TSERTÔPKHANÔP VÀ NÊĐÔPIUXKIN
Có lần, vào một ngày hè oi bức, tôi đi săn trở về bằng xe ngựa. Ermôlai ngồi cạnh tôi, ngủ gà ngủ gật. Mấy con chó ngủ lì dưới chân chúng tôi cứ nảy tung lên như những xác chết. Người đánh xe chốc chốc lại vung roi đuổi mấy con ruồi trâu bu vào ngựa. Bụi trắng cuốn theo xe như một đám mây nhẹ. Xe chúng tôi đi vào một chỗ đầy bụi cây. Đường lắm ổ gà hơn trước, bánh xe bắt đầu vướng vào các cành cây. Ermôlai chợt tỉnh và nhìn quanh... "Hè? - anh ta thốt lên - ở đây nhất định có gà rừng. Ta xuống xe đi!". Chúng tôi dừng lại và đi vào cánh rừng nhỏ. Con chó của tôi sục được một ổ gà rừng.
Tôi bắn một phát và toan nạp đạn nữa thì bỗng nhiên ở phía sau có tiếng lắc cắc rất to, và một người cưỡi ngựa vừa đưa hai tay rẽ những bụi cây vừa cho ngựa đến gần tôi. "X-xi-in ông cho biết - người đó nói bằng giọng kiêu ngạo - ông có quyền gì săn bắn ở đây, thưa tôn ông?". Người lạ mặt nói nhanh lạ thường bằng giọng mũi hổn hển. Tôi nhìn thẳng vào mặt người đó: cả đời tôi chưa từng thấy khuôn mặt nào như thế. Bạn đọc thân mến, bạn hãy tưởng tượng ra một người nhỏ nhắn, tóc vàng hoe, mũi nhỏ hếch lên, đỏ ửng, ria dài màu hung. Cái mũ Ba Tư chóp nhọn, phần trên bằng dạ đỏ đội sụp xuống đến tận lông mày, che kín trán. Ông ta mặc áo arkhalue màu vàng cũ kỹ, trước ngực có hai băng đựng đạn làm bằng vải dạ đen gấp thành những ống tròn, tất cả các đường may đều viền nẹp bạc đã bợt màu. Một chiếc tù và đeo chéo qua vai, ngang lưng lủng lẳng con dao găm. Con ngựa sắc hung, sống mũi gồ, nom ốm yếu, lồng lộn như điên. Hai con chó săn gày gò, chân khoèo luẩn quẩn quanh chân ngựa. Khuôn mặt, cái nhìn, giọng nói, mỗi cử động, toàn bộ dáng dấp của người lạ mặt toát ra vẻ táo tợn điên rồ và vẻ kiêu hãnh vô chừng, chưa từng thấy; đôi mắt xanh nhợt, lờ đờ của ông ta đưa đi đưa lại và liếc ngang như người say rượu. Ông ta ngẩng đầu ra sau, phồng má, thở phì phò và rung chuyển toàn thân như quá thừa phẩm giá: y hệt như con gà trống nổi khùng. Ông ta nhắc lại câu hỏi.
- Tôi không biết là ở đây cấm săn bắn - tôi đáp.
- Thưa ông - ông ta nói tiếp - ông ở đây là trên đất của tôi.
- Vậy thì tôi sẽ rời khỏi nơi này.
- Nhưng xi-i-in ông cho biết, phải chăng tôi có vinh dự được thưa chuyện với một người quí tộc? - ông ta nói.
Tôi xưng danh.
Nếu vậy thì mời ông cứ săn. Chính tôi cũng là quí tộc và tôi rất vui sướng được giúp đỡ người quí tộc - Tôi là Tsertôpkhanôp Pantêlây.
Ông ta khom người, hò một tiếng và kéo căng dây cương dọc cổ ngựa. Con ngựa lúc lắc đầu, chồm ngược lên, bổ xuống phía bên và đè phải chân một con chó. Con chó tru tréo lên. Tsertôpkhanôp nổi khùng, rít lên, đấm một quả vào đầu con ngựa ở chỗ giữa hai tai, nhảy xuống đất nhanh như chớp, xem chân con chó, nhổ bọt vào vết thương, đá nó một cái vào mạng sườn để nó đừng kêu inh lên nữa, rồi túm lấy bờm ngựa và cho một chân vào bàn đạp. Con ngựa hếch mõm vểnh đuôi lên và nhảy tạt ngang vào đám bụi cây. Ông ta nhảy lò cò một chân theo nó, nhưng rồi cũng lên được yên. Như nổi cơn điên, ông ta vung roi tít mù, thổi tù và và phóng ngựa đi. Tôi chưa kịp hoàn hồn sau sự xuất hiện bất ngờ của Tsertôpkhanôp thì đột nhiên, hầu như không có tiếng động, một người nữa lại từ đám bụi cây hiện ra. Người này to béo, khoảng bốn mươi tuổi, cưỡi con ngựa ô nhỏ bé. Ông ta dừng ngựa, bỏ chiếc mũ cát két bằng da màu lá mạ trên đầu ra, cất giọng thanh thanh, mềm mỏng hỏi tôi có thấy người cưỡi con ngựa sắc hung qua đây không? Tôi đáp rằng tôi có gặp.
- Họ đi về phía nào ạ? - ông ta hỏi, giọng vẫn như thế và không đội mũ vào.
- Phía này.
- Đa tạ ông.
Ông ta chép miệng, đung đưa hai chân bên sườn ngựa và cho ngựa đi nước kiệu băm về phía tôi chỉ.
Tôi nhìn theo cho đến khi cái mũ cát két của ông ta khuất sau những cành cây. Hình dáng của người lạ mặt mới xuất hiện này không có chút gì giống với người trước. Mặt ông ta béo múp và tròn như quả bóng, nom có vẻ bẽn lẽn, đôn hậu và hiền lành; mũi cũng phồng mọng và tròn, chi chít những đường gân xanh, cái mũi như thế cho biết chủ nó là người ham khoái lạc. Trên đầu ông ta ở phía trước không còn một sợi tóc, phía sau thòi ra hai bím tóc nhỏ màu hạt dẻ sáng; đôi mắt nhỏ xíu, như bị khía bằng cỏ tranh, hấp háy một cách dịu dàng; đôi môi nhỏ, đỏ chót và mòng mọng mỉm cười ngọt ngào. Ông ta mặc áo đại lễ cổ cứng có cúc đồng, áo rất cũ nhưng sạch sẽ; chiếc quần dạ xắn lên thật cao, phía trên rìa ủng lộ ra đôi bắp chân mỡ màng.
- Ai thế - tôi hỏi Ermôlai.
Người vừa đến đấy ạ? Đấy là Nêđôpiuxkin Tikhôn Ivanưts. Ông ta ở với Tsertôpkhanôp.
- Ông ta là người thế nào, một người nghèo à?
- Cũng không giàu, và ngay cả Tsertôpkhanôp cũng chẳng có xu nào.
- Thế thì tại sao ông ta lại ở nhờ nhà người kia?
- À, họ kết bạn với nhau. Đi đâu cũng không rời nhau... Mà cũng đúng thôi: ngựa có vó, tôm có càng...
Chúng tôi ra khỏi bụi cây: bỗng nhiên, có tiếng hai con chó săn sủa giật giọng ở gần bên, và một con thỏ trắng rất lớn chạy trong đám yến mạch đã khá cao. Từ ven rừng, những con chó dồn đuổi và chó đánh hơi xồ ra, rượt theo con thỏ, còn chính Tsertôpkhanôp phóng ngựa như bay theo sau những con chó. Ông ta không hò hét, không giục chó, ông ta thở hồn hển như ngạt hơi: miệng ông ta há hốc, thỉnh thoảng lại buột ra những âm thanh đứt quãng, vô nghĩa. Ông ta trợn mắt, vung roi như điên như dại quất con ngựa khốn khổ. Mấy con chó đã đuổi kịp con mồi... Con thỏ ngồi xuống, quay ngoắt về phía sau, lao vụt qua bên cạnh Ermôlai, trốn vào bụi cây... Mấy con chó lao theo. "Nhanh, đu-ổi nhanh - người đi săn ngẩn ngơ, nói lắp bắp một cách khó nhọc, lưỡi líu lại - bạn thân mến, đừng để nó thoát!". Ermôlai nổ súng... con thỏ bị thương lộn nhào trên thảm cỏ nhẵn nhụi và khô ráo, nhảy chồm lên cao và kêu la thê thảm giữa hai hàm răng của một con chó. Những con chó khác lập tức xô tới Nhanh như cắt, Tsertôpkhanôp nhảy xuống ngựa, rút phăng dao găm ra, chạy tới gần những con chó, chân đưa vòng kiềng, và vừa nguyền rủa dữ dội vừa giằng con thỏ bị cắn xé ra khỏi mõm chúng. Mặt méo hẳn đi, ông ta cắm phập lưỡi dao vào cổ con thỏ, ngập đến tận chuôi... và cất tiếng cười hô hô. Tikhôn Ivanưts ló ra ở rìa rừng. "Hô- hô-hô-hô-hô!" - Tsertôpkhanôp cười rú lên lần nữa... "Hô-hô-hô-hô!" - người bạn ông ta bình tĩnh đáp lại. Kể ra thì đúng là không nên đi săn vào mùa hè - tôi nói và chỉ cho Tsertôpkhanôp xem đám lúa bị xéo nát.
- Ruộng của tôi kia mà - Tsertôpkhanôp đáp, vẫn thở không ra hơi.
Ông ta cắt chân con thỏ, buộc con vật vào sau yên và phân phát những cẳng chân thỏ cho mấy con chó.
- Tôi ghi nhớ công anh về phát súng vừa rồi, người anh em ạ - ông ta nói với Ermôlai theo qui tắc đi săn - Còn thưa tôn ông - ông ta nói thêm, giọng vẫn đứt quãng và gay gắt như thế - cám ơn tôn ông.
Ông ta lên ngựa - Xin ông cho biết...tên và họ ông...xin lỗi, tôi quên mất rồi...
Tôi xưng danh lần nữa.
- Rất vui sướng được làm quen với ông. Nếu có dịp, mời ông ghé thăm tôi... ờ, mà Fômka đâu rồi, Tikhôn Ivanưts? - ông ta hăm hở nói tiếp - chúng ta đã dồn được con thỏ mà không có phần của nó.
- Ngựa nó cưỡi bị ngã đấy - Tikhôn Ivanưts mỉm cười đáp.
- Ngã thế nào kia? Orbaxan bị quị à? Khỉ quá? Nó đâu, ở đâu?
- Ở đằng kia, phía sau rừng.
Tsertôpkhanôp quất roi vào mõm ngựa và phóng thục mạng. Tikhôn Ivanưts cúi chào tôi hai lần - chào thay cả cho bọn, và lại cho ngựa phi nước kiệu vào đám bụi cây.
Hai người này khêu gợi trí tò mò của tôi rất nhiều... Cái gì đã khiến cho hai con người khác nhau đến như thế gắn bó với nhau bằng tình bạn khăng khít? Tôi bắt đầu dò hỏi. Sau đây là những điều tôi biết được.
Tsertôpkhanôp Pantêlây Erêmêits nổi tiếng khắp vùng là một tay ngông cuồng nguy hiểm, một kẻ kiêu ngạo và hay gây gổ bậc nhất. Ông ta phục vụ trong quân đội một thời gian rất ngắn và giải ngũ vì "bực mình", tuy mới lên tới cái cấp bậc mà dư luận rộng rãi cho rằng "gà mái chưa phải là chim"( [142] ). Ông ta xuất thân từ dòng họ lâu đời, xưa kia giàu có. Cha ông ta sống xa hoa theo cung cách người thảo nguyên, nghĩa là tiếp đãi cả những khách được mời lẫn khách không mời mà đến, cho họ ăn uống phè phỡn, phát cho mỗi người đánh xe tơroika của khách một phần tư thùng yến mạch, nuôi các nhạc công, những người ca xướng, những tay hề và chó, cho tất cả mọi người uống rượu nho và bia trong những ngày hội hè, mùa đông thì ra chơi Matxcơva bằng cỗ xe ngựa nặng nề của nhà, nhưng đôi khi hàng mấy tháng ròng không có xu nào dính túi và sống bằng thực phẩm, gia cầm trong nhà. Bố Pantêlây Erêmêits được thừa hưởng một gia sản đã lụn bại. Ông ta cũng "phá phách" rất gớm, và khi qua đời, ông để lại cho Pantêlây, người thừa kế duy nhất của mình, một làng nhỏ: làng Bexxônôvô đã bị đem cầm cố để vay nợ. Làng này có ba mươi nhăm mống đàn ông và bảy mươi sáu mống đàn bà với mười bốn đêxiatin một ôxminnic ( [143] ) đất khô cằn nằm trong vùng đất hoang Kôlôbrôđơ. Nhưng thực ra trong giấy tờ của người quá cố cũng chẳng có chứng thư nào xác nhận quyền sở hữu những thứ đó cả. Phải thừa nhận rằng ông bố Pantêlây đã phá sản một cách hết sức kỳ lạ: "sự trù tính kinh tế" đã làm hại ông ta. Theo ý ông ta, người quí tộc không nên lệ thuộc vào cánh buôn bán, vào bọn thị dân và "những tên ăn cướp" khác cùng loại, như ông ta thường gọi họ. Ông ta tự gây dựng ở nhà đủ mọi nghề thủ công và xưởng thợ: "Như vậy vừa hay hơn vừa rẻ hơn - ông ta thường nói thế - phải biết trù tính kinh tế chứ!".
Cho đến chết ông ta vẫn không rời bỏ ý nghĩ tai hại ấy, chính ý nghĩ ấy đã làm ông ta phá sản. Nhưng ông ta có một lối tiêu khiển thú vị biết bao! Ông không từ một cách chơi ngông nào cả. Trong số những sáng kiến kỳ quặc khác, có lần ông ta cho đóng một chiếc xe ngựa gia đình theo ý riêng của mình, chiếc xe lớn đến nỗi mặc dù tất cả số ngựa của nông dân trong làng cùng với chủ của chúng đã được huy động đến và đã đồng tâm gắng sức phục vụ nhưng vừa gặp phải cái dốc đầu tiên, xe đã đổ kềnh và vỡ tan. Êrêmây Lukits (bố Pantêlây tên là Êrêmây Lukits) ra lệnh dựng đài kỷ niệm trên sườn dốc, nhưng tuyệt nhiên không thể lấy thế làm bối rối. Ông ta còn nảy ra ý định xây nhà thờ, dĩ nhiên là tự làm lấy, không cần đến kỹ sư kiến trúc. Ông ta phá hết một khu rừng, để lấy củi nung gạch, đặt xong một cái nền to đến nỗi có thể dùng làm móng xây nhà thờ lớn của tỉnh, dựng xong tường và bắt đầu làm mái vòm: vòm đổ. Ông ta lại làm, mái lại sụp: ông ta làm lần thứ ba, mái lại đổ sụp lần thứ ba. Êrêmây Lukits của tôi nghĩ ngợi: không ổn...có kẻ dùng pháp thuật trù ếm đây và đột nhiên ông ta ra lệnh đánh đòn tất cả các bà già trong làng. Các bà già đã bị đánh đòn, nhưng vẫn không dựng được mái vòm. Ông ta bắt đầu cho cất lại tất cả nhà ở của nông dân theo qui hoạch mới; và mọi việc đều do sự trù tính kinh tế. Ông ta bố trí cứ ba nhà tạo thành một hình tam giác, ở chính giữa hình tam giác đó có dựng một cây cột treo một chuồng sáo sơn màu và một lá cờ. Hầu như ngày nào ông ta cũng bày ra một trò mới: khi thì nấu xúp bằng lá ngưu bàng, khi thì cắt đuôi ngựa làm mũ cát két cho các gia nô, khi thì định dùng tầm ma thay lanh, khi thì định nuôi lợn bằng nấm...
Nhưng ông ta không chỉ bày ra những trò lạ trong việc làm ăn: ông ta còn chăm lo đến phúc lợi của nông dân nữa. Có lần, ông ta xem báo "Tin tức Matxcơva" và đọc được một bài viết về lợi ích của đạo đức trong đời sống nông dân. Tác giả là một địa chủ ở Kharkốp. Thế là hôm sau, ông ta ra lệnh: tất cả nông dân phải lập tức học thuộc lòng bài của ông địa chủ Kharkôp. Nông dân học thuộc bài báo. Ông chủ hỏi họ: họ có hiểu bài đó viết gì không? Người quản lý trả lời: hiểu quá đi chứ ạ! Cũng vào khoảng thời gian ấy, để duy trì trật tự và tiện cho việc trù tính kinh tế, ông ta bắt tất cả nông nô của mình phải đánh số và mỗi người phải khâu số hiệu của mình vào cổ áo. Khi gặp chủ, mỗi người phải hét to lên: "Số X đây ạ còn ông chủ dịu dàng đáp lại: đi đi Chúa phù hộ con!
Tuy nhiên, mặc dù đã xếp đặt hết sức nền nếp và trù tính kinh tế cẩn thận, ông Êrêmây Lukits dần dần đã lâm vào tình trạng khốn quẫn: thoạt tiên ông ta bắt đầu đem các làng của mình ra cầm cố để vay nợ, rồi đến nước phải bán hết làng này đến làng khác. Còn cái tổ cuối cùng của cha ông - cái làng có ngôi nhà thờ xây dở dang - thì bị nhà nước đem phát mại. May thay, chuyện đó không xảy ra khi ông còn sống, mà là hai tuần sau khi ông qua đời, chứ không thì hẳn là ông không chịu đựng nổi đòn ác liệt ấy. Ông ta đã được chết ở nhà mình, trên giường của mình, giữa những người nhà và được thày lang vườn chăm sóc; nhưng Pantêlây đáng thương chỉ được thừa hưởng độc có một làng Bexxônôvô.
Pantêlây được tin bố ốm khi ông ta đang tại ngũ, giữa lúc đang có chuyện lôi thôi xảy ra khiến ông ta "bực mình" nhất, như đã nói ở trên. Ông ta vừa tròn mười chín tuổi. Từ tấm bé, ông ta chưa hề ra khỏi nhà bố mẹ và được dạy dỗ; mẹ ông ta là Vaxlixa Vaxiliepna, một người đàn bà rất tốt, nhưng đần độn. Tóm lại, Pantêlây là một cậu ấm được cưng chiều. Chỉ có mình bà mẹ chăm lo giáo dục con. Êrêmây Lukits mải mê với những dự định kinh tế của mình nên không bụng dạ đâu mà nghĩ tới chuyện ấy. Thực ra, có lần ông ta đã tự tay trừng phạt con trai vì cậu ta đọc chữ "rsư" thành "arsư"; nhưng hôm ấy, Êrêmây Lukits có một nỗi đau đớn sâu sắc và thầm kín. Con chó hay nhất của ông chết vì cây đổ. Tuy nhiên, sự chăm lo của Vaxilia Vaxiliepna đối với việc giáo dục Pantưsa cũng chỉ bó hẹp ở một cố gắng khổ sở: bằng công sức mồ hôi nước mắt, bà thuê một gã người Ênzax, nguyên là lính, tên gọi Birkôff, làm gia sư dạy con bà. Cho đến lúc chết, bà luôn luôn lo sợ đến phát run lên về hắn; bà ta nghĩ: nếu anh ta không chịu làm cho ta nữa thì ta chết mất! Ta biết xoay xở thế nào? Tìm đâu ra một ông thày khác? Ta đã tốn bao tâm sức mới dụ được anh ta bỏ gia đình chị hàng xóm sang làm với ta! Và Birkoff vốn là người sáng ý, bèn lập tức lợi dụng địa vị đặc biệt của mình: hắn nốc rượu say bí tỉ và ngủ từ sáng đến tối. Học xong "các môn khoa học", Pantêlây ra làm việc nhà nước. Vaxilia Vaxiliepna không còn ở trên đời này nữa. Bà mất từ nửa năm trước khi xảy ra biến cố quan trọng đó, chết vì sợ: bà chiêm bao thấy một người mặc đồ trắng, cưỡi con gấu, trước ngực áo có đề: "Tên phản Chúa". Êrêmây Lukits chẳng bao lâu cũng đi theo vợ.
Vừa được tin bố ốm, Pantêlây hộc tốc phóng về, nhưng về đến nơi thì bố đã từ giã cõi trần. Cậu con trai đáng kính ngạc nhiên biết chừng nào trước một việc hoàn toàn bất ngờ: từ một kẻ thừa kế giàu có cậu biến thành một kẻ bần cùng! Không mấy người chịu đựng nổi sự xoay chuyển đột ngột như thế. Pantêlây đâm ra xa lánh mọi người, tính tình trở nên hung tợn. Trước là người chính trực, hào phóng, tốt bụng, tuy bộp chộp và nóng tính, nay ông ta biến thành một kẻ kiêu ngạo và hay cà khịa, ông ta không giao thiệp với hàng xóm láng giềng - ông ta xấu hổ với người giàu, nhưng lại coi khinh người nghèo - và ông ta đối xử với mọi người ngạo ngược vô cùng, ngay cả với các nhà chức trách, như muốn tỏ ra rằng đây là dòng dõi quí tộc lâu đời. Có lần, suýt nữa ông ta bắn viên cảnh sát vì y vào phòng ông ta mà vẫn đội mũ cát két. Cố nhiên các nhà chức trách cũng không buông tha ông ta và hễ có dịp là liền cho ông ta biết oai quyền của họ.
Nhưng dù sao họ cũng kiềng ông ta, vì ông ta nóng tính kinh khủng và hễ cứ lời qua tiếng lại một đôi câu là ông ta đòi đấu dao tức khắc. Bị bài bác chút ít là mắt Tsertôpkhanôp long lên, giọng nói đứt quãng... "A va-va-va-va-va - ông ta lắp bắp - dù có mất đầu tôi cũng cóc sợ đâu!"... và rất có thể ông ta nổi cơn điên lên! Thêm nữa, ông ta là người trong sạch, không dính líu vào một việc ám muội nào. Tất nhiên là không ai lui tới thăm ông ta... Tuy vậy, ông ta có tấm lòng nhân hậu, thậm chí có thể nói là cao cả theo kiểu riêng của mình: ông ta không thể chịu đựng nổi khi thấy người khác bị đối xử bất công, bị chèn ép, dù người đó không có quan hệ thân thiết gì với ông ta. Ông ta như quả núi che chở cho nông dân của mình. "Sao? - ông ta vừa nói vừa đấm như điên vào đầu mình - động đến người của ta à, dám động đến người của ta à? Trừ phi ta không còn là Tsertôpkhanôp nữa...".
Tikhôn Ivanưts không thể tự hào về dòng dõi của mình như Pantêlây Êrêmêits. Bố ông ta thuộc tầng lớp Ôtnôđvôrets , và sau bốn mươi năm làm viên chức, ông ta mới đạt được danh hiệu quí tộc. Bố Nêđôpiuxkin thuộc số người mà tai hoạ luôn luôn bám theo một cách hăm hở, ráo riết, không mệt mỏi, dường như có mối thù riêng với ông ta. Suốt sáu chục năm trời, từ lúc chào đời cho đến lúc thở hơi cuối cùng, con người nghèo túng ấy đấu tranh với mọi thiếu thốn, bệnh tật và mọi sự rủi ro vốn là bạn đường khăng khít của những người hèn mọn. Ông ta long đong lận đận, ăn không no, ngủ không đẫy giấc, cúi chào tất cả mọi người, lo lắng, buồn phiền và héo hắt đi, run sợ khi phải bỏ ra một đồng cô pếch, quả thực là ông đã phải chịu nhiều điều "oan uổng" trong thời gian đi làm, và cuối cùng ông chết không rõ là trên căn gác áp má hay trong hầm nhà, vẫn chưa kịp kiếm được cho mình hay cho các con một mẩu bánh ăn hàng ngày. Số phận hành hạ ông ta đến kiệt lực, như dồn đuổi một con thỏ đến nước cùng. Ông ta là người tốt bụng và ngay thẳng, vậy mà vẫn ăn của đút nheo chức vị của mình: từ mười xu cho đến hai rúp. Nêđôpiuxkin có vợ, một người đàn bà gày gò và ho lao; ông ta cũng có mấy con; may thay, con gái ông ta chẳng bao lâu đều chết cả, trừ có Tikhôn và người con gái là Mitơrôđora, biệt hiệu là "tiểu thư vôi". Sau nhiều chuyện rắc rối đáng buồn và tức cười cô ả lấy một viên thầy kiện đã nghỉ việc. Hồi còn sống, Nêđôpiuxkin - bố đã thu xếp cho Tikhôn một chân chức việc ngoại ngạch ở phòng giấy; nhưng ngay sau khi bố chết, Tikhôn liền nghỉ việc. Những mối lo không lúc nào dứt, cuộc vật lộn khổ sở với đói rét, sự chán nản phiền muộn của mẹ, sự tất tưởi tuyệt vọng của bố, sự ức hiếp thô bạo của những kẻ có của và của tên chủ hiệu tạp hoá, tất cả những đau xót liên tục, hàng ngày ấy đã làm cho Tikhôn trở nên rụt rè đến khó hiểu: chỉ trông thấy cấp trên là ông ta đã run lên và chết lặng đi như con chim bị bắt. Ông ta bỏ việc. Thiên nhiên vốn vô tình và có lẽ là thích giễu cợt, thường tại cho người ta những khả năng và khuynh hướng khác nhau mà không đếm xỉa gì đến địa vị xã hội và phương tiện sống của người ta. Với tính chăm chút và trìu mến vốn có, nó nhào nặn Tikhôn, con một viên chức nghèo, thành một người nhạy cảm, lười nhác, mềm mỏng, dễ tiếp thu ấn tượng - một người đặc biệt ham khoái lạc, có khứu giác và vị giác cực kỳ tinh tế nó đã nhào nặn thành công, tu sửa cẩn thận và để cho tác phẩm của mình mọc trên cây bắp cải chua và con cá thối. Và đây, tác phẩm ấy đã mọc lên, bắt đầu "sống", như người ta thường nói. Trò vui cứ thế tiếp diễn. Số phận không ngừng hành hạ Nêđôpiuxkin - bố, nay bám lấy con trai ông ta: có lẽ nó đã quen mui. Nhưng với Tikhôn, nó chơi kiểu khác: nó không hành hạ, mà bỡn cợt ông ta. Không lần nào nó đẩy ông ta tới nước tuyệt vọng, nó không bắt ông ta phải qua những cơn đói khổ sở nhục nhã, nhưng đẩy ông phiêu bạt khắp nước Nga, từ Vêliki Uxtiuc đến Tsarevô - Kôctsaixk, khiến ông phải gánh lấy đủ mọi chức phận hèn hạ và lố bịch, thoát được cái này lại sa luôn vào cái khác: khi thì nó ban cho ông ta chức "quản gia" ở nhà một bà quí tộc từ thiện lắm lời và khoảnh tính, khi thì đưa ông ta vào làm thực khách ở nhà một thương nhân giàu có nhưng keo kiệt, khi thì đưa lên làm chủ sự văn phòng tại gia của một ông quí tộc mắt lồi và búi tóc theo kiểu Anh, khi thì lại giáng ông ta xuống địa vị nửa như thằng hầu, nửa như thằng hề của một người đi săn bằng chó... Tóm lại, số phận bắt Tikhôn nghèo khổ uống từng giọt cho đến hết cạn cốc thuốc độc đắng chát của cuộc sống lệ thuộc. Suốt đời, ông ta phục vụ thói ngông cuồng khó chịu, sự chán chường uể oải và độc ác của bọn quí tộc phù phiếm... Biết bao lần, sau khi chịu để cho đám khách khứa nhạo cợt chán chê mê mỏi, rồi cuối cùng được chúng buông tha và lui về phòng riêng một mình với bóng, toàn thân nóng bừng lên vì hổ thẹn, mắt đầm đìa những giọt lệ tuyệt vọng lạnh giá, ông ta thề là hôm sau sẽ bí mật trốn ra thành phố, thử cầu may, mong tìm lấy một chân kí lục hay chết đói ngoài đường cho xong.
Nhưng, một là trời không cho ông ta có đủ nghị lực; hai là ông ta nhút nhát, ba là, không biết chạy chọt thế nào để kiếm chỗ làm, không biết hỏi ai? họ sẽ không cho làm đâu - con người khốn khổ ấy vừa thì thầm vừa trăn trở một cách chán nản trên giường - họ sẽ không nhận đâu?". Và hôm sau, ông ta lại kéo lê xiềng xích của mình. Thân phận ông ta càng khổ nhục hơn vì nỗi vẫn con Tạo chu đáo ấy lại không chịu mất công phú cho ông ta một chút bằng chứng về những khả năng và năng khiếu, không thể thiếu được cho nghề nghiệp của người làm trò vui. Chẳng hạn, ông ta không biết khiêu vũ đến kiệt sức với chiếc áo khoác ngắn bằng da gấu lộn trái, cũng không biết bông phèng và nói những lời lịch thiệp giữa tiếng roi quất đen đét ngay bên mang tai. Đôi khi phải trần truồng như nhộng đi ra ngoài trời lạnh 20 độ âm để làm trò cười cho khách, ông ta bị cảm lạnh. Dạ dày ông ta không tiêu hoá được rượu nho trộn với mực và những thứ tạp nhạp khác, không tiêu hoá nổi nấm dại băm nhỏ và nấm độc trộn với dấm. Có trời biết được số phận Tikhôn sẽ ra sao, nếu như không có một chuyện bất ngờ xảy ra: vị ân nhân cuối cùng của ông ta, một tay trưng thuế ( [144] ) phất to, trong lúc vui đùa, đã cho ghi vào di chúc của mình như sau: "Tôi để lại làng Bexxêlenđêepka cùng với toàn bộ ruộng vườn thuộc làng này - do tôi bỏ tiền ra mua chứ không phải tài sản thừa kế - cho Ziôzia (còn gọi là Tikhôn) Nêđôpiuxkin được quyền sở hữu vĩnh viễn và truyền lại cho con cháu". Mấy ngày sau, do ăn món cháo cá xterlê , vị ân nhân bị liệt toàn thân. Trong nhà nhốn nháo, hoảng loạn cả lên. Toà án đột nhiên can thiệp vào, niêm phong tài sản theo đúng phép tắc. Thân nhân đổ đến. Người ta mở di chúc, đọc xong liền cho gọi Nêđôpiuxkin. Nêđôpiuxkin đến. Đa số những người họp mặt tại đây đã biết Nêđôpiuxkin giữ trách nhiệm gì trong nhà vị ân nhân của ông ta: những tiếng reo hò inh ỏi, những lời chúc mừng giễu cợt ầm ầm nổi lên chào đón ông ta. "ông địa chủ, đấy kìa, một ông địa chủ mới?" - mấy người thừa kế reo lên. "Chính thế - một tay pha trò và châm chọc nổi tiếng tiếp lời - có thể nói không nhầm... đấy quả là... là... đấy mới đích thực là người thừa kế". Và tất cả mọi người đều phì cười. Nêđôpiuxki vẫn chưa tin ở vận may của mình.
Người ta đưa di chúc cho ông ta xem, ông ta đỏ mặt lên, nheo mắt, xua hai tay, khóc nức nở, nước mắt tuôn như mưa. Tiếng cười rầm rộ của đám đông biến thành tiếng gầm đồng thanh, vang động. Làng Bexxêlenđêepka chỉ có hai mươi hai nông dân; chẳng ai tiếc gì lắm, vậy thì tại sao sẵn dịp may như thế này lại không bỡn cợt một chút cho vui?
Nhưng trong số những người thừa kế có một người ở Pêtecxbua tới, một người đàn ông dáng điệu đường hoàng, mũi kiểu Hy Lạp, vẻ mặt rất mực cao quí tên là Rôxtixlap Ađanưts Stôppen. Ông ta không chịu nổi cái chuyện khó chịu đó và xoay ngang người tiến lại gần Nêđôpiuxkin và ngó qua vai, nhìn Nêđôpiuxkin với vẻ kiêu ngạo, nói bằng giọng đầy khinh miệt: "Thưa tôn ông, theo chỗ tôi biết, tôn ông là thằng hầu mua vui của ngài Fêđô Fêđôrôvits đáng kính, có phải thế không ạ?" Ông quí tộc người Pêtecxbua nói tiếng Nga hết sức thuần khiết, hoạt bát và đúng cách. Vì bối rối và xúc động, Nêđôpiuxkin không nghe rõ lời ông khách lạ nói với mình, nhưng những người khác lập tức im bặt. Người hay pha trò mỉm cười độ lượng. Ông Stôppen xoa hai tay và nhắc lại câu hỏi.
Nêđôpiuxkin ngạc nhiên ngước mắt nhìn lên và há hốc mồm ra. Rlôxtixlap Ađanưts nheo mắt với vẻ châm chọc.
- Thưa tôn ông, chúc mừng tôn ông, xin chúc mừng - ông ta nói tiếp - thực ra, có thể nói rằng không phải người nào cũng ưng kiếm miếng ăn bằng cách như thế, nhưng de gustibus non est disputandum, nghĩa là mỗi người có sở thích riêng...Phải không ạ?
Có người nào ở đằng cuối đám đông thốt lên một tiếng kêu ngạc nhiên và khoái trá, nghe như tiếng rên ngắn ngủi, nhưng vẫn lịch sự.
- Xin ông cho biết - ông Stôppen nói tiếp, phấn chấn vì thấy mọi người mỉm cười - nhờ tài năng gì đặc biệt mà ông có được cái hạnh phúc như thế? Không, đừng ngượng, cứ nói đi; tất cả chúng ta ở đây có thể nói là người nhà cả thôi, en famille . Đúng không nào, thưa các vị, chúng ta ở đây, là en famille ?
Người thừa kế được Rôxtixlap Ađanưts ngẫu nhiên hỏi câu ấy tiếc thay lại không biết tiếng Pháp, nên đành ừ hữ cho xong. Nhưng một người thừa kế khác, trẻ tuổi, trên trán có những vệt màu vàng, vội đỡ lời: "vu-i, vu-i, tất nhiên rồi".
Ông Stôppen lại nói: - Có lẽ ông biết đi bằng tay, chổng hai chân lên trời chăng?
Nêđôpiuxkin buồn rầu nhìn quanh: mọi khuôn mặt đều ngời lên nụ cười giễu cợt độc ác, mọi cặp mắt đều long lanh một vẻ khoái trá.
- Hay ông biết gáy như gà trống chăng?
Tiếng cười rộ lên xung quanh và lập tức bặt đi, nhường chỗ cho sự chờ đợi.
- Hay ông biết dùng mũi...
- Này thôi đi! - Một tiếng quát gay gắt ngắt lời Rôtixlap Ađanưts - Đi hành hạ một người nghèo khổ mà không biết xấu hổ sao?
Mọi người ngoảnh lại nhìn. Tsertôpkhanôp đứng ở cửa. Vì là cháu họ xa của người quá cố, ông cũng nhận được giấy mời tới dự cuộc họp gia đình.
Lúc đọc di chúc, như thường lệ, ông vẫn giữ vẻ kiêu hãnh, đứng xa mọi người khác.
- Thôi cái trò ấy đi - ông hất cao đầu với vẻ tự hào, nhắc lại.
Ông Stôppen quay phắt lại, và thấy một người y phục xoàng xĩnh, thân hình xấu xí, ông khẽ hỏi một người bên cạnh (thận trọng không bao giờ thừa):
- Ai đấy?
- Tsertôpkhanôp, thằng cha chẳng có vai vế gì đâu - người kia rỉ tai ông ta.
Rôxtixlap Ađanưts liền tỏ vẻ coi khinh.
- Nhưng ông có quyền gì mà ra lệnh ở đây? - ông ta nói giọng mũi và nheo mắt lại - xin hỏi: ông là bậc vương tướng gì kia chứ?
Tsertôpkhanôp nổ bùng lên như thuốc súng gặp tia lửa. Sự cuồng nộ làm ông ta nghẹn thở.
Đz-đz-đz-đz - Tsertôpkhanôp rít lên như bị bóp cổ, và đột nhiên gầm vang như sấm - Ta là ai à? Ta là ai hả? Ta là Pantêlây Tsertôpkhanôp, một người dòng họ quí tộc lâu đời, tổ phụ ta đã từng phụng sự Sa hoàng, còn ngươi là gì?
Rôxtixlap Ađanưts tái mặt đi và lùi một bước về phía sau. Ông ta không ngờ bị trả miếng như thế.
- Ta là... ta... ta là... ô, ô, ô!
Tsertôpkhanôp xông tới. Stôppen hoảng hồn nhảy lùi về phía sau, khách khứa xô tới ngăn ông địa chủ nổi cáu.
- Đấu súng, đấu súng, lập tức đấu súng... Bắn xuyên qua chiếc mùi xoa! - Pantêlây nổi khùng, gào lên - hoặc phải xin lỗi ta và xin lỗi ông kia.
- Xin lỗi đi, xin lỗi đi thôi - Những người thừa kế đứng xung quanh Stôppen thì thào, lo sợ - ông ta có khác gì người điên đang lên cơn đâu, ông ta có thể cắt cổ ông như bỡn.
- Xin lỗi, xin lỗi, tôi không biết - Stôppen nói ấp úng - tôi không biết...
- Xin lỗi cả ông kia nữa! - Pantêlây gào lên chưa chịu thôi.
- Cả ông nữa... xin lỗi - Rôxtixlap Ađanưts nói thêm với Nêđôpiuxkin trong khi chính bản thân Nêđôpiuxkin cũng đang run như lên cơn sốt.
Tsertôpkhanôp nguôi giận, tới gần Tikhôn Ivanưts, cầm tay ông ta, đưa mắt khắp xung quanh với vẻ ngổ ngáo, và thấy không ai dám nhìn mình, liền đi ra với vẻ đắc thắng, giữa bầu không khí lặng phắc như tờ, dắt theo cả ông chủ mới của làng Bexxêlenđêepka.
Từ đó, họ không rời nhau ra nữa (làng Bexxêlenđêepka chỉ cách làng Bexxônôp có tám dặm). Lòng biết ơn vô hạn của Nêđôpiuxkin chẳng bao lâu đã chuyển thành sự sùng kính nịnh nọt.
Vốn yếu đuối, nhu nhược và không hoàn toàn chính trực, Tikhôn tự hạ mình sát đất trước Pantêlây, con người gan dạ và vô tư. "Có phải chuyện dễ đâu! - đôi khi Tikhôn thầm nghĩ - anh ấy nói với quan tỉnh trưởng mà nhìn thẳng vào mắt ngài... Lạy Chúa tôi, anh ấy cứ nhìn như không ấy thôi!" Nêđôpiuxkin ngạc nhiên quá đỗi về Tsertôpkhanôp, ngạc nhiên đến mức băn khoăn, đến hao mòn cả tâm trí, ông ta coi Tsertôpkhanôp là con người phi thường, thông minh, uyên bác. Kể thì cũng phải thôi, bởi vì học vấn của Tsertôpkhanôp dẫu có xoàng đi nữa, nhưng so với học vấn của Nêđôpiuxkin thì vẫn là lỗi lạc. Thực ra, Tsertôpkhanôp ít đọc sách báo tiếng Nga, còn tiếng Pháp thì ông ta kém đến nỗi có lần viên gia sư người Thuỵ Sĩ hỏi ông! "Vous parlez français, monsieur?" ( [145] ) thì ông ta trả lời: " Jơ ( [146] ) không hiểu - và ông ta nghĩ một lát rồi nói thêm: - pa ( [147] ); nhưng ông ta vẫn nhớ được rằng trên đời có Vonte, một nhà văn rất tài tình, rằng người Pháp với người Anh đã đánh nhau nhiều lần và Frêđêric đại đế là một ông vua Phổ cũng nổi danh về quân sự. Trong số các nhà văn Nga, ông ta kính trọng Đerjavin nhưng yêu mến Marlinxki và gọi con ngựa cái hay nhất của mình là Ammalat - Bêc...( [148] )
Mấy ngày sau cuộc gặp gỡ đầu tiên của tôi với hai người bạn, tôi đến làng Bexxônôvô thăm Pantêlây Erêmêits. Từ xa tôi đã nhìn thấy ngôi nhà nhỏ của ông ta. Nó đứng sừng sững ở một chỗ trơ trụi, "ngất nghểu trên cao", như con diều hâu lượn treo mình trên cánh đồng. Toàn bộ khu nhà của Tsertôpkhanôp gồm bốn căn nhà to nhỏ khác nhau, tường bằng gỗ súc; nhà ở, chuồng ngựa, nhà kho và nhà tắm. Mỗi căn nhà đứng riêng, ung dung một mình. Không có rào xung quanh, cũng không có cổng. Người đánh xe của tôi băn khoăn dừng lại bên cái giếng đã gần như biến thành ao tù, đầy rác rưởi bẩn thỉu. Cạnh nhà kho, mấy con chó con gày guộc, lông xơ xác, đang gặm xác một con ngựa chết, chắc là Orbaxxan; một con trong số đó hếch cái mõm đẫm máu lên, sủa vội mấy tiếng rồi lại bắt đầu gặm những cạnh sườn đã lộ ra. Một gã trai chừng mười bẩy tuổi đứng gần con ngựa, mặt nó béo húp, da vàng ệch, nó mặc y phục côdăc, chân không giày. Nó nghiêm trang nhìn mấy con chó mà nó có nhiệm vụ trông coi, và thỉnh thoảng lại dùng roi da quất những con tham lam nhất.
- Ông chủ có nhà không? - Tôi hỏi.
- Có trời biết đượct - Gã trai đáp - ông cứ gõ cửa đi.
Tôi xuống xe và tới bậc tam cấp của căn nhà.
Nhà ở của Tsertôpkhanôp nom đến thảm hại: tường bằng gỗ súc đã sạm đen và ưỡn "bụng" ra phía ngoài; ống khói đã xiêu đổ; các góc nhà đã mục ải và rệu rạo; dưới cái mái nhà lờm xờm, tùm hụp, những khung cửa sổ nhỏ xanh mờ ngó ra ngoài với vẻ chán chường khôn tả: một số gái giang hồ về già thường có những cặp mắt như thế. Tôi gõ cửa; không ai lên tiếng. Nhưng tôi nghe thấy ở bên trong có tiếng cáu gắt: Azơ, buki, vêđi ( [149] ); đọc đi, đồ ngốc - một giọng khàn khàn nói - azơ, buki, vêđi, động từ, không phải! Động từ, việc tốt, ăn! ăn!... Nói đi, đồ ngu!
Tôi gõ cửa lần nữa.
Vẫn tiếng người ấy quát lên:
- Vào đi; ai đấy?
Tôi vào gian phòng ngoài nhỏ bé, trống không và qua cánh cửa để ngỏ, tôi thấy chính Tsertôpkhanôp. Ông ta mặc áo choàng Bukhara nhem nhuốc vệt mỡ, quần rộng ống, đầu đội mũ ermônka ( [150] ) đỏ, ngồi trên ghế, một tay nắm chặt mõm con chó xù còn non, tay kia cầm mẩu bánh mì dữ ngay trên mũi nó.
- A! - ông ta thốt lên với vẻ ung dung và không rời khỏi chỗ - rất vui mừng được ông tới thăm. Mời ông ngồi. Tôi đang bận một chút với con Venzor này... Tikhôn Ivanưts - ông ta cất cao giọng nói thêm - xin mời sang đây. Có khách đến thăm.
Tôi đến ngay đấy, đến ngay đấy - Tikhôn Ivanôvits trả lời từ buồng bên - Masa, đưa cà vạt đây.
Tsertôpkhanôp lại loay hoay với con chó Venzor và đặt miếng bánh mì lên mũi nó. Tôi nhìn xung quanh. Trong phòng, ngoài chiếc bàn có thể kéo dài thêm ra, mặt ván đã vênh vẹo, đứng trên mười ba cái chân cao thấp không đều nhau và bốn chiếc ghế rơm đã võng xuống thì không còn đồ đạc gì nữa.
Tường quét vôi trắng, có trang trí những vệt hình sao màu xanh, và chắc là quét vôi đã lâu lắm rồi, vì nhiều chỗ đã tróc lở. Giữa các cửa sổ có treo tấm gương lớn mờ đục, đã vỡ, lồng trong cái khung đồ sộ bằng gỗ màu đỏ. Ở các góc nhà có những ống điếu dài và những cây súng. Từ trần nhà có những sợi tơ nhện to và đen rủ xuống.
Azơ, buki, vêđi, động từ, việc tốt, - Tsertôpkhanôp nói chậm rãi và bỗng kêu lên như điên: - A,! Ăn? Ăn?... Con vật ngu lạ?... Ăn!
Nhưng con chó xấu số chỉ run lên và không dám há mõm ra; nó vẫn ngồi quặp đuôi lại một cách đau đớn, mõm méo xệch đi, mắt chớp chớp buồn rầu và nheo lại, như tự nhủ thầm: xin tuỳ lượng ông chủ!
- Ăn đi, này! chộp lấy! - ông địa chủ nghịch ngợm nhắc lại.
- Ông làm nó sợ đấy - tôi nói.
- Thế thì cút xéo nó đi?
Ông ta đá nó một cái. Con chó đáng thương thong thả đứng lên, làm rơi miếng bánh mì trên mũi và đi ra phòng ngoài, dường như bước rón rén, coi vẻ rất tủi nhục. Mà quả vậy: lần đầu tiên người lạ đến nhà, vậy mà chủ lại đối xử với nó như thế.
Cánh cửa thông sang phòng bên kẹt một tiếng nhẹ, và ông Nêđôpiuxkin vào, vừa cúi chào vừa mỉm cười một cách dễ ưa. Tôi đứng lên chào lại.
- Không dám, không dám phiền ông - ông ta lắp bắp.
Chúng tôi ngồi xuống. Tsertôpkhanôp đi sang phòng bên.
- Ông hạ cố đến vùng chúng tôi lâu chưa ạ? - Nêđôpiuxkin nói với giọng mềm mỏng, sau khi khẽ hắng giọng trong lòng bàn tay, và đặt những ngón tay trước môi để giữ phép lịch sự.
- Được hơn một tháng, ông ạ.
- Dạ vâng.
Chúng tôi im lặng.
- Hiện giờ thời tiết thật dễ chịu - Nêđôpiuxkin nói tiếp và nhìn tôi với vẻ biết ơn, như thể thời tiết phụ thuộc vào tôi - lúa mì có thể nói là tốt tuyệt.
Tôi nghiêng đầu tỏ vẻ tán thành. Chúng tôi lại im lặng.
- Hôm qua ông Pantêlây Êrêmêits săn được hai con thỏ - Nêđôpiuxkin nói với vẻ gượng gạo, rõ ràng là muốn làm cho câu chuyện linh hoạt lên - đúng thế ạ, hai con thỏ cực lớn. - Chó của ông Tsertôpkhanôp có khá không ông?
- Tuyệt trần đời! - Nêđôpiuxkin nói với vẻ thích thú - có thể nói là nhất tỉnh. (Ông ta nhích lại gần tôi) Mà cũng phải thôi! Pantêlây Êrêmêits là người như thế kia mà! Ông ấy muốn gì, định làm gì là xong ngay tắp lự, cứ là băng băng đi! Xin nói với ông là Pantêlây Êrêmêits...
Tsertôpkhanôp vào phòng. Nêđôpiuxkin nhếch mép cười, im bặt và đưa mắt ra hiệu với tôi, liếc nhìn về phía Tsertôpkhanôp, như muốn nói: đấy, rồi chính ông sẽ rõ. Chúng tôi bắt đầu nói chuyện về săn bắn.
- Ông có muốn tôi cho ông xem đôi chó săn của tôi không? - Tsertôpkhanôp hỏi tôi, và không đợi trả lời, lập tức gọi Karp.
Một gã trai lực lưỡng vào phòng, gã mặc kafơtan bằng vải Nam Kinh màu lá mạ, cổ áo màu xanh da trời, cúc áo kiểu gia nhân.
Tsertôpkhanôp nói nhát gừng:
- Bảo Fomka đưa Ammalat và Xaiga đến đây, và thắng bộ tươm tất, nghe chưa!
Karp toác miệng cười, phát ra một âm thanh không rõ là tiếng gì, và đi ra. Fômka tới, tóc chải mượt, nai nịt gọn ghẽ, đi ủng, dắt chó. Vì phép lịch sự tôi khen ngợi những con vật đần độn (cả con chó săn đều hết sức đần). Tsertôpkhanôp nhổ bọt thẳng vào hai lỗ mũi Ammalat, điều đó rõ ràng không làm cho con chó thích thú chút nào. Nêđôpiuxkin cũng vuốt ve ngang hông Ammalat. Chúng tôi lại bắt đầu chuyện gẫu. Tsertôpkhanôp dần dần hết cơn nóng nẩy, không còn hung hăng và cáu kỉnh nữa; vẻ mặt ông ta đã đổi khác. Ông ta nhìn tôi và nhìn Nêđôpiuxkin...
- Này! - ông ta bỗng kêu lên - để cô ấy ngồi trong đó một mình làm gì? Masa! Masa! Sang đây.
Có người nào rục rịch trong căn phòng bên, nhưng không có tiếng trả lời.
- Ma-a-sa - Tsertôpkhanôp âu yếm nhắc lại - sang đây. Không sao, đừng sợ.
Cửa nhẹ nhàng mở ra, tôi thấy một người đàn bà chừng hai mươi tuổi, thân hình cao và cân đối, mặt kiểu người Digan, nước da bánh mật, mắt nâu vàng, tóc tết bím, đen như mun, hàng răng trắng bóng lấp lánh sau cặp môi mỏng và đỏ chót. Cô ta mặc áo dài trắng. Tấm khăn san màu thanh thiên, cài ở cổ bằng chiếc kim vàng, rủ tới ngang chừng đôi tay thon thả rất quí phái. Cô ta bước hai bước với vẻ vụng về bẽn lẽn của một người ít quen giao thiệp, rồi dừng lại và gằm mắt xuống.
- Đây tôi xin giới thiệu - Pantêlây Êrêmêits nói - cô ấy không hẳn là vợ tôi, nhưng cũng gần như là vợ.
Masa hơi đỏ mặt lên và mỉm cười bối rối. Tôi cúi chào càng trịnh trọng hơn. Tôi rất ưa cô ta. Cái mũi phượng hoàng thanh tú với hai cánh mũi nở rộng gần như trong suốt, đôi lông mày cao vạch thành hai đường cong đầy vẻ can đảm, đôi má tái nhợt, hơi hõm xuống - mọi đường nét trên mặt cô ta đều biểu hiện tính khí say mê thất thường và sự táo tợn không lo trước nghĩ sau. Dưới bím tóc bện chặt, trên cái cổ bạnh của cô, hai hàng tóc tơ óng ánh xoà xuống dưới: dấu hiệu của huyết thống và sức lực. Cô ta tới gần cửa sổ và ngồi xuống. Tôi không muốn làm cô ta thêm bối rối và nói chuyện với Tsertôpkhanôp. Masa hơi quay đầu lại và bắt đầu liếc nhìn tôi, cái nhìn vụng trộm, nhút nhát, chớp nhoáng. Luồng mắt của cô ta cứ thập thò như cái lưỡi rắn. Nêđôpiuxkin tới ngồi cạnh cô ta, thì thầm cái gì bên tai. Cô ta mỉm cười. Vừa mỉm cười, cô ta vừa hơi nheo mũi và nhếch môi trên lên, vì thế vẻ mặt cô nửa như mặt mèo, nửa như mặt sư tử...
"Ô ngươi chớ có đụng đến ta", - tôi nghĩ, và cũng lén lút nhìn cái thân hình mềm dẻo, bộ ngực căng phồng và những cử động góc cạnh, mau lẹ của cô ta.
- Thế nào, Masa - Tsertôpkhanôp hỏi - phải đưa cái gì ra thết khách chứ, hả?
- Chúng ta có mứt - Cô ta đáp.
- Thế thì đem mứt ra đây, cả vôtka nữa. Mà này, Masa ạ. - ông ta hét với theo - đem cả ghita nữa nhé.
- Ghita làm gì? Em không hát đâu.
- Vì sao?
- Em không thích.
- Ồ, vớ vẩn, em sẽ thích, nếu như...
- Sao? - Masa liền cau mày, hỏi.
- Nếu mọi người yêu cầu - Tsertôpkhanôp nói nốt, không phải không có phần bối rối.
- A!
Cô ta ra, lát sau quay lại, đem theo mứt, vôtka và lại ngồi bên cửa sổ. Trên trán cô ta vẫn còn thấy một nếp nhăn nhỏ. Cả hai hàng lông mày nhướn lên, hạ xuống như đôi râu ong bò vẽ... Hỡi bạn đọc, các bạn có để ý thấy mặt ong bò vẽ độc ác thế nào không? Giông tố thế nào cũng nổ ra, tôi nghĩ. Cuộc nói chuyện rời rạc. Nêđôpiuxkin hoàn toàn im lặng và mỉm cười gượng gạo. Tsertôpkhanôp thở hơn hển đỏ mặt và trợn mắt lên. Tôi đã toan bỏ đi...
Masa bỗng nhóm lên, mở toang cửa sổ, thò đầu ra, và cáu kỉnh quát gọi một người đàn bà đi qua: "Acxinhya!". Người đàn bà giật mình, toan quay lại và liền trượt chân, ngã oạch xuống đất. Masa ngửa người ra sau và cất tiếng cười giòn giã.
Tsertôpkhanôp cũng bật cười, Nêđôpiuxkin cũng kêu rú lên vì thích thú. Tất cả chúng tôi đều tươi tỉnh lên. Một làn chớp đã làm cơn giông bùng ra...không khí trở nên trong sạch.
Nửa giờ sau, có lẽ không ai nhận ra chúng tôi nữa: chúng tôi chuyện trò huyên thuyên và nô nghịch như trẻ con. Masa đùa cợt hăng hơn tất cả mọi người - Tsertôpkhanôp nhìn như muốn nuốt lấy cô. Mặt cô tái đi, hai lỗ mũi nở rộng, mắt vừa rực lên vừa tối lại. Cô nàng bẽn lẽn đã hăng lên. Nêđôpiuxkin bước thấp bước cao bằng đôi chân mập và ngắn, bám theo Masa như con vịt đực bám theo con vịt cái. Ngay cả Venzor cũng chui ra khỏi gậm chiếc ghế dài ở phòng ngoài, đến đứng ở ngưỡng cửa, nhìn chúng tôi một lát, rồi đột nhiên bắt đầu nhảy lên và sủa. Masa nhẹ nhàng luồn sang phòng bên, mang ghita đến, hất bỏ tấm khăn san khỏi vai, nhanh nhẹn ngồi xuống, ngẩng cao đầu và cất tiếng hát một bài ca Digan. Giọng cô âm vang, rung động như tiếng kêu của cái chuông thủy tỉnh bị nứt rạn, lúc thì bừng bừng lên, lúc thì lặng dần đi... Tôi vừa cảm thấy thích thú, vừa rờn rợn.
"Ai jghi, giôvôri!..." ( [151] ) Tsertôpkhanôp bắt đầu vũ.
Nêđôpiuxkin bắt đầu giậm chân và nhích đi từng bước ngắn. Masa vặn vẹo toàn thân như miếng vỏ cây phong hơ trên lửa; những ngón tay thon nhỏ của cô hăm hở lướt trên cây đàn ghita, cái cổ họng nước da bánh mật từ từ nổi phồng lên dưới chuỗi hạt hổ phách quấn hai vòng. Khi thì cô bỗng ngừng bặt, lử đử lừ đừ, dường như miễn cưỡng bật dây đàn, còn Tsertôpkhanôp dừng lại, chỉ nhún một bên vai và đổi chân tại chỗ, còn Nêđôpiuxkin lắc đầu như ông phỗng sứ; khi thì cô ta lại hát gào lên như điên, vươn thẳng thân và ưỡn ngực ra, còn Tsertôpkhanôp lại ngồi xổm xuống đất, rồi nhảy chồm lên tới sát trần nhà, xoay tít như con quay, hét lên: "Mau!"...
- Mau, mau, mau! - Nêđôpiuxkin liến thoắng phụ hoạ theo.
Tối khuya tôi mới rời khỏi Bexxônôvô...