyện trò ồn ào biến thành tiếng rì rầm dịu dàng, dễ nghe, giống như tiếng vo ve vào mùa xuân của những con ong trong tổ. Chỉ có con ong vò vẽ hiếu động Lupikhin và con ong đực Kôzenxki là không hạ thấp giọng... Và kia, con ong chúa đã vào: viên quan quyền cao chức trọng. Những trái tim băng tới đón mừng ông ta, những tấm thân đang ngồi nhổm dậy. Ngay cả ông địa chủ đã mua rẻ con ngựa của Lupikhin cũng gục cằm vào ngực. Ông quan giữ phong thái đường bệ không chê vào đâu được: đầu ngật ngật về phía sau như thể đáp lễ, ông ta thốt lên mấy lời khích lệ, trong đó mỗi lời đều bắt đầu bằng tiếng a kéo dài và phát âm bằng giọng mũi. Ông ta nhìn bộ râu của công tước Kôzenki với vẻ tức giận như muốn ăn tươi nuốt sống công tước và dùng ngón trỏ của bàn tay trái ban một cử chỉ ân cố cho viên quan tam phẩm có nhà máy và có con gái. Mấy phút sau - trong khoảng thời gian đó, quan lớn đã kịp nhấn mạnh hai lần rằng ngài rất vui sướng vì không đến muộn trong bữa tiệc, - tất cả mọi người vào phòng ăn, đi đầu là các vị tai to mặt nhớn.

Chắc không cần kể với bạn đọc những việc quen thuộc diễn ra sau đó: người ta mời ông quan chức trọng quyền cao ngồi vào chỗ trang trọng nhất giữa viên quan tam phẩm và vị thủ lĩnh giới quí tộc tỉnh (một người có vẻ mặt dễ dãi và đường hoàng, hoàn toàn xứng với cái ngực áo sơ mi hồ bột phẳng lì, với chiếc gi-lê rộng thùng thình và với cái hộp thuốc lá tròn đựng thuốc lá Pháp của mình); ông chủ bận rộn, tất tưởi chạy đi chạy lại, lo sao cho việc thết đãi khách được chu đáo, mỉm cười khi đi qua sau lưng ông quan to, và đứng trong góc phòng như một gã học trò, hối hả húp vội một đĩa súp hay nuốt vội một miếng thịt bò; người quản gia đưa lên một con cá dài một arsin rưỡi, miệng cá cắm một bó hoa; đầy tớ trong nhà mặc chế phục, vẻ mặt nghiêm nghị, cau có đến rót rượu hầu từng vị quí tộc: khi thì rượu malaga, khi thì rượu đrâymađeka ( [133] ); hầu hết các vị quí tộc, đặc biệt là các vị đứng tuổi, dường như miễn cưỡng, thể theo nhiệm vụ phải uống hết cốc rượu này đến cốc khác; cuối cùng, những chai rượu sâm banh nổ đôm đốp và người ta bắt đầu nâng cốc chúc mừng nhau.

Tất cả những cái đó, có lẽ bạn đọc biết quá rõ rồi. Nhưng tôi cho rằng đáng chú ý nhất là câu chuyện mà chính viên quan nọ đã kể trong bầu không khí im lặng vui sướng của tất cả những người dự tiệc. Có người nào, hình như là viên quan tam phẩm phá sản, một người hiểu biết văn chương hiện đại, có nhắc đến ảnh hưởng của phái đẹp nói chung và đặc biệt là ảnh hưởng của họ đối với những người trẻ tuổi. "Đúng, đúng - vị đại quan đỡ lời - đúng thế đấy. Nhưng cần phải bắt bọn trẻ hoàn toàn vâng theo người trên, phải nghiêm với họ, không thì có lẽ bất cứ cái váy nào cũng có thể làm cho họ phát điên lên mất" (Nụ cười vui vẻ như nụ cười của trẻ thơ lướt trên mặt tất cả các vị khách. Một vị địa chủ thậm chí còn nhìn viên quan với cặp mắt long lanh đầy vẻ biết ơn). "Ấy là vì bọn trẻ vốn ngốc nghếch" (có lẽ để cho lời nói của mình thêm vẻ quan trọng, đôi khi ông ta thay đổi trọng âm của các từ). "Đây là một ví dụ; tôi có một thằng con tên là Ivan - ông ta nói tiếp - thằng ngốc ấy mới có hai chục tuổi ranh, thế mà một hôm nó bỗng nói với tôi: "Thưa ba, ba cho con cưới vợ đi ạ". Tôi bảo nó "Thằng ngốc, hãy kiếm lấy một chức vị đi đã". Thế rồi là thất vọng, nước mắt...nhưng tôi...ờ " (Ông ta phát âm tiếng ờ bằng bụng hơn là bằng môi; ông ta im lặng và oai vệ nhìn viên quan tam phẩm ngồi bên, và nhướn lông mày cao quá mức ta có thể tưởng tượng được. Viên quan tam phẩm hơi nghiêng đầu sang bên với vẻ thích thú và chớp mắt rất nhanh nhìn vị đại quan). "Thế rồi cũng đâu vào đấy - vị đại quan lại lên tiếng - bây giờ chính nó viết thư cho tôi, nói rằng cám ơn ba đã  dạy dỗ đứa con ngu ngốc... ấy đấy, cứ phải như thế mới được". Dĩ nhiên, tất cả các vị khách đều đồng ý với người kể chuyện và dường như đều tươi tỉnh hẳn lên vì thích thú và vì đã thu được một bài học bổ ích... Sau bữa ăn, mọi người đứng lên và ra phòng khách, tiếng ồn ào nổi lên to hơn, nhưng vẫn lịch sự, vả chăng ồn ào vào lúc này thì cũng được thôi... Mọi người ngồi vào bàn chơi bài.  Tôi rán chờ đến chiều, và sau khi đã dặn người đánh xe của tôi sửa soạn năm giờ sáng hôm sau lên đường, tôi đi nghỉ. Nhưng cũng trong ngày hôm ấy, tôi sẽ còn có dịp làm quen với một con người đặc sắc.

Vì khách đến rất đông, nên không ai ngủ riêng buồng. Khi quản gia của Alêcxanđr Mikhailưts đưa tôi vào căn phòng nhỏ quét vôi và nhuốm hơi ẩm thì ở đấy đã có một ông khách khác. Ông ta đã cởi quần áo ngoài để đi nằm. Thấy tôi, ông ta nhanh nhẹn chui vào chăn, kéo chăn lên đến mũi, ngọ nguậy một chút trên cái đệm lông chim bồng bềnh, rồi nằm yên, cặp mắt tinh tường ló ra dưới cái đường rìa tròn của chiếc mũ giấy. Tôi tới chiếc giường kia (trong phòng có hai giường cả thảy), cởi quần áo ngoài và nằm vào đám chăn đệm ẩm. Người nằm gần tôi trăn trở trên giường... Tôi chúc ông ngủ yên.

Nửa giờ sau. Tôi gắng chợp mắt mà không được: những ý nghĩ mung lung vô ích, nối đuôi nhau thành chuỗi dài vô tận, cứ ám ảnh diễn qua trong óc tôi, buồn tẻ như những chiếc thùng của máy kéo nước.

- Hình như ông chưa ngủ thì phải? - Người nằm gần tôi hỏi.

- Ông thấy đấy, - tôi đáp - mà ông cũng không ngủ được ư?

- Tôi chẳng bao giờ ngủ được cả.

- Thế là thế nào?

- Vậy thôi. Không rõ duyên do tại sao, tôi thường cứ thiếp đi lúc nào không biết; nằm mãi, nằm mãi, rồi thiếp đi.

- Thế thì tại sao chưa buồn ngủ ông đã đi nằm?

- Vậy ông bảo tôi làm gì kia chứ?

Tôi không trả lời câu hỏi của ông bạn nằm cạnh.

- Tôi lấy làm ngạc nhiên vì ở đây không có rệp - ông ta nói tiếp sau một lúc im lặng - ở đây mà không có thì còn ở đâu có nữa?

- Hình như ông lấy làm tiếc vì không thấy rệp thì phải - Tôi hỏi.

- Không, tôi không tiếc; nhưng tôi thích sự quán triệt trong tất cả mọi việc.

"Chà - chà - tôi nghĩ - ông ta dùng những từ thông thái gớm".

Người kia im lặng.

- Ông có muốn đánh cuộc với tôi không? - ông ta bỗng nói khá to.

- Cuộc gì kia?

Người bạn cùng buồng bắt đầu khiến tôi thích thú.

- Hừm - cuộc gì à? Cuộc thế này này: tôi tin chắc rằng ông coi tôi là thằng ngốc.

- Thôi xin ông - tôi ngạc nhiên, nói ấp úng.

- Ông coi tôi là một kẻ thô lậu ở thảo nguyên, một kẻ ngu dốt...

- Tôi chưa có cái may mắn được quen biết ông - tôi bác lại - Tại sao ông có thể kết luận là...

- Tại sao? Chỉ nghe giọng nói của ông cũng đủ rõ. Ông trả lời tôi với vẻ thờ ơ như thế... Nhưng tôi hoàn toàn không như ông tưởng đâu...

- Xin ông đừng...

- Không, chính ông đừng nghĩ nhầm. Thứ nhất là tôi nói tiếng Pháp không kém gì ông, còn tiếng Đức thì tôi nói thậm chí còn khá hơn ông. Hai là tôi đã ở nước ngoài ba năm, riêng ở Berlanh, tôi đã lưu lại tám tháng. Thưa tôn ông, tôi đã nghiên cứu Hêghen, thuộc lòng các tác phẩm của Gớt. Hơn nữa, tôi đã mê con gái một giáo sư Đức trong một thời gian dài, ấy thế mà về đây tôi lại lấy một tiểu  thư mắc bệnh lao, hói tóc, nhưng có cá tính đặc biệt. Vì vậy, tôi với ông là trái quả cùng một vườn. Tôi không phải là kẻ dốt nát ở nơi thảo nguyên hoang dã như ông tưởng... Tôi cũng héo mòn vì suy nghĩ, tôi chẳng có gì là hồn nhiên cả đâu.

Tôi ngẩng đầu lên và nhìn con người kỳ quặc kia càng chăm chú gấp bội. Dưới ánh đèn ngủ đêm lờ mờ, tôi phải cố gắng lắm mới thấy được nét mặt ông ta.

- Đấy bây giờ ông đang nhìn tôi - ông ta sửa lại cái mũ trùm đầu, nói tiếp - và có lẽ ông đang tự hỏi: sao hôm nay ta không để ý đến y nhỉ? Tôi xin nói rõ tại sao ông không để ý đến tôi: ấy là vì tôi không nói to, vì tôi lẩn sau lưng người khác, tôi đứng sau cánh cửa, không chuyện trò với ai, vì tên quản gia nô, khi bưng khay đi và sắp qua chỗ tôi thì đã nâng khuỷu tay lên cao ngang ngực tôi...Còn vì sao như thế ư: Vì hai nhẽ: thứ nhất là tôi nghèo, hai nữa là tôi nhẫn nhịn... ông nói thật đi, ông không để ý đến tôi có phải không?

- Quả thực là tôi chưa có cái may mắn...

- Thì thế, đúng thế mà - ông ta ngắt lời tôi - tôi biết chứ.

Ông ta nhổm dậy và khoanh tay trước ngực; bóng cái mũ của ông ta dài ra, gẫy gập đi, phần in trên tường, phần in lên trần.

Ông thú thật đi - ông ta bỗng liếc ngang nhìn tôi và nói thêm - hẳn ông cho tôi là một kẻ hết sức kì quặc, một gã độc đáo, như người ta thường nói, hay có thể còn tệ hơn nữa: chưa biết chừng ông cho rằng tôi cố ý làm ra vẻ kì quặc cũng nên, phải thế không?

- Tôi đành phải nhắc lại với ông lần nữa rằng tôi không biết gì về ông...

Ông ta cụp mắt xuống một lát.

- Tại sao tôi chẳng quen biết gì ông mà bỗng dưng tôi lại đi chuyện trò huyên thuyên với ông như vậy nhỉ? Điều đó chỉ có trời biết, chỉ có trời biết! (Ông ta thở dài). Hẳn không phải vì tâm hồn chúng ta đồng điệu với nhau? Tôi và ông, chúng ta đều là những người đứng đắn, nghĩa là những kẻ ích kỉ: ông chẳng thiết gì tôi, tôi cũng chẳng bận tâm gì đến ông? Đúng không nào? Nhưng cả hai chúng ta đều không ngủ được... Vậy thì tại sao không tán gẫu một lúc? Tôi đang cao hứng, mà điều đó ít xảy ra với tôi ông biết không, tôi vốn rụt rè, mà rụt rè không phải vì tôi quê mùa, không có chức vị, nghèo hèn, mà vì tôi rất giầu tự ái. Nhưng đôi khi, do hoàn cảnh thuận lợi, do những sự tình cờ mà tôi không thể định rõ, không thể lường trước được, tính rụt rè của tôi biến mất, như bây giờ đây chẳng hạn. Bây giờ dù ông có cho tôi giáp mặt đức Đạt lai lạt ma tôi  cũng dám xin ngài cho tôi ngửi thuốc lá của ngài. Nhưng có lẽ ông buồn ngủ rồi chăng?

- Trái lại - tôi vội gạt đi - nói chuyện với ông, tôi rất thú.

- Nghĩa là tôi giải buồn cho ông, ông muốn nói thế chứ gì... Càng hay... Vậy xin thưa với ông rằng ở đây họ gọi tôi là một kẻ độc đáo, "họ" đây là những kẻ nhân câu chuyện phiếm, tình cờ nhắc đến tên tôi. Chẳng ai hơi đâu bận tâm đến số phận tôi. Họ nghĩ cách châm chọc tôi... ôi lạy Chúa! Nếu họ biết rằng... tôi lận đận cũng chính vì tôi không có cái gì đặc sắc hết, không có gì đặc sắc hết, trừ những lúc cuồng dại như lúc nói chuyện với ông bây giờ; nhưng những trò cuồng dại ấy không đáng giá một xu. Đấy là tính độc đáo thuộc loại rẻ tiền nhất và hèn kém nhất!

Ông ta quay mặt về phía tôi và vung hai tay lên.

- Thưa tôn ông! - ông ta kêu lên - Tôi cho rằng nói chung chỉ những người độc đáo là đáng sống trên đời; chỉ có họ mới có quyền sống. Mon verre n'est pas grand, mais je bois dans mon verre ( [134] ), có người nào đã nói như thế. Ông xem, tôi nói thứ tiếng Pháp chính cống đấy chứ - ông ta hạ giọng nói thêm - anh có cái đầu đồ sộ và giàu trí thức, hiểu rộng biết nhiều, theo kịp thời đại, nhưng lại không có gì đặc biệt riêng của mình vậy thì tôi thiết gì anh kia chứ! Trên đời này chỉ lắm những kho sáo ngữ thôi, nhưng điều đó đem lại lạc thú gì cho ai? Không, thà rằng anh đần, nhưng đần theo kiểu riêng của mình! Anh nên có cái mùi của anh, mùi riêng của anh, thế đấy! Và ông chớ tưởng rằng đòi hỏi của tôi về cái mùi đó là to tát lắm đâu... ồ không, lạy Chúa!

Những người độc đáo như thế nhiều vô kể, ở đâu cũng có; mỗi con người là một mẫu độc đáo, nhưng tôi lại không ở trong số người ấy?

Ông ta im lặng một lát rồi nói tiếp: - ấy thế mà hồi còn thanh niên tôi đã làm cho những người thân trông mong chờ đợi ở tôi biết bao nhiêu? Chính tôi cũng tự đánh giá mình rất cao trước khi ra nước ngoài, và cả thời gian đầu sau khi về nước nữa. Ồ, ở nước ngoài tôi hết sức giữ ý, lúc nào cũng tìm cách lánh riêng ra một chỗ, mà bọn chúng tôi làm như thế là phải thôi: cái gì chúng tôi cũng tự đoán theo ý mình, nhưng rút cuộc thì chẳng hiểu cái cóc khô gì hết!

- Kẻ độc đáo, kẻ độc đáo! - ông ta nói tiếp, lắc đầu với vẻ trách móc... - Người ta gọi tôi là kẻ độc đáo. Nhưng thực ra, trên đời không có kẻ nào kém độc đáo hơn kẻ môn hạ trung thành này của  ngài. Hẳn tôi sinh ra là để bắt chước người khác...Thực thế đấy! Tôi sống dường như cũng là để bắt chước những tác giả khác nhau mà tôi đã nghiên cứu tôi sống rất căng thẳng, mướt mồ hôi mặt.

Sau nữa, tôi học hành, yêu đương, lấy vợ dường như cũng không phải theo ý muốn của mình, mà như thực hiện một nhiệm vụ hay một bài học nào đó, ai mà biết rõ được!

Ông ta giật cái mũ trên đầu ra và ném xuống giường.

- Ông có muốn tôi kể cho ông nghe về đời tôi không? - ông ta hỏi tôi, giọng đứt quãng: - Hay tốt hơn là kể vài nét về đời tôi?

- Rất mong ông cho nghe.

- Hay là không, tốt hơn hết là tôi kể cho ông nghe tôi đã lấy vợ như thế nào. Vì lấy vợ là việc quan trọng, là hòn đá thử vàng đối với con người: toàn bộ con người hiện hình trong đó như trong tấm gương... Nhưng sự so sánh đó quá nhàm rồi...Cho phép tôi ngửi thuốc lá một lát.

Ông ta lấy hộp thuốc lá dưới cái gối, mở nắp và lại vừa nói vừa vung cái hộp thuốc đã mở.

- Thưa ông, ông hãy đặt mình vào địa vị tôi...

Ông thử xét xem, và ông làm ơn nói cho tôi biết, tôi có thể rút ra được điều gì bổ ích trong Bộ bách khoa  thư của Hêghen( [135] ) không? Xin ông cho biết giữa cái kiến thức bách khoa ấy và đời sống Nga có cái gì chung? Và ông bảo nên áp dụng nó vào sinh hoạt thường ngày của chúng ta như thế nào? Không chỉ riêng học thuyết Hêghen, mà toàn bộ triết học Đức nói chung... và tôi muốn nói cả khoa học nữa?

Ông ta nhẩy chồm lên trên giường và khẽ lầm bầm, hằn học nghiến răng:

- Ấy đấy thế đấy!... Vậy thì ngươi ra nước ngoài để làm gì? Sao ngươi không ở nhà và nghiên cứu cuộc sống xung quanh tại chỗ? Như vậy thì ngươi sẽ biết được cả những nhu cầu, cả tương lai của nó, và ngươi sẽ thấy rõ cả thiên chức của ngươi, nếu có thể nói như vậy? Nhưng xin hỏi ông - ông ta nói tiếp, dường như thanh minh, vẻ rụt rè - bọn tôi thì làm thế nào nghiên cứu được cái mà chưa một đầu óc thông minh nào từng viết vào sách! Ta sẽ rất vui sướng tiếp nhận những bài học của đời sống Nga, nhưng nó im lặng, con bồ câu yêu quí của tôi. Nó muốn nói: hãy tìm hiểu ta; nhưng tôi không đủ sức làm việc đó: hãy rút ra cho tôi một kết luận, hay giới thiệu với tôi cái kết quả cuối cùng... kết luận ư? - Thì  kết luận ấy đây, người ta bảo tôi: hãy nghe các nhà học giả Matxcơva của chúng ta. Họ không phải là chim hoạ mi sao? - Nhưng chính là vì họ hót như những con hoạ mi vùng Kurxk, chứ không nói tiếng người nên lại càng tệ...( [136] )... Tôi suy đi nghĩ lại mãi, tôi cho rằng khoa học ở đâu cũng thế, chân lý chỉ có một, thế là tôi đâm đầu sang nước người, đến với bọn tà đạo... Ông bảo làm thế nào được! Tuổi trẻ, tính kiêu ngạo đã xúi giục tôi. Ông biết không, tôi không muốn béo mỡ sớm quá, tuy người ta bảo rằng như thế là tốt. Nhưng người nào mà thiên nhiên không để cho có thịt thì cũng đừng hòng thấy mỡ trên cơ thể mình!

Ông ta nghĩ một lát rồi nói thêm: - Nhưng hình như tôi hứa kể cho ông chuyện tôi lấy vợ như thế nào. Ông nghe nhé. Trước hết, xin thưa với ông rằng vợ tôi không còn trên đời này nữa, hai nữa... hai nữa, tôi thấy rằng tôi sẽ phải kể cho ông về tuổi trẻ của tôi, không thì ông sẽ không hiểu gì hết... ông không buồn ngủ chứ?

- Không, tôi không buồn ngủ.

- Vậy thì hay lắm. Ông chú ý nghe nhé... vì ở buồng bên có ông Kantagriukhin đang ngáy như kéo gỗ! Bố mẹ tôi không giàu, tôi nói là bố mẹ, vì theo lời kể lại, ngoài mẹ ra, tôi còn có cả bố. Tôi không còn nhớ bố tôi như thế nào nữa. Người ta kể lại rằng bố tôi là một người thô thiển, mũi to, mặt rỗ tàn hương, tóc hung và hít thuốc lá một mũi. Trong buồng ngủ của mẹ tôi có treo bức chân dung bố tôi mặc đồng phục màu đỏ, cổ áo màu đen cao đến tai, bức chân dung cực xấu. Khi cần đánh đòn tôi người ta thường kéo tôi đến trước bức chân dung, và những lần ấy, bao giờ mẹ tôi cũng vừa chỉ bức chân dung vừa nói: bố mà còn thì mày không phải chỉ bị đòn như thế thôi đâu. Ông có thể tưởng tượng là điều đó khiến tôi phấn chấn như thế nào. Tôi không có anh em trai, cũng không có chị em gái. Thực ra thì tôi cũng có một thằng em trai chẳng ra cái hồn người, mắc bệnh còi xương ở chỏm đầu thường gọi là bệnh của trẻ con Anh, nhưng chẳng bao lâu nó ốm chết... Nhưng làm sao bệnh của dân Anh lại lần được đến huyện Sigrôpki tỉnh Kurxk được nhỉ? Nhưng không phải chỉ có thế. Mẹ tôi chăm lo giáo dục tôi với tất cả nhiệt tâm của một bà địa chủ vùng thảo nguyên, bà bắt đầu giáo dục tôi từ ngày tôi cất tiếng chào đời cho đến khi tôi mười sáu tuổi... ông vẫn nghe tôi kể đấy chứ?

- Có chứ, kể tiếp đi...

- Thế thì tốt. Kịp đến năm tôi mười sáu tuổi, mẹ tôi lập tức thải hồi người gia sư dạy tiếng Pháp: ông ta là Filipôvits, tự xưng là người Đức, nhưng lại sinh trong một gia đình Hy Lạp ở Nêiinxki. Bà lập tức đưa tôi về Matxcơva, xin cho tôi vào trường đại học, rồi bà về hầu thượng đế, để lại tôi cho ông cậu ruột làm thày kiện, tên là Kôntun Babura, một con chim ăn thịt mà không phải chỉ riêng hạt Sigrôpxki này biết tiếng. Ông cậu ruột Kôntun Babura của tôi, vì là thày kiện, nên đương nhiên đã đoạt hết tài sản của tôi. Nhưng đấy vẫn chưa phải là điều quan trọng. Cần phải công bằng với mẹ tôi: nhờ bà, tôi đã được chuẩn bị khá đầy đủ để vào đại học. Nhưng ngay hồi đó, tình trạng thiếu cá tính độc đáo đã lộ rõ ở tôi. Thời thơ ấu của tôi không có gì khác với thời thơ ấu của các thiếu niên khác. Tôi lớn lên cũng đần độn và yếu ớt như được nuôi dưới tấm đệm lông, tôi cũng bắt đầu học thuộc lòng các bài thơ từ rất sớm và cũng làm ra vẻ âu sầu, mượn cớ là có khuynh hướng mơ mộng... nhưng mơ cái gì nhỉ? À phải rồi, mơ ước cái cao đẹp... và vân vân. Ở đại học, tôi không đi con đường nào khác ngoài con đường người ta đã vạch ra: tôi lập tức lọt vào một nhóm sinh viên. Thời ấy không như bây giờ... Có lẽ ông không biết thế nào là nhóm đâu nhỉ? Tôi nhớ Sinle có nói trong tác phẩm nào không rõ:

Gefährlich ist den Leu zu wecken,

Ung schrecklich ist des tigers Zahn,

Doch das schrecklichste der Schrecken

Das ist der Mensh in seinem Wahn?( [137] )

Tôi cam đoan với ông rằng, Sinle chưa nói đúng điều ông ta muốn nói đâu. Nhà văn muốn nói thế này kia: Das ist ein "nhóm"... in der Stadt Moskau ( [138] )

- Nhưng ông thấy nhóm sinh viên có gì đáng kinh sợ? - Tôi hỏi.  Ông bạn cùng phòng với tôi vồ lấy cái mũ của mình và đội sụp xuống đến mũi.

- Tôi thấy cái gì đáng kinh sợ ấy à? - ông ta kêu lên - Thế này này: nhóm sinh viên là cái hủy diệt mọi sự phát triển độc đáo; nhóm sinh viên là tổ chức quái gở thay thế cho xã hội, đàn bà và cuộc sống. Nhóm... ôi, khoan đã, tôi sẽ nói để ông biết thế nào là nhóm? Nhóm là lối sống chung uể oải và lười nhác mà người ta cho là có ý nghĩa và tạo cho nó cái bề ngoài hợp lý. Nhóm đem những lời nghị luận thay thế cho việc chuyện trò, tập cho người ta quen thói ba hoa rỗng tuếch, làm cho người ta xa rời lối làm việc riêng rẽ có hiệu quả, tiêm nhiễm cho người ta bệnh sính văn chương; sau nữa là nó làm mất sức sống tươi trẻ và sự khỏe mạnh trinh tiết của tâm hồn. Nhóm là sự đê tiện và buồn chán đội lốt tình anh em và tình bạn, là một chuỗi những hiểu lầm và yêu sách mang nhãn hiệu lòng thành thật và thông cảm. Trong nhóm, bất cứ lúc nào, giờ nào, mỗi người bạn đều có quyền thọc những ngón tay nhớp nhúa vào ruột gan người cùng nhóm, bởi thế không người nào còn được một chỗ trong sạch, nguyên vẹn trong tâm hồn. Trong nhóm, người ta sùng bái kẻ nói năng văn hoa nhưng rỗng tuếch, sùng bái kẻ thông minh đầy tự ái, phục những ông cụ non, quí chuộng kẻ làm thơ bất tài nhưng có những ý nghĩ "thầm kín". Trong nhóm, những gã trai mười bảy chuyện trò một cách ranh mãnh và rắc rối về đàn bà và tình yêu, nhưng trước đàn bà thì họ ngậm tăm hay nói với các nàng như đọc sách: mà họ biết nói gì được kia chứ? Thói bẻm mép rất thịnh hành trong nhóm sinh viên; trong nhóm, người ta rình mò nhau không kém gì bọn cảnh sát... ôi, nhóm! ngươi không phải là nhóm học tập của sinh viên, người là cái vòng phù chú mà không một người tử tế nào sống sót được khi đã lọt vào đấy?

- Ôi xin phép cho tôi được nhận xét rằng ông nói có quá đáng đấy - tôi ngắt lời ông ta.

Ông bạn tôi lẳng lặng nhìn tôi.

- Có thể lắm, Chúa biết rõ tôi, có thể là ông nói đúng. Nhưng bọn chúng tôi cũng chỉ còn một cái  thú là nói quá lên thôi. Chính tôi đã sống bốn năm ở Matxcơva trong tình trạng như tôi vừa kể. Thưa ông, tôi không thể miêu tả để ông rõ thời gian đó trôi nhanh như thế nào, nhanh kinh khủng; thậm chí nhớ lại thêm buồn và bực mình. Trở dậy từ sáng sớm! Rồi mọi việc trôi nhanh như trượt tuyết xuống dốc... Vụt cái đã đến chân dốc; chiều đã đến rồi. Gã đầy tớ đã ngủ no mắt choàng lên người tôi chiếc áo ngoài; tôi mặc áo và lững thững đến thăm bạn: làm một tẩu thuốc, uống nước chè loãng bằng cốc và bàn luận về triết học Đức, về tình yêu, về mặt trời tinh thần bất diệt và về những cái xa xôi khác. Nhưng tôi cũng gặp những người độc đáo, khác thường: có người dù đã cố hết sức uốn cong đập bẹp con người mình cho vừa khuôn khổ, nhưng bản tính tự nhiên vẫn chiến thắng. Chỉ có cái thằng tôi khốn khổ tự nhào nặn mình như cục sáp mềm. Và cái bản tính tự nhiên thảm hại của tôi không mảy may chống cự lại! Thấm thoát tôi đã hai mươi mốt tuổi. Tôi bắt đầu nhận gia sản, hay đúng hơn là phần gia sản mà người giám hộ thấy nên để lại cho tôi. Tôi trao quyền quản lý toàn bộ tài sản của cha mẹ để lại cho người quản gia nô đã được giải phóng, tên là Vaxili Kuđriatsep, và tôi ra nước ngoài, đến Berlanh. Như tôi đã kể với ông, tôi ở nước ngoài ba năm. Và tình hình như thế nào? Ở nước ngoài tôi cũng vẫn là một kẻ tầm thường như  thế. Khỏi phải nói là tôi không được biết tí gì về châu Âu nói riêng và đời sống châu Âu. Tôi nghe các giáo sư Đức giảng bài và đọc sách Đức ngay tại quê hương của chúng... Tất cả sự khác nhau giữa đời sống của tôi ở Matxcơva và ở Berlanh chỉ là thế thôi. Tôi sống biệt lập như một tu sĩ. Tôi tiếp xúc với một trung uý xuất ngũ, họ chán đời, cũng khát khao hiểu biết như tôi, nhưng rất chậm hiểu và không có tài ăn nói. Tôi đi lại với một số gia đình kém trí thức ở Penza và ở một số tỉnh nông nghiệp khác; tôi lang thang đến các quán cà phê, đọc các tạp chí, tối đến thì đi xem hát. Tôi ít quen biết dân địa phương, nói chuyện với họ tôi cảm thấy khá vất vả và không người nào trong bọn họ đến chỗ tôi ở, trừ hai ba gã ăn chơi gốc Do Thái thỉnh thoảng chạy đến tôi vay tiền, vì tin der Russe . Cuối cùng, một sự tình cờ lạ lùng đã đưa tôi đến nhà một trong các giáo sư của tôi. Số là tôi đến gặp ông để ghi tên theo học, và bỗng dưng ông mời tôi buổi tối đến nhà ông chơi. Ông giáo sư ấy có hai cô con gái quãng hăm sáu - hăm bẩy, béo mập lạ thường, Chúa gia ơn cho họ! - Mũi rất đẹp, tóc xoăn, mắt màu xanh nhạt, tay thì đỏ mà móng tay thì trắng. Một người tên là Linsen, người kia là Minsen. Tôi bắt đầu lui tới nhà giáo sư. Cần phải nói với ông rằng ông giáo sư ấy không hẳn là ngớ ngẩn, nhưng dường như dở người: lên bục giảng thì ông ta nói khá mạch lạc, vậy mà ở nhà thì ông ta nói chớt và lúc nào cũng đeo kính trên trán. Nhưng ông ta hết sức thông thái... Nhưng rồi sao? Tôi bỗng có cảm giác rằng tôi mê Linsen, suốt sáu tháng trời tôi vẫn tưởng như thế. Thực ra tôi nói chuyện với nàng cũng ít thôi, mà nhìn nàng nhiều hơn. Nhưng tôi thường đọc cho nàng nghe những tác phẩm cảm động, lén lút nắm tay nàng, và buổi tối, ngồi bên nàng, tôi thả hồn theo những ý nghĩ mơ mộng, đăm đăm nhìn mặt trăng hay có khi chỉ nhìn lên trời. Nàng pha cà phê mới tuyệt làm sao!... Vậy thì còn cần gì hơn nữa? Duy có điều làm tôi bối rối: ngay trong những phút thần tiên nhất, như người ta vẫn nói, không hiểu sao tôi vẫn thấy bồi hồi trong dạ, và cơn run tê tái, lạnh giá vẫn truyền lan trong dạ dày tôi. Cuối cùng tôi không chịu nổi cái hạnh phúc ấy và bỏ chạy.

Sau đó, tôi sống thêm hai năm nữa ở nước ngoài: tôi ở Ý, tôi đã xem bức tranh Chúa Biến hình ( [139] ) tại La Mã, đã đến xem tượng Vệ nữ ở Florăngxơ. Đột nhiên, tôi bỗng cao hứng tột độ, dường như nổi cơn điên dại. Tối tối, tôi làm thơ, bắt đầu ghi nhật ký. Tóm lại, tôi cũng làm như mọi người. Thế nhưng, ông xem đấy, muốn khác người thì dễ biết bao. Chẳng hạn, tôi có hiểu quái gì về hội hoạ và điêu khắc đâu... Tôi chỉ cần nói to lên điều đó... không,  sao lại thế được! Phải thuê một người hướng dẫn và chạy đi xem những bức bích họa chứ!

Ông ta lại nhìn xuống và lại quẳng mũ đi.

- Rồi cuối cùng, tôi trở về quê hương. - ông ta nói tiếp, giọng mệt mỏi - tôi đến Matxcơva, ở Matxcơva, tự dưng tôi thay đổi kỳ lạ. Ở nước ngoài, tôi im lặng nhiều hơn, còn ở đây tôi đột nhiên đâm ra lắm lời, đồng thời tôi mơ ước có trời biết là những gì. Có những người rộng lòng bao dung đến mức coi tôi gần như là thiên tài; các bà lắng nghe những lời văn hoa dông dài của tôi với vẻ thông cảm. Nhưng tôi không đứng vững được ở đỉnh vinh quang của tôi. Một buổi sáng kia, tự dưng bỗng nảy nòi ra một câu chuyện đặt điều về tôi (ai nặn ra câu chuyện ấy thì tôi không biết; có thể là một bà gái già giống đực, những chàng gái già như thế ở Matxcơva có vô khối). Điều bịa đặt ấy ra đời và bắt đầu trổ cành, trổ tua cuốn như cây dâu. Tôi sa lưới, muốn nhảy ra, dứt đứt những sợi dây dính chặt, nhưng chẳng ăn thua gì... Tôi bỏ đi. Trong việc này, tôi lại tỏ ra là một kẻ cực ngu. Tôi có thể cứ thản nhiên như không, chờ cho đợt đả kích ấy qua đi, như người ta chờ cho cơn sốt nổi mề đay dứt hẳn, và vẫn những người rộng lượng ấy sẽ lại mở rộng hai cánh tay đón tôi vẫn những bà quí tộc ấy sẽ lại mỉm cười nghe tôi nói... Nhưng khốn nỗi tôi không phải là con người có  cá tính độc đáo. Xin ông hiểu cho rằng lương tâm tôi bỗng thức tỉnh: tôi bỗng thấy hổ thẹn về thói ba hoa chích choè, nói nhăng nói cuội: hôm qua ở Arbat, hôm nay Tơruba, ngày mai ở Xiptsep –Wajka ( [140] ) và vẫn nhai đi nhai lại những điều đã nói - nhưng nếu người ta thích nghe anh nói như thế thì sao? Hãy nhìn những tay cự phách trong lĩnh vực ấy mà xem: họ có hổ thẹn gì đâu. Trái lại, họ chỉ cần có thế. Có người khua môi múa lưỡi đến nay đã hai chục năm, và vẫn theo một hướng...Lòng tự tin và tự ái là thế đấy! Tôi cũng có tự ái, và ngay đến bây giờ nó vẫn chưa im tiếng hẳn trong người tôi...Tôi lại xin nói với ông một lần nữa rằng điều tệ nhất vẫn là ở chỗ tôi không có cá tính độc đáo, tôi dừng lại giữa chừng: thiên nhiên lẽ ra nên cho tôi nhiều tự ái hơn nữa hoặc là không phú cho tôi chút tự ái nào thì hơn. Nhưng thời kỳ đầu, quả thực là tôi gặp nhiều nỗi gay go. Thêm nữa, chuyến đi nước ngoài làm tôi khánh kiệt gia sản, vậy mà tôi không muốn lấy một người đàn bà goá, vợ một phú thương, người này còn trẻ trung nhưng cơ thể đã nhẽo như miếng thịt đông. Thế rồi tôi về làng.

Ông bạn cùng buồng lại liếc ngang nhìn tôi, rồi nói thêm:

- Có lẽ tôi có thể không nói đến những cảm tưởng đầu tiên về đời sống nông thôn, không đả động đến vẻ đẹp của thiên nhiên, đến cái thú êm đềm của cuộc sống cô độc và nhiều điều khác nữa...

- Không, ông cứ nói - tôi phản đối.

- Nhất là tất cả những cái đó đều là chuyện vớ vẩn mà thôi - ông ta nói tiếp - ít ra là những cái đó liên quan đến tôi. Ở làng, tôi buồn như con chó bị nhốt, tuy rằng trên đường về quê nhà, lần đầu tiên ngồi xe đi qua khu rừng phong quen thuộc vào mùa xuân, đầu óc tôi choáng váng và tim đập rộn lên một niềm mong đợi mơ hồ, dịu ngọt. Nhưng chính ông biết đấy, những mong đợi mơ hồ ấy không bao giờ thành sự thật, trái lại, cái trở thành sự thật lại là những cái khác mà ta không hề trông ngóng, đại loại như: bệnh dịch, thiếu nợ, những cuộc bán đấu giá và vân vân. Tôi sống đắp đổi qua ngày nhờ sự giúp đỡ của burmixtr Iakôp là người thay thế tay quản lý trước, và sau này mới rõ ra y là một tên ăn cắp không kém gì tên trước, nếu không phải là ghê gớm hơn, thêm nữa, y còn đầu độc đời tôi bằng cái mùi khó chịu của đôi ủng bôi dầu. Thế rồi một hôm tôi nhớ tới một gia đình quen ở gần đây. Gia đình này gồm có bà vợ goá một viên đại tá về hưu và hai cô con gái. Tôi bèn bảo thắng xe ngựa và đến thăm những người láng giềng. Ngày hôm ấy sẽ mãi mãi ghi sâu trong tâm trí tôi:  sáu tháng sau, tôi cưới cô con gái thứ hai của bà đại tá!

Người kể chuyện cúi đầu xuống và giơ một tay lên trời.

- Tuy nhiên, tôi không muốn để ông có ý nghĩ không hay về người đã khuất - ông ta hăm hở nói tiếp. Cầu Chúa đừng để cho tôi phạm điều ác như thế! Đấy là một người hết sức cao quí, hết sức tốt, chung tình và có thể gánh chịu mọi hy sinh. Tuy vậy nói riêng với ông, tôi phải thú nhận rằng nếu như tôi không có cái rủi ro bị mất nàng thì chắc hẳn hôm nay, tôi không có dịp thưa chuyện cùng ông, vì cho đến giờ, trong nhà kho của tôi vẫn còn cây xà mà tôi đã nhiều phen định treo cổ lên đó!

Ông ta lại bắt đầu nói sau một lúc im lặng:

- Có những quả lê cần phải có một thời gian nằm dưới đất, trong hầm nhà thì mới có được mùi vị ngon thực sự của mình, như người ta thường nói. Người vợ đã qua đời của tôi có lẽ cũng thuộc loại những sản phẩm như vậy của thiên nhiên. Đến bây giờ tôi mới hoàn toàn công bằng đối với nàng.

Chẳng hạn, mãi đến bây giờ, khi nhớ đến mấy buổi tối cùng vui chung với nàng trước khi cưới, chẳng những tôi không xót xa chút nào, mà trái lại, còn cảm động đến rớt nước mắt. Gia đình họ không giàu, nhà của họ rất cổ, bằng gỗ, nhưng thuận tiện,  ở trên gò cao, giữa một khu vườn bỏ hoang và cái sân cỏ mọc um tùm. Dưới gò có con sông chảy qua, và qua cành lá rậm rạp có thể nhìn thấy loáng thoáng từng quãng sông. Một thềm đất lớn dẫn từ nhà ra vườn, trước thềm có một bồn hoa hình bầu dục đầy hoa hồng. Mỗi đầu bồn hoa có hai cây dạ hợp mà cố chủ nhân đã bện xoắn vào nhau thành hình cái chong chóng từ lúc cây còn non. Xa hơn nữa, giữa đám vườn ngấy hoang tàn có cái chòi hóng mát, bên trong sơn màu rất đẹp, nhưng bên ngoài cũ kỹ và ọp ẹp đến nỗi trông mà phát sợ lên được Từ thềm đất, một cánh cửa kính dẫn vào phòng khách. Còn trong phòng khách thì đây là cái bày ra trước con mắt tò mò của người quan sát: ở mỗi góc cuối phòng có một cái lò sưởi tráng men sứ, phía bên phải có một chiếc pianô tiếng kêu chói tai, trên chồng chất những bản nhạc chép tay, ngoài ra còn chiếc đi văng bọc nhiễu xanh đã bạc màu thêu hình hoa lá màu trắng nhạt, một chiếc bàn tròn, hai đống đồ chơi thời Ekatêrina bằng sứ và bằng hạt cườm, trên tường có treo bức chân dung nổi tiếng của một cô gái tóc vàng hoe, mắt trợn lên, ôm con chim bồ câu trước ngực, trên bàn có cái lọ cắm hoa hồng tươi... ông thấy đấy, tôi miêu tả tỉ mỉ như thế nào. Toàn bộ tấn bi hài kịch về tình yêu của tôi diễn ra chính trong phòng khách ấy, trên cái thềm đất ấy. Bà chủ là một người xấu xí, trong họng luôn luôn bật ra tiếng khàn khàn tức giận, bà ta tính tình cay nghiệt và lắm lời. Trong hai cô con gái, một cô là Vêra, hoàn toàn không khác gì các tiểu thư bình thường trong huyện, cô kia là, tôi mê Xôfia. Hai chị em có một phòng riêng, làm buồng ngủ cho hai người. Ở đấy có hai chiếc giường con bằng gỗ giản dị, những bức chân dung của các bạn trai và bạn gái vẽ khá xoàng bằng bút chì (trong số đó, nổi bật lên bức chân dung một ông quí tộc vẻ mặt cương nghị lạ thường và chữ ký càng cương nghị hơn; thời thanh niên, ông ta đã khiến cho những người quen biết đặt bao nhiêu hy vọng lớn lao về ông ta, nhưng rút cục, cũng như tất cả chúng ta, ông ta chẳng làm nên trò trống gì cả), hai bức tượng bán thân của Gớt và Sinle, những cuốn sách Đức những vòng hoa đã khô héo, và những vật lưu niệm khác. Nhưng tôi ít khi vào căn buồng đó và không muốn vào: ở đấy, không hiểu sao tôi cảm thấy ngạt thở. Và thật kỳ lạ, những lúc tôi mến Xôfia, nhất là lúc tôi ngồi quay lưng về phía nàng, hay có lẽ là lúc tôi nghĩ và mơ tưởng đến nàng, đặc biệt là buổi tối, trên bậc thềm đất. Lúc đó, tôi nhìn hoàng hôn, nhìn cây cối, nhìn những chiếc lá nhỏ màu xanh tươi đã tối đi, nhưng vẫn còn hiện rõ trên nền trời màu hồng. Trong phòng khách, Xôfia ngồi bên chiếc đàn pianô và không ngừng định đi đánh lại một câu nhạc mà nàng ưa thích, câu nhạc vừa trầm tư, vừa say mê của Bithôven. Bà lão độc ác ngồi ngáy đều đều trên đi văng.

Trong phòng ăn tràn ngập ráng chiều đỏ rực, Vêra loay hoay pha trà. Ấm xamôva rít lên một cách tinh quái, như có điều gì vui sướng. Những chiếc bánh bơ bị bẻ gẫy phát ra tiếng lắc cắc vui tai, thìa chạm lanh canh vào chén. Con chim kim tước đã hót đến điếc tai suốt cả ngày, giờ đột nhiên im tiếng, chỉ thỉnh thoảng líu lo vài tiếng như hỏi han đều gì. Một đám mây nhỏ bé, trong và nhẹ trôi qua, để rớt xuống tài giọt mưa... Còn tôi cứ ngồi nghe, nghe và nhìn, tim tôi rạo rực, và tôi lại có cảm giác rằng tôi yêu. Chính do ảnh hưởng của một tối như thế mà có lần tôi đã nói với bà già, xin cưới con gái bà, và một tháng sau tôi cưới. Tôi có cảm giác rằng tôi yêu nàng... và ngay bây giờ, đã đến lúc tự giải đáp dứt khoát về vấn đề đó, vậy mà thực tình, tôi vẫn không biết có yêu Xôfia hay không. Nàng là người tốt bụng, thông minh, ít nói, có tâm hồn nồng nhiệt. Nhưng, có trời biết tại sao, phải chăng vì nàng ở làng quê lâu quá hay vì lẽ gì khác, chỉ biết rằng trong đáy lòng nàng (nếu như lòng dạ con người có đáy) vẫn mang một vết thương, hay nói đúng hơn, vẫn mang một vết thương nhỏ rỉ máu, không có cách nào chữa lành  được. Và cả nàng lẫn tôi đều không biết gọi tên nó là gì. Cố nhiên, chỉ sau khi cưới, tôi mới đoán được là nàng có vết thương ấy trong lòng. Chà, tôi đã hao tâm tổn trí biết chừng nào về nàng, nhưng không có cách gì chữa lành vết thương cho nàng! Thuở bé, tôi có con chim yến có lần bị mèo vồ. Người ta cứu được nó, chữa cho nó, nhưng con chim yến đáng thương của tôi không khỏi được; nó hờn giận, héo hắt đi, không hót nữa... Rồi một đêm kia, một con chuột lẻn vào cái lồng bỏ ngỏ và cắn mất phần đầu mỏ của nó, vì vậy cuối cùng nó quyết định từ giã cõi đời. Tôi không biết vợ tôi đã bị con mèo như thế nào vồ giữ, nhưng nàng cũng hờn giận héo hắt đi như con chim yến khốn khổ của tôi. Đôi khi có lẽ chính nàng cũng muốn phấn chấn lên, vui chơi ngoài khí trời thoáng mát, dưới ánh mặt trời, giữa không gian bao la. Nhưng vừa thử một cái, nàng đã co ngay lại. Thực ra thì nàng yêu tôi: đã bao lần nàng cam kết với tôi rằng nàng không mong muốn gì hơn, nhưng quái quỉ thay, mắt nàng lúc ấy tự dưng cứ mờ đi. Tôi nghĩ: trước đây có chuyện gì xẩy ra chăng? Tôi bắt đầu dò hỏi: chẳng có gì lạ cả. Thế đấy, bây giờ xin ông thử xét xem: một con người có bản lĩnh sẽ nhún vai, thở dài vài cái rồi sẽ bắt đầu sống theo ý mình; còn tôi là một kẻ không có bản lĩnh, tôi bắt đầu ngắm nghía cái xà nhà. Hồi ấy, vợ tôi đã nhiễm đủ mọi thói quen  của một ả gái già: Bithôven, những chuyến dạo chơi ban đêm, chậu cây mộc tê, thư từ với bạn bè, những tập ảnh v..v...Nàng không thể quen được với bất cứ lối sống nào khác, đặc biệt là lối sống của người nội trợ. Nhưng thật là buồn cười khi một người đàn bà có chồng mà cứ sầu não vẩn vơ và tối nào cũng hát "Đừng làm nàng thức giấc lúc rạng đông".

Ấy đấy, chúng tôi hưởng hạnh phúc được ba năm với lối sống như thế. Sang năm thứ tư, Xôfia chết sau lần sinh nở đầu tiên, và thật là lạ, tôi dường như đã linh cảm thấy trước rằng nàng không thể hiến cho tôi một mụn con, gái hay trai; nàng hiến cho đất một cư dân mới mà thôi. Tôi vẫn nhớ đám tang nàng. Bấy giờ là mùa xuân. Nhà thờ xứ của chúng tôi nhỏ bé và cũ kỹ lắm rồi, bức tường có ảnh thánh ( [141] ) đã sạm đen, các bức tường khác đều trơ trụi, sàn gạch nhiều chỗ đã bật vỡ. Phía trên chỗ ngồi của mỗi ban đồng ca có một bức ảnh lớn rất cổ. Người ta khiêng quan tài vào, đặt ở chính giữa nhà thờ, trước cổng chính diện, phủ lên quan tài một tấm chăn bạc phếch, đặt ba cái giá nến x