BƯỚC MẠT VẬN CỦA TSERTÔPKHANÔP ⚝ I ⚝
Sau lần tôi đến thăm Pantêlây Êrêmêits chừng hai năm thì những tai họa của ông bắt đầu xảy ra, đúng là những tai họa. Trước đó, ông đã từng gặp những chuyện bực mình, những thất bại, thậm chí cả những điều bất hạnh, nhưng ông không hề bận tâm đến những chuyện ấy và vẫn "sống ung dung" như trước. Tai họa đầu tiên làm ông bàng hoàng là một đòn mãnh liệt nhất giáng vào tình cảm của ông: Masa rời bỏ ông.
Cái gì đã khiến nàng rời bỏ mái nhà ông, nơi tưởng chừng như đã trở nên rất đỗi thân thuộc đối với nàng, điều đó thật khó nói. Cho đến những ngày cuối cùng của đời mình, Tsertôpkhanôp vẫn tin chắc rằng kẻ đã khiến Masa phụ bạc ông là một gã láng giềng trẻ tuổi, một tào trưởng kỵ binh phục viên, biệt hiệu là Iaff. Theo lời Pantêlây Êrêmêits, gã chiếm được nàng chỉ vì gã luôn tay xoắn ria mép, xức dầu thơm lừng và hay thốt lên những tiếng "hừm hừm" nhiều ý nghĩa. Nhưng, đúng hơn hết là nên cho rằng dòng máu Digan phiêu lãng giang hồ vốn có trong cơ thể Masa đã xui khiến nàng làm như vậy. Dù sao đi nữa, chỉ biết rằng một chiều hè kia, Masa đã lấy mấy bộ áo xống cũ rách, gói thành một bọc nhỏ và rời khỏi nhà Tsertôpkhanôp.
Trước đó, ba ngày liền, nàng ngồi lì trong góc nhà, co ro nép vào tường như con cáo bị thương, không nói với ai nửa lời, chỉ lúng liếng đôi mắt, và trầm ngâm suy nghĩ, lúc thì cau mày, lúc thì nhoẻn miệng cười, lúc thì thu hai tay lại như khép mặt áo vào cho ấm người. Trước kia, nàng cũng có những lúc "trái tính trái nết" như thế, nhưng tình trạng đó không bao giờ kéo dài. Tsertôpkhanôp biết điều đó vì vậy chính ông không lo ngại và cũng chẳng làm phiền nàng. Nhưng lần ấy, sau khi thăm sân nuôi chó trở về, vì được người quản chó cho biết là hai con chó săn cuối cùng của ông đã "toi mạng", ông gặp người ở gái; và người này giọng run run, trình với ông rằng Maria Akinfiepna gửi lời chào ông, bảo nói lại với ông rằng nàng chúc ông mọi sự may mắn, nhưng không trở về với ông nữa. Nghe xong, Tsertôpkhanôp xoay hai vòng tại chỗ, rống lên một tiếng ồ ề, rồi lập tức đâm đầu đuổi theo cô ả chạy trốn, không quên mang theo cả súng lục.
Ông đuổi kịp nàng ở cách nhà hai dặm, cạnh một khu rừng bạch dương, trên con đường lớn dẫn về thị trấn huyện. Mặt trời đã xuống thấp ở phía chân trời, mọi vật xung quanh đột nhiên đều nhuốm màu đỏ thắm: cây cối, cỏ và đất.
- Trốn theo Iaff! Trốn theo Iaff - Vừa thấy Masa, Tsertôpkhanôp đã rên rỉ - Trốn theo Iaffl - ông vừa nhắc lại vừa chạy tới gần Masa, chân vấp dúi vấp dụi.
Masa dừng lại và quay mặt về phía ông. Nàng đứng quay lưng về phía ánh sáng, vì thế toàn thân nàng nom đen ngòm, như tạc bằng khúc gỗ thẫm màu. Riêng có lòng trắng mắt nổi lên như hai trái hạnh nhân bằng bạc, còn chính con ngươi thì càng tối hơn.
Nàng vứt bọc hành lý sang một bên và khoanh tay trước ngực.
- Cô bỏ đến với Iaff, đồ khốn kiếp! - Tsertôpkhanôp nhắc lại và toan vồ lấy vai nàng, nhưng bắt gặp cái nhìn của nàng, ông sững người và ngập ngừng đứng nguyên tại chỗ.
- Em không đến với Iaff, Pantêiây Êrêmêits ạ - Masa khẽ đáp, giọng đều đều - Song em không thể ở với ông được nữa.
- Sao lại không ở được? Tại sao vậy? Tôi có điều gì khiến em không bằng lòng chăng?
Masa lắc đầu.
- Ông chẳng làm gì khiến em không bằng lòng cả Pantêlây Êrêmêitss ạ, nhưng ở nhà ông, em buồn lắm... Cám ơn ông về những điều ông đã làm cho em từ trước đến nay, nhưng em không thể ở lại được!
Tsertôpkhanôp ngạc nhiên; thậm chí ông vỗ hai tay vào đùi và nhảy lên.
- Sao lại thế kia chứ? Ở với nhau bao nhiêu, chỉ biết có vui thú và cảnh sống yên ấm; vậy mà bỗng nhiên lại buồn phiền. Tự dưng lại nảy ra ý định bỏ người ta mà đi! Quàng tấm khăn lên đầu và bỏ đi. Mà lâu nay vẫn được quí trọng không kém gì một bà quí tộc...
- Em cho rằng giá đừng làm như thế lại hay hơn - Masa ngắt lời ông?
- Đừng là thế nào? Từ một ả Digan giang hồ, bỗng chốc trở thành một bà quí tộc mà lại không thiết là thế nào? Một người dòng dõi tiện dân như cô mà lại không thiết điều ấy là thế nào? Nói như vậy mà có thể tin được ư? Ở đây nhất định có sự phản bội ẩn náu ở bên trong, nhất định có sự phản bội!
Ông lại sôi lên.
- Em không hề có ý định bội bạc gì cả, mà trước đây cũng thế. - Masa nói bàng giọng du dương, rành rẽ. - nhưng em đã nói với ông rồi đấy: nỗi buồn xâu xé lòng em.
- Masa? - Tsertôpkhanôp kêu lên và đấm vào ngực mình - Này thôi đi, hành hạ người ta thế đủ rồi... đủ rồi đấy! Thề có Chúa trời chứng giám. Cô thử nghĩ xem Tisa sẽ nói thế nào; cô cũng nên thương anh ấy mới chứ!
Ông cho em gửi lời chào Tikhôn Ivanôvits và nói giùm với anh ấy rằng...
Tsertôpkhanôp vung hai tay lên.
- Không, cô nói dối, cô không thể đi được đâu? Gã Iaff của cô đừng có hòng mong chờ cô đến với hắn!
- Ông Iaff... - Masa định nói...
- Ông iếc gì cái thằng Iaff ấy - Tsertôpkhanôp nhại nàng - Nó là thằng gian giảo, đểu cáng nhất trần đời, và mặt mũi như con khỉ ấy!...
Tsertôpkhanôp lồng lộn suốt nửa giờ với Masa, khi thì tới sát cạnh nàng, khi thì nhảy lùi ra xa, khi thì vung tay dọa đánh nàng, khi thì cúi rạp xuống cầu xin nàng, khóc lóc, quát mắng...
- Em không thể chiều ý ông được. - Masa nhắc lại - em buồn phiền lắm... buồn héo ruột héo gan - Mặt nàng dần dần có vẻ thờ ơ gần như ngái ngủ, đến nỗi Tsertôpkhanôp phải hỏi nàng là phải chăng nàng bị bỏ thuốc mê.
- Buồn - nàng thốt lên lần thứ mười.
- Này, nếu tôi giết cô thì sao? - Ông bỗng quát lên và rút khẩu súng lục trong túi ra.
Masa mỉm cười, mặt nàng tươi tỉnh hẳn lên.
- Có sao đâu? Cứ giết đi, Pantêlây Êrêmêits: tuỳ ông thôi, nhưng quay trở lại thì nhất định là không thể được.
- Cô không trở về? - Tsertôpkhanôp lên cò súng.
- Em không trở về đâu, anh thân mến ạ. Muốn thế nào thì thế, em không về đâu. Em nói dứt khoát đấy.
Tsertôpkhanôp bất ngờ giúi khẩu súng lục vào tay nàng và ngồi xổm xuống đất.
- Được, thế thì em cứ giết tôi đi, không có em tôi không thiết sống nữa. Tôi đã bị em khinh ghét, vì thế tôi khinh ghét hết thảy mọi thứ trên đời.
Masa cúi xuống, nhặt bọc hành lý của mình lên, đặt khẩu súng lục xuống cỏ, không để miệng nòng chĩa về phía Tsertôpkhanôp, và tiến lại gần ông.
- Chao ôi, anh thân mến, anh buồn phiền cái nỗi gì mới được chứ? Anh còn chưa biết bọn gái Digan chúng em sao? Tính bọn em nó vốn thế, quen nết đi rồi. Khi mối sầu chia ly đã trỗi dậy trong lòng, gọi cái hồn về viễn xứ thì còn ở lại sao được? Anh hãy nhớ mãi Masa của anh, anh sẽ không thể tìm được người bạn gái khác như thế đâu, và em cũng sẽ không quên anh, con chim ưng của em; nhưng cuộc sống chung của hai ta đã chấm dứt rồi!
- Anh đã yêu em, Masạ ạ. - Tsertôpkhanôp nói lí nhí, những ngón tay bưng lấy mặt...
- Em cũng đã yêu anh, Pantêlây Êrêmêits thân yêu ạ?
- Anh đã yêu em, giờ đây anh vẫn yêu em đến điên rồ, đến mê mụ, và giờ đây anh sẽ nghĩ thế nào về việc em tự dưng bỏ anh và đi lang bạt khắp thế gian, mà không có duyên cớ gì. Anh cho rằng nếu anh không nghèo khổ thì hẳn là em sẽ không bỏ anh đâu!
Nghe những lời ấy, Masa chỉ nhếch mép cười.
- Thế mà trước kia anh vẫn bảo em là người không vụ lợi kia đấy! - Nàng nói và dang thẳng cánh vỗ mạnh vào vai Tsertôpkhanôp.
Ông đứng bật dậy.
- Này, em cũng nên cầm một ít tiền của anh đi mà tiêu, chứ trong túi không có một xu thì làm thế nào? Nhưng tốt hơn hết là em hãy giết anh đi! Anh nói thực với em đấy: cứ giết luôn anh đi cho rồi?
Masa lại lắc đầu.
- Giết anh ư? Để rồi đi đầy ở Xibêri ư, anh thân yêu?
Tsertôpkhanôp giật mình.
- Té ra chỉ vì thế, chỉ vì cô sợ phải đi tù khổ sai...
Ông lại nằm vật xuống cỏ.
Masa lẳng lặng đứng cạnh ông. Em thương anh, Pantêlây Êrêmêits ạ. - Nàng vừa nói vừa thở dài - anh là người tốt... nhưng chẳng làm thế nào được: vĩnh biệt anh!
Nàng quay đi và bước hai bước. Đêm đã xuống, và những bóng đen mờ nhạt đã từ khắp nơi tràn đến. Tsertôpkhanôp chồm dậy nhanh như cắt và chộp lấy hai khuỷu tay Masa từ phía sau.
- Thế ra mi bỏ đi thật ư, đồ rắn độc? Đến với Iaff!
- Vĩnh biệt! - Masa nhắc lại bằng một giọng đầy sức truyền cảm và gay gắt, rồi nàng vùng ra khỏi tay ông và lại đi.
Tsertôpkhanôp nhìn theo nàng, chạy tới chỗ đặt khẩu súng lục, vồ lấy khẩu súng, nhắm và bắn... Nhưng trước khi bóp cò, ông hếch cao tay lên một chút: viên đạn bay vèo qua trên đầu Masa.
Nàng vừa đi vừa ngoái lại nhìn và tiếp tục đi, dáng khệnh khạng như trêu tức ông.
Ông bưng kín mặt và vùng chạy theo...
Nhưng ông chạy chưa được năm chục bước thì đột nhiên dừng lại như bị chôn chân tại chỗ. Một giọng quen thuộc, quá quen thuộc vang đến tai ông. Masa hát: "Đời tươi trẻ, đời đáng yêu". - Nàng hát. Mỗi âm thanh tự nó lan rộng ra trong không trung đầy bóng tối, nghe ai oán và nồng nhiệt. Tsertôpkhanôp lắng tai nghe. Tiếng hát xa dần, xa dần, khi thì lặng đi, khi thì lại văng vẳng từ xa đưa tới, nhưng vẫn tuôn chảy thành dòng nóng hổi...
"Đấy là ả chọc tức ta" - Tsertôpkhanôp nghĩ, nhưng liền đó ông rên rỉ: - Ôi, không, đấy là cô ả vĩnh biệt ta, - và ông khóc như mưa.
Hôm sau, Tsertôpkhanôp đến nhà ông Iaff. Tuy là một bậc thượng lưu chính cống, Iaff ở làng quê, đã rời về ở thị trấn huyện, để "được gần gũi các vị tiểu thư" hơn nữa, nói theo lời ông ta là như thế. Tsertôpkhanôp không gặp Iaff. người hầu phòng cho biết ông ta đã đi Matxcơva từ hôm trước.
- Biết mà? - Tsertôpkhanôp tức tối kêu lên - Hai đứa thông đồng với nhau. Ả trốn đi với hắn...nhưng cứ liệu hồn!
Ông xộc vào phòng làm việc của tay đội trưởng kỵ binh trẻ tuổi, bất chấp sự ngăn cản của gã hầu phòng. Trong phòng làm việc, phía trên chiếc đi văng có treo bức chân dung ông chủ mặc võ phục kị binh, vẽ bằng sơn dầu. "À, mi đây rồi, con khỉ độc đuôi kia!" - Tsertôpkhanôp gầm lên nhảy đại lên đi văng và tống một quả vào mặt vải căng rất phẳng của bức vẽ, làm thủng một miếng lớn.
Đoạn, ông nói với gã hầu phòng:
- Hãy nói với tên chủ vô công rồi nghề của ngươi rằng vì vắng cái mặt thật bỉ ổi của y ở đây, nên ông quí tộc Tsertôpkhanôp đã đập vỡ cái mặt y vẽ trên vải. Còn nếu y muốn thách ta quyết đấu với y thì y cũng biết nên tìm ông quí tộc Tsertôpkhanôp ở đâu. Không thì ta sẽ thân hành đến tìm y! Con khỉ hèn hạ ấy có lần xuống đáy biển ta cũng sẽ tìm được. Nói xong, Tsertôpkhanôp nhảy trên đi văng xuống và trịnh trọng bỏ đi.
Nhưng viên đội kỵ binh Iaff chẳng đòi Tsertôpkhanôp phải quyết đấu quyết chiến gì cả, thậm chí ông ta không hề gặp Tsertôpkhanôp ở đâu hết, và Tsertôpkhanôp cũng chẳng nghĩ tới chuyện tìm kẻ thù của mình, vì thế giữa hai người chẳng hề xảy ra chuyện gì. Còn Masa thì sau đó ít lâu, không còn thấy tăm hơi nàng đâu nữa. Tsertôpkhanôp đã bắt đầu uống rượu, nhưng rồi ông "đã tỉnh ngộ". Song liền đó, một tai họa thứ hai lại đến với ông.
⚝ II ⚝Số là: Tikhôn Ivanôvits Nêđôpiuxkin, người bạn chí thiết của ông đã qua đời! Hai năm trước khi về thế giới bên kia, sức khỏe đã bắt đầu phản bội Nêđôpiuxkin: ông ta bắt đầu mắc bệnh khó thở, thường cứ ngủ thiếp đi, và khi tỉnh giấc, ông ta không trở lại bình thường ngay được. Thày thuốc ở huyện cả quyết rằng ông bị những cơn "xung huyết nhỏ". Trong ba ngày trước khi Masa bỏ đi, ba ngày mà nàng bắt đầu nhiễm chứng "sầu muộn", Nêđôpiuxkin nằm bẹp ở làng Bexxêlenđêepka của mình: ông ta bị cảm lạnh nặng. Vì thế hành động của Masa càng khiến ông bàng hoàng sửng sốt hơn: ông xúc động hầu như còn sâu sắc hơn cả chính Tsertôpkhanôp. Vốn tính hiền lành và rụt rè, ông ta chỉ tỏ thái độ xót thương dịu dàng đối với bạn và lộ vẻ băn khoăn đau đớn, ngoài ra không nói một câu nào... nhưng cõi lòng ông tan nát. "Nàng đã rút mất linh hồn ta" - ông ta lẩm nhẩm một mình khi ngồi trên chiếc đi văng nhỏ bọc vải sơn mà ông ưa thích và xoay một ngón tay quanh ngón tay kia. Ngay cả khi Tsertôpkhanôp đã hồi tâm thì Nêđôpiuxkin cũng chưa trấn tĩnh được, ông ta vẫn cảm thấy "trống rỗng trong lòng". "Ở chỗ này này", - ông ta vừa nói vừa chỉ vào giữa ngực, phía trên dạ dày. Ông ta sống trong tình trạng như vậy được đến mùa đông. Những trận rét đầu tiên làm cho bệnh khó thở của ông ta đỡ đi, nhưng bệnh xung huyết lại đến, lần này không phải là cơn xung huyết nhỏ, mà là cơn xung huyết ghê gớm thực sự. Ông ta không mê man ngay; ông ta vẫn còn nhận ra được Tsertôpkhanôp và thậm chí, khi nghe thấy bạn mình kêu lên một cách tuyệt vọng: "Sao lại thế, Tisa, không được tôi đồng ý mà anh lại bỏ tôi như thế thì anh tồi tệ có kém gì Masa?", ông ta đã trả lời, lưỡi líu lại: "Nhưng mà tôi P... a... ây... Ê...êits xê-da...". Tuy vậy, ông ta vẫn tắt thở ngay ngày hôm ấy, không kịp chờ viên thày thuốc huyện đến thăm bệnh. Còn viên thầy thuốc, đứng trước cái thi hài đã gần lạnh giá của ông ta, chỉ cái biết tỏ ra buồn rầu về sự mỏng manh của mọi cái trên trần thế, và đòi người ta đem cho mình "rượu vôtka với thịt lườn cá chiên khô". Đúng như người ta dự đoán, Tikhôn Ivanôvits di chúc để lại tài sản cho vị ân nhân đáng tôn kính và người bảo hộ hào hiệp của mình là "Pantêlây Êrêmêits Tsertôpkhanôp".
Nhưng tài sản đó chẳng có ích lợi gì lắm cho vị ân nhân đáng tôn kính, vì ít lâu sau, nó được đem bán đấu giá, một phần là để chi vào việc xây phần mộ, mua bức tượng mà Tsertôpkhanôp định dựng trên thi hài của bạn (rõ ràng là huyết thống của bố đã ảnh hưởng đến Tsertôpkhanôp). Bức tượng này Tsertôpkhanôp đặt mua ở Matxcơva. Đúng ra đấy phải là bức tượng một thiên thần đang cầu nguyện, nhưng người môi giới mà người ta giới thiệu cho ông lại cho rằng ở vùng quê không mấy khi có người am hiểu nghề nặn tượng, nên thay cho bức tượng thiên thần, y gửi cho ông tượng nữ thần Flora đã từng là vật trang điểm nhiều năm cho một trong những công viên thời Êkatêrina ở gần Matxcơva. Duyên do là bức tượng ấy tuy rất kiều diễm, được sáng tác theo phong cách barôkô ( [152] ), có đôi tay xinh xắn mũm mĩm, có những búi tóc xoăn bồng lên, có tràng hoa hồng trên bộ ngực trần, và thân hình hơi khom khom, nhưng lại là vật mà gã môi giới không mất tiền mua. Thế là cho đến nay, vị nữ thần đó của thần thoại vẫn đứng trên mộ Tikhôn Ivanôvits, và một chân hơi giơ lên với dáng điệu duyên dáng, vẻ mặt thực sự là hách dịch, thần đưa mắt nhìn những con bê và cừu đang nhởn nhơ xung quanh, vì đấy là những vị khách không bao giờ thiếu tại các nghĩa địa ở làng quê chúng ta.
⚝ III ⚝Sau khi mất người bạn chung thủy, Tsertôpkhanôp lại uống rượu, và lần này thì sự thể nghiêm trọng hơn nhiều. Tình cảnh của ông hoàn toàn xuống dốc. Không còn phương tiện gì để mà đi săn, tiền thì cạn ráo, mấy người làm công lại cũng bỏ đi nốt. Pantêlây Êrêmêits lâm vào cảnh cô độc hoàn toàn: chẳng biết nói năng cùng ai, chứ đừng nói gì đến chuyện thổ lộ tâm tình. Duy có niềm kiêu hãnh trong lòng ông vẫn không giảm bớt. Trái lại: tình cảnh ông càng khốn đốn thì ông càng ngạo mạn, càng kiêu căng và càng khó gần. Cuối cùng, ông đã hoàn toàn xa lánh mọi người. Ông chỉ còn một niềm an ủi duy nhất, một niềm vui sướng duy nhất: con ngựa cưỡi tuyệt diệu, lông xám, nòi ngựa vùng sông Đông mà ông đặt cho cái biệt hiệu là Malêc-Ađen, đó thực sự là một con vật phi thường. Ông đã kiếm được con ngựa ấy trong hoàn cảnh như sau.
Có lần, khi cưỡi ngựa đi qua một làng bên cạnh, Tsertôpkhanôp nghe thấy tiếng ồn ào và la hét của đám đông nông dân ở gần quán rượu. Ở giữa đám đông ấy, vẫn tại một chỗ duy nhất, có những cánh tay lực lưỡng không ngừng giơ lên, hạ xuống.
- Có chuyện gì vậy? - Bằng cái giọng bề trên vốn có của mình, ông hỏi một bà già đứng ở ngưỡng cửa nhà bà ta.
Người đàn bà dựa vào mi cửa, và dường như thiu thiu ngủ, nhìn về phía quán rượu. Ở giữa đôi dép bện bằng vỏ cây của bà ta, một thằng bé tóc hoe vàng, mặc sơ mi vải hoa, đeo dây thập ác bằng gỗ keo buông thõng trên bộ ngực trần, ngồi dang rộng chân và siết chặt hai nắm tay. Ngay tại đấy, một con gà nhép rỉa miếng vỏ bánh mì bằng bột lúa mạch đã khô cứng. Có trời biết được, thưa tôn ông - Bà lão trả lời - rồi bà ta chỉ về phía trước, đặt bàn tay răn reo, đen sạm trên đầu thằng bé - nghe đâu là trai tráng làng tôi đang đánh một tên Do Thái.
- Sao lại đánh người Do Thái? Người Do Thái nào?
- Có trời biết, thưa quí ông. Có một gã Do Thái đến làng chúng tôi; còn y từ đâu lạc loài đến thì ai mà biết được? Vaxia, về với mẹ đi, con; sùy, sùy, đồ phải gió! Người đàn bà doạ con gà con, còn Vaxia níu lấy váy bà ta.
- Thì họ đang đánh hắn đấy, thưa ông.
- Đánh thế nào? Vì cớ gì?
- Con không biết, thưa tôn ông. Hẳn là phải có duyên cớ. Mà sao lại không đánh kia chứ? Vì thưa tôn ông, hắn đã đóng đanh câu rút Chúa Kirixitô cơ mà!
Tsertôpkhanôp hò một tiếng, quất roi vào cổ ngựa, phi thẳng vào giữa đám đông, và xộc được vào bên trong, ông vẫn dùng chiếc roi ấy quất bừa phứa sang hai bên, đánh vào những người nông dân, vừa vụt vừa nói bằng giọng hổn hển:
- Hành động... tự tiện! Tự-ự... tiện! Pháp luật mới có nhiệm vụ trừng phạt, chứ không phải là tư- tư nhân-ân! Pháp luật? Pháp luật! Phá-áp lu-ật!
Chưa đầy hai phút, đám đông đã giạt hết về mọi phía, và trên mặt đất, trước cửa quán rượu, một người nằm sóng soài, thân hình nhỏ bé, gày guộc, da ngăm đen, mặc chiếc kafơtan bằng vải Nam Kinh, thân hình tơi tả và đau đớn khổ sở...Mặt tái mét, mặt trợn trừng, mồm há hốc... Cái gì thế - Cơn khiếp sợ đang tan dần hay là chính cái chết đã đến?
- Tại sao các ngươi giết người Do Thái này? - Tsertôpkhanôp nói oang oang như sấm và vung roi hăm doạ.
Đám đông lao xao trả lời. Bọn họ người thì ôm một bên vai, người thì ôm mạng sườn, người thì bưng mũi.
- Đánh ác quá! - Có tiếng người nói ở những làng phía sau.
- Có roi ngựa mà! Thế thì ai mà chả ra oai được - Tiếng một người khác thốt lên.
- Tại sao các người giết gã Do Thái? Ta hỏi các người, những kẻ mọi rợ dã man kia! - Tsertôpkhanôp nhắc lại.
Nhưng ngay lúc đó, kẻ nằm trên mặt đất nhanh nhẹn chồm dậy, và chạy ra phía sau Tsêtôpkhanôp, lật đật víu lấy rìa yên ngựa của ông.
Tiếng cười đồng thanh rộ lên trong đám đông.
- Sống dai gớm! - Lại có tiếng nói ở phía sau đám đông - Dai không kém gì con mèo!
- Thưa đức ông tôn quí, xin ngài bênh vực, cứu vớt con - gã Do Thái khốn khổ lắp bắp, áp ngực vào chân Tsertôpkhanôp - họ giết chết con mất, họ giết chết con mất, thưa đức ông tôn quí!
- Vì lẽ gì họ đánh ngươi? - Tsertôpkhanôp hỏi.
- Thề có Chúa, con không thể nói rõ được! Gia súc của họ bị giết... thế là họ nghi ngờ... mà con thì...
- Thôi được, chuyện đó ta sẽ xét sau! - Tsertôpkhanôp ngắt lời - còn bây giờ, ngươi hãy bám vào yên ngựa và đi theo ta. Còn các người kia! - Ông ta quay về phía đám đông, nói thêm - các ngươi biết ta chứ? Ta là địa chủ Pantêlây Tsertôpkhanôp, ở làng Bexxônôvô, vậy thì nếu thấy cần, các người cứ kiện ta đi, và kiện cả gã Do Thái luôn tiện nữa?
- Kiện để làm gì kia ạ? - Một người nông dân râu cằm bạc trắng, dáng điệu đường hoàng, nom y hệt một vị tộc trưởng thời cổ, cúi rạp mình xuống và nói. (Tuy vậy ông ta đã đánh gã Do Thái không kém gì những người khác) - Thưa ông Pantêlây Êrê- mêits, chúng con biết rõ ân đức của ông, chúng con rất cảm kích vì ông đã rủ lòng răn dạy chúng con...
- Kiện cáo làm gì kia chứ! - Những người khác hùa theo - Còn về tên phản Chúa kia thì rồi chúng ta sẽ trị tội y đúng như ta muốn! Hắn không thoát khỏi tay chúng ta đâu! Nghĩa là chúng ta sẽ tóm cổ hắn như tóm con thỏ giữa cánh đồng...
Tsertôpkhanôp nhếch ria mép, sì một tiếng khinh bỉ, cho ngựa đi bước một về làng mình, theo sau là người Do Thái mà ông đã cứu thoát khỏi những kẻ bắt nạt, như hồi xưa ông đã giải thoát cho Tikhôn Nêđôpiuxkin.
⚝ IV ⚝Mấy ngày sau, một gã đầy tớ duy nhất người kazăc còn ở lại với Tsertôpkhanôp trình với ông rằng có một người không rõ là ai cưỡi ngựa đến tìm ông và muốn thưa chuyện với ông. Tsertôpkhanôp ra bậc tam cấp và thấy người Do Thái quen biết cưỡi con ngựa vùng sông Đông tuyệt đẹp, con ngựa đứng sừng sững giữa sân, dáng vẻ đầy kiêu hãnh.
Gã Do Thái không đội mũ: gã kẹp mũ dưới nách, chân gã không xỏ vào chính bàn đạp mà xọc vào những dải dây da bàn đạp; những tà áo kafơtan rách nát của gã lủng lẳng hai bên yên. Thấy Tsertôpkhanôp, gã chép môi, giật hai khuỷu tay và đung đưa chân. Nhưng Tsertôpkhanôp chẳng những không đáp lại lời chào của gã, mà thậm chí còn tức giận. Đột nhiên, lửa giận bùng cháy trong lòng ông: gã Do Thái khốn kiếp dám cưỡi trên lưng con ngựa đẹp tuyệt trần như vậy... vô lễ quá lắm!
- Này, tên Êtiôpi mặt mẹt kia? - ông quát - Xuống ngựa ngay, nếu như ngươi không muốn ta ném ngươi xuống đống bùn!
Gã Do Thái lập tức vâng lời, lăn từ trên yên ngựa xuống như cái bao tải, và một tay cầm cương, vừa mỉm cười vừa cúi chào, tiến lại gần Tsertôpkhanôp.
- Ngươi cần gì? - Pantêlây Êrêmêits hỏi với vẻ nghiêm trang.
- Thưa tôn ông, xin ngài nhìn xem con ngựa như thế nào? - Gã Do Thái nói, vẫn không ngừng cúi chào.
- Ơ, ngựa tốt đấy. Ngươi kiếm đâu ra? Xoáy được hẳn thôi?
- Sao lại có thể như thế được, thưa ngài! Con là người Do Thái lương thiện, con không ăn cắp, con đem đến hầu ngài, đúng vậy đấy ạ! Con đã tốn bao nhiêu công sức, biết bao công sức! Nhưng con ngựa đáng gọi là ngựa! Dẫu có lùng khắp vùng sông Đông cũng không tìm đâu ra được một con khác như thế! Xin mời ngài lại đây. Tpru... tpru... quay đi, đứng quay sườn lại! Bây giờ ta sẽ tháo yên.
Ngựa tuyệt chưa! Thưa tôn ông?
- Ngựa tốt đấy - Tsertôpkhanôp nhắc lại, vờ làm ra vẻ thản nhiên, nhưng tim ông cứ đập thình thịch trong lồng ngực. Ông vốn rất mê ngựa và am hiểu về ngựa.
- Thưa tôn ông, ông hãy vuốt ve nó đi! Vuốt cổ nó đây này, hì-hì-hì! Chính vậy đấy.
Tsertôpkhanôp làm như miễn cưỡng đặt tay lên cổ con ngựa, vỗ vào cổ nó hai cái, rồi rê những ngón tay từ bờm xuống đến lưng, và đến một chỗ nhất định phía trên thận, ông khẽ ấn vào đó theo thói quen của người đi săn. Con ngựa lập tức cong lưng lên và nghiêng con mắt đen kiêu hãnh nhìn Tsertôpkhanôp, thở phì một cái và dậm dịch hai chân trước.
Gã Do Thái bật cười và vỗ nhẹ vào tay.
- Nó nhận chủ, thưa ngài, nó nhận chủ đấy ạ!
- Này, đừng có nói nhảm - Tsertôpkhanôp bực tức ngắt lời - Mua của ngươi con ngựa này thì ta... không có tiền đâu mà mua, có nhận quà biếu thì ngay đến quà của thượng đế ta cũng chưa thèm nhận chứ đừng nói gì đến quà của gã Do Thái.
- Con mà lại dám tính đến chuyện biếu ông cái gì thì to gan quá, không đời nào dám thế ạ! - Gã Do Thái kêu lên - Xin ông mua con ngựa này, thưa tôn ông... còn tiền thì con lấy sau cũng được ạ.
Tsertôpkhanôp nghĩ ngợi.
- Nhà ngươi lấy bao nhiêu? - Cuối cùng, ông nghiến răng thốt lên.
Gã Do Thái nhún vai.
- Chỉ bằng giá con mua thôi ạ. Hai trăm rúp.- Con ngựa đáng giá gấp đôi, mà có lẽ còn gấp ba số tiền ấy là khác.
Tsertôpkhanôp quay đi và ngáp một cái nóng nảy.
- Thế bao giờ... lấy tiền? - Ông hỏi, cố tình cau mày và không nhìn gã Do Thái.
- Lúc nào tiện thì ngài cho xin cũng được ạ.
Tsertôpkhanôp ngật đầu ra sau, nhưng không ngước mắt lên.
- Đấy không phải là câu trả lời. Ngươi nói cho rõ ràng đi, đồ quái vật! Như vậy là ta sẽ nợ ngươi chứ gì?
- Vâng thì nói thế cũng được ạ - gã Do Thái vội tiếp lời, sáu tháng nữa...ngài bằng lòng chứ ạ?
Tsertôpkhanôp không đáp lại câu nào.
Gã Do thái cố nhìn vào mắt ông.
- Ngài ưng thuận chứ ạ? Ngài cho đưa vào chuồng ngựa chứ ạ?
- Ta không cần yên. - Tsertôpkhanôp nói sẵng giọng - Ngươi lấy yên đi, nghe chưa?
- Dạ vâng, dạ vâng, con xin lấy đi - gã Do thái mừng rõ, nói lắp bắp và vác cái yên lên vai.
- Còn tiền thì... - Tsertôpkhanôp nói tiếp - sáu tháng nữa ta trả. Không phải hai trăm, mà hai trăm rưỡi. Im! Hai trăm rưỡi, ta bảo ngươi mà! Ta nợ ngươi.
Tsertôpkhanôp vẫn chưa dám nhìn lên. Chưa bao giờ lòng kiêu hãnh của ông bị tổn thương mạnh đến thế. Ông nghĩ thầm: "Rõ ràng là hắn biện lễ đến dâng ta để tỏ lòng biết ơn, đồ quỉ!". Ông vừa muốn ôm hôn gã Do thái, vừa muốn đánh gã...
- Thưa ngài - Gã Do thái trở nên mạnh dạn hơn, toác miệng cười và nói - cần phải tay trao tay, theo phong tục Nga...
- Lại còn bầy ra cái trò gì thế nữa? Người Do thái... mà lại theo phong tục Nga! Này? Ai đấy? Giữ lấy ngựa, đưa nó vào chuồng. Đổ kiều mạch vào máng cho nó ăn. Ta sẽ đến xem ngay đấy. Nhớ rằng tên nó là Malêc-Ađen, nghe chưa!
Tsertôpkhanôp toan bước lên bậc tam cấp, nhưng chợt xoay gót giầy, quay ngoắt lại và chạy tới gần gã Do thái, xiết chặt tay gã. Gã cúi xuống và đã chề môi ra định hôn tay ông, nhưng Tsertôpkhanôp nhảy lùi lại, và hạ giọng thốt lên: "Không được kể với ai đấy!", rồi biến vào sau cửa.
⚝ V ⚝Chính từ hôm ấy, Malêc-Ađen trở thành công việc chính, thành mối quan tâm chủ yếu và là niềm vui sướng trong đời Tsertôpkhanôp. Ông yêu nó còn hơn cả yêu Masa trước kia, ông quyến luyến với nó hơn cả quyến luyến Nêđôpiuxkin. Mà con ngựa mới đáng gọi là ngựa chứ? Nó hăng như lửa, đúng là lửa, nói là thuốc súng cũng không ngoa: còn vẻ đường bệ thì không thua gì một vị quí tộc Nga thời xưa! Nó không bao giờ biết mệt, dẻo dai, rẽ cương về đâu là ngoan ngoãn tuân theo; còn cho nó ăn thì chẳng tốn kém gì: nếu không có gì khác, nó gặm đất dưới chân. Nó đi bước một êm như ru, phi nước kiệu thì người cưỡi có cảm giác như đang đu võng, còn phi nước đại thì gió cũng không đuổi kịp! Nó chưa bao giờ thở hồng hộc, vì rất dài hơi. Chân nó cứng như thép, mà chưa bao giờ bị vấp váp! Nó vượt qua hào hay qua rào dễ như bỡn; mà tinh khôn thì có một. Nghe tiếng chủ gọi là cất cao đầu, chạy ngay tới; bảo nó đứng một chỗ rồi đi nơi khác là nó đứng nguyên chỗ ấy, không nhúc nhích; chỉ khi chủ quay về, nó mới khẽ hí lên, như muốn nói: "Tôi vẫn ở đây". Nó không biết sợ gì hết: trời tối tăm mịt mù, bão tuyết tơi bời, nó vẫn tìm được đường; nhưng không phải chủ thì đừng hòng nó phục tùng: nó nhe răng ra cắn ngay! Chó chớ có dại mà bén mảng đến gần nó: nó lập tức giơ chân trước bổ luôn vào trán: đớp! Chỉ có mà đi đời nhà ma! Nó là con ngựa giàu lòng tự ái: roi chỉ để vung lên người nó cho oai, chứ đừng có mà động đến nó, xin chớ có chơi dại! Mà chẳng cần gì phải dài lời: đấy là của báu, chứ không phải là con ngựa.
Tsertôpkhanôp mà đã bắt đầu miêu tả Malêc- Ađen của ông thì lời lẽ đến với ông cứ là thao thao bất tuyệt! Ông chăm chút và nâng niu nó thôi thì hết cấp! Lông nó óng ánh như bạc - không phải là bạc cũ, mà là bạc mới, có nước bóng thẫm màu; đưa tay vuốt thì cảm thấy đúng là nhung! Yên, tấm dạ phủ lưng, cương - tất cả đều sắp đặt rất khéo, gọn ghẽ, tất cả đều sạch bóng, khiến ta bất giác muốn cầm lấy bút chì và vẽ! Tsertôpkhanôp đích thân - còn gì vinh dự hơn nữa? - Tự tay tết tua viền cho con ngựa yêu mến, tự tay rửa bờm và đuôi cho nó bằng rượu bia, thậm chí nhiều lần bôi dầu vào móng cho nó.
Đôi khi, ông cưỡi Malêc-Ađen đi chơi, không phải là đến thăm những người quanh vùng - vẫn như trước, ông không hề giao thiệp với họ - mà đi qua cánh đồng của họ, qua trang viên của họ...Dường như ông muốn bảo với họ rằng: này, bọn ngốc kia, hãy đứng ra mà ngắm nghía! Hễ nghe đồn ở nơi nào có đám rục rịch đi săn - một người quí tộc giàu có sửa soạn đi săn ở nơi xa - là ông lập tức đến chỗ đó và cho ngựa vờn nhảy ở xa xa, phía chân trời, làm cho những người xem phải ngạc nhiên về vẻ đẹp và sự nhanh nhẹn của con ngựa của mình, nhưng không để cho ai đến gần. Có lần, một người đi săn thậm chí còn dẫn cả đoàn tuỳ tùng đuổi theo ông. Khi thấy Tsertôpkhanôp đang bỏ xa mình, người đi săn vừa thúc ngựa phóng hết sức, vừa gào toáng lên: "Này, ông bạn! Nghe đây! Để cho tôi con ngựa, lấy bao nhiêu cũng được! Hàng nghìn đồng tôi cũng không tiếc! Tôi sẵn sàng nhường cả vợ con cho ông! Lấy hết mọi thứ tôi có cũng được!" Tsertôpkhanôp bỗng kìm ngựa chậm lại. Người đi săn phóng như bay tới gần.
- Ông ơi! - Người kia gào to - ông nói đi: ông muốn gì? Cha đẻ của tôi ơi?
- Nếu như ông là Sa hoàng - Tsertôpkhanôp nói dõng dạc (ấy là cả đời ông chưa hề nghe nói đến Sêcxpia đấy) - thì dù ông có nhường cả vương quốc của ông để đổi lấy con ngựa của tôi, tôi cũng không đổi cơ mà!( [153] )- Nói đoạn, ông phá lên cười, cho Malêc- Ađen chồm ngược lên, điều khiển nó xoay người trong không trung, chỉ đứng bằng hai chân sau, nom giống như con quay đang xoay tròn, rồi tiếp tục phóng đi! Và vút đi như tia chớp trên ruộng rạ. Còn người đi săn (nghe nói là một công tước giàu sụ) ném chiếc mũ mềm xuống đất và ngã vật mặt xuống mũ! Ông ta nằm như thế đến nửa tiếng đồng hồ.
Vậy thì làm sao mà Tsertôpkhanôp không quí con ngựa của mình kia chứ? Chẳng phải là nhờ nó mà ông lại có được ưu thế chắc chắn, một ưu thế cuối cùng đối với mọi người trong vùng ư?
⚝ VI ⚝Nhưng thời gian trôi qua, kỳ trả tiền sắp tới, mà Tsertôpkhanôp không có nổi lấy năm chục đồng, chứ đừng nói gì đến hai trăm năm mươi đồng. Làm thế nào đây, có cách gì gỡ nước bí này chăng? "Có gì đâu nhỉ? - Cuối cùng, ông quyết định - nếu gã Do Thái không nhân nhượng, không muốn cho khất thì ta sẽ gán nhà và đất cho y, còn ta sẽ cưỡi con ngựa đi bất cứ đâu! Ta thà chết đói chứ không chịu nhường lại Malêc-Ađen cho ai!". Ông lo lắm và thậm chí bắt đầu nghĩ ngợi. Nhưng phen này, lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng, số phận đã thương hại ông, mỉm cười với ông: một bà thím họ xa mà thậm chí Stertôpkhanôp không biết tên, đã di chúc để lại cho ông một số tiền mà đối với ông là hết sức lớn: hai nghìn rúp! Ông nhận được món tiền ấy hoàn toàn đúng lúc, như người ta thường nói: một ngày trước khi gã Do Thái đến. Tsertôpkhanôp suýt phát điên lên vì vui sướng, nhưng ông cũng không nghĩ đến chuyện uống vôtka: từ ngày Malêc-Ađen đến với ông, ông không hề nhắp đến một giọt. Ông chạy vào chuồng ngựa và hôn lấy hôn để vào hai bên mõm của bạn mình, quãng phía trên mũi, chỗ mà da ngựa thường mềm nhất. "Bây giờ thì chúng ta sẽ không bao giờ xa rời nhau - ông reo lên, vỗ vào cổ Malêc-Ađen, dưới cái bờm chải mượt. Trở vào nhà, ông đếm hai trăm năm mươi rúp và niêm phong thành một gói. Rồi ông nằm ngửa hút ống điếu, mơ tưởng về việc ông sẽ dùng số tiền còn lại như thế nào: ừ, ông sẽ mua những con chó Kôxtơrôma chính cống, mà nhất định là lông phải có đốm lang màu hồng! Thậm chí ông còn chuyện trò một lát với Perfiska - ông đã từng hứa sẽ mua cho y chiếc áo kazakin mới có viền kim tuyến ở tất cả các đường may, - rồi ông đi ngủ, tâm hồn hết sức khoan khoái.
Ông thấy một giấc chiêm bao chẳng lành. Dường như ông cưỡi ngựa đi săn, nhưng không phải cưỡi Malêc-Ađen, mà cưỡi một con vật kỳ lạ giống như lạc đà; một con cáo trắng như tuyết chạy về phía ông... ông muốn vung chiếc roi da có cán, muốn suỵt chó đuổi nó, nhưng thay cho cái roi, trong tay ông lại là bó xơ gai, còn con cáo chạy trước mặt ông, và nói thành tiếng, trêu ghẹo ông. Ông nhảy từ trên lưng con lạc đà của mình xuống, vấp chân và ngã... ngã thẳng vào tay tên sen đầm đang gọi ông đến chỗ quan tổng trấn, và ông nhận ra tên sen đầm đó là Iaff...
Tsertôpkhanôp bừng tỉnh. Trong buồng tối om; gà vừa gáy lần thứ hai...
Có tiếng ngựa hí ở nơi nào phía xa.
Tsertôpkhanôp ngẩng đầu lên... Một lần nữa, ông nghe thấy tiếng hí thanh thanh.
"Tiếng hí của Malêc-Ađen! - Ông thoáng nghĩ - Đúng tiếng hí của nó! Nhưng tại sao nghe xa thế nhỉ? Chết cha rồi... Không thể thế được?...
Tsertôpkhanôp bỗng lạnh toát cả người, từ trên giường nhảy bổ ngay xuống, sờ soạng tìm ủng, áo, đi giầy, mặc áo vào, rồi vồ lấy chìa khóa chuồng ngựa để dưới đầu giường và nhảy ra sân.
⚝ VII ⚝Chuồng ngựa ở ngay cuối sân, một mé tường quay ra phía cánh đồng. Tsertôpkhanôp không tra ngay được chìa vào ổ, tay ông run run, và không xoay chìa mở khoá ngay... ông đứng không nhúc nhích một lát, nín thở: ước gì có tiếng động đậy sau cửa! "Malêc! Malêc yêu quí của ta ơi?" - ông gọi khe khẽ: im lặng như tờ. Tsertôpkhanôp bất giác giật mạnh cái chìa: cửa két một tiếng, mở toang ra... Vậy là cửa không khóa. Ông bước qua ngưỡng cửa, và lại gọi con ngựa của mình, lần này gọi đủ tên: "Malêc-Ađen!" Nhưng người bạn trung thành không đáp lại, chỉ có con chuột chạy loạt soạt trên rơm. Thế là Tsertôpkhanôp đâm bổ tới một trong ba ngăn chuồng, chỗ Malêc-Ađen đứng. Ông đến đúng ngăn chuồng đó, tuy xung quanh tối như hũ nút... Ngăn chuồng trống không? Tsertôpkhanôp choáng váng, trong đầu ông như có cái chuông kêu vang. Ông muốn nói câu gì, nhưng chỉ rít lên, và đưa hai tay sờ soạng phía trên, phía dưới, hai bên, thở hơn hển, đầu gối bủn rủn, ông lần từ ngăn chuồng này sang ngăn chuồng kia... sang ngăn thứ ba chứa cỏ khô chất cao gần tới nóc, vấp vào bức tường này, va vào bức tường kia, ngã lộn nhào qua đầu lồm ngồm nhổm dậy và bỗng hấp tấp chạy qua cánh cửa hé mở, lao ra sân...
- Mất cắp rồi! Perfiska! Perfiska! Mất cắp rồi? - ông gào inh ỏi.
Gã Kazắc Perfiska mặc trần có chiếc sơ mi, lật đật nhao ra khỏi túp nhà để thực phẩm, nơi gã đang ngủ...
Cả ông chủ và người đầy tớ duy nhất của ông xô vào nhau ở giữa sân như những kẻ say rượu.
Họ xoay tròn trước mặt nhau như những người điên. Ông chủ không thể nói rõ sự tình ra sao, mà người đầy tớ cũng không thể hiểu ông chủ đòi hỏi gì ở mình. "Tai họa! Tai họa!" - Tsertôpkhanôp lắp bắp. "Tai họa! Tai họa!" - Gã kazắc nhắc lại theo ông. "Đèn lồng! Nào; thắp đèn lồng lên! Đèn! Đèn!" - Cuối cùng, tiếng kêu buột ra từ lồng ngực đã chết lặng đi của Tsertôpkhanôp. Perfiska đâm bổ vào nhà.
Nhưng thắp đèn, kiếm ra lửa không phải chuyện dễ: hồi ấy diêm là của hiếm ở nước Nga; những hòn than hồng cuối cùng trong bếp đã tắt từ lâu, máy đánh lửa và đá lửa thì tìm mãi mới thấy và đánh không lên lửa. Tsertôpkhanôp nghiến răng kèn kẹt, giằng lấy cái đánh lửa ở tay Perfiska đang sững sờ, bắt đầu tự đánh lửa lấy: tia lửa bắn toé ra, những lời nguyền rủa, thậm chí cả tiếng rên rỉ phun ra càng nhiều hơn, nhưng bùi nhùi không bắt lửa, hoặc bắt rồi lại tắt, bất chấp những cố gắng của hai cặp má và môi nỗ lực hết sức! Cuối cùng, năm phút sau, chứ không sớm hơn, mẩu nến mỡ lợn cháy leo lét dưới đáy cây đèn vỡ, và Tsertôpkhanôp có Perfiska đi theo, liền xông vào chuồng ngựa, giơ đèn lên quá đầu, nhìn quanh...
Chuồng trống không!
Ông nhảy ra sân, sục sạo khắp quanh sân, chẳng thấy con ngựa đâu cả! Dãy rào bao quanh khu nhà của Pantêlây Êrêmêits đã cũ nát từ lâu, nhiều chỗ đã xiêu vẹo và đổ rạp xuống đất... ở cạnh chuồng ngựa, có một quãng đã đổ hẳn, rộng đến một arsin. Perfiska chỉ cho Tsertôpkhanôp xem chỗ ấy.
- Ông chủ! Ông xem đây này: ngày hôm nay, quãng này có đổ đâu. Vẫn còn những cây cọc cắm ở đất kia kìa: chắc là có kẻ bẻ rào.
Tsertôpkhanôp cầm cây đèn, nhảy chồm lên, đưa đèn soi trên mặt đất.
- Móng chân, móng chân, vết móng ngựa, vết còn mới nguyên! - Ông nói lắp bắp - Nó được dắt qua chỗ này, chỗ này, chỗ này!
Ông nhảy phắt qua hàng rào, và vừa gọi to: "Malêc-Ađen! Malêc-Ađen!" vừa chạy ra cánh đồng.
Perfiska băn khoăn đứng bên hàng rào. Cái vòng sáng của cây đèn thoáng chốc đã biến mất trong mắt gã, chìm nghỉm trong bóng tối dầy đặc của trời đêm không trăng sao.
Những tiếng kêu tuyệt vọng của Tsertôpkhanôp mỗi lúc một yếu dần, yếu dần...
⚝ VIII ⚝Khi ông trở về nhà thì trời đã rạng đông. Nom ông không còn ra người, áo bê bết bùn đất, mặt nom man rợ và đáng sợ, mắt nhìn cau có và đờ đẫn.
Bằng giọng thì thầm khản đặc, ông đuổi Perfiska ra và đóng chặt cửa buồng lại. Ông đứng không vững vì mệt mỏi, nhưng ông không nằm vào giường, mà ngồi lên chiếc ghế cạnh cửa và hai tay ôm đầu.
- Chúng đánh cắp mất rồi!... Đánh cắp mất rồi!
Nhưng ban đêm, tên trộm làm cách nào đánh cắp được Malêc-Ađen ra khỏi chuồng có khóa hẳn hoi? Malêc-Ađen thì ngay đến ban ngày nó cũng không cho kẻ lạ nào đến gần mình, vậy mà lại bị bắt đi mà không có tiếng ồn ào, không có tiếng giậm vó hay sao? Và giải thích như thế nào về việc không một con chó giữ nhà nào cất tiếng sủa? Thực ra thì chỉ có hai con chó con, và chúng vừa rét vừa đói nên đã rúc vào những hố bới trong đất, nhưng dù sao đấy cũng là chuyện lạ!
"Không có Malêc-Ađen, ta sẽ làm gì bây giờ? - Tsertôpkhanôp nghĩ - Thế là ta đã mất nết niềm vui sướng cuối cùng, đến lúc ta từ giã cõi đời rồi đây. Mua con ngựa khác, vì ta đã có tiền ư? Nhưng tìm đâu ra con ngựa khác như thế?"
- Pantêlây Êrêmêits! Pantêlây Êrêmêits? - Có tiếng gọi rụt rè ngoài cửa.
Tsertôpkhanôp bật dậy.
- Ai đấy? - ông hỏi, giọng lạc hẳn đi.
- Con đây, gã Kazăc của ông đây, Perfiska.
- Ngươi cần gì? Tìm thấy rồi chăng, nó chạy về nhà, hả?
- Không có thế đâu, thưa ông, mà là gã Do Thái đã bán ngựa cho ông...
- Sao?
- Gã đã đến.
- Hô-hô-hô-hô! - Tsertôpkhanôp cười vang – và lập tức mở toang cửa - Lôi cổ hắn vào đây, lôi cổ, lôi cổ hắn vào. Nhìn thấy vị "ân nhân" của mình xuất hiện bất ngờ, đầu tóc rối bù, hình dung dữ tợn, gã Do Thái đứng sau lưng Perfiska muốn lỉnh cho mau; nhưng Tsertôpkhanôp đã nhảy hai bước đến trước mặt gã, và như một con hổ, vồ lấy cổ họng gã.
- A! Người đến lấy tiền! Đến lấy tiền! - Ông nói bằng giọng khò khè, dường như không phải ông bóp cổ gã, mà chính ông bị kẻ khác bóp cổ - Đêm đánh cắp ngựa, ngày đến đòi tiền? Phải không? Phải không nào?
- Chết nỗi, thư-ưa... ngà-i... - Gã Do Thái rên rỉ.
- Nói đi, con ngựa của ta đâu? Ngươi giấu nó đi đâu? Bán cho ai rồi. Nói đi, nói đi, nói đi nào!
Gã Do Thái không còn rên được nữa. Thậm chí cả vẻ sợ hãi cũng biến mất trên khuôn mặt tím ngắt của gã. Hai tay gã buông xuống và lủng liểng. Toàn thân gã bị Tsertôpkhanôp lắc một cách cuồng nộ, ngặt về phía sau, nhao về phía trước như cây sậy.
- Tiền thì ta sẽ trả ngươi, ta sẽ trả ngươi, trả đủ không thiếu một xu. - Tsertôpkhanôp quát - nhưng ta sẽ bóp chết ngươi như con gà nhép khốn nạn nếu như ngươi không nói ngay cho ta biết...
- Thì ông đã bóp gã chết ngạt rồi đấy, thưa ông chủ - gã kazắc Perfiska nói một cách kính cẩn.
Mãi lúc này Tsertôpkhanôp mới sực tỉnh. Ông buông cổ gã Do Thái, gã liền đổ vật xuống sàn. Tsertôpkhanôp đỡ gã lên, đặt ngồi lên ghế, đổ vào họng gã một cốc vốtka cho gã tỉnh lại. Sau khi đã làm gã tỉnh lại, ông liền nói chuyện với gã.
Thì ra gã Do Thái không hề biết gì về vụ đánh cắp Malêc-Ađen. Vả chăng, vì lẽ gì gã lại đi đánh cắp con ngựa mà chính gã đã lùng kiếm được để đem đến cho "Pantêlây Êrêmêits vô cùng đáng tôn kính" kia chứ?
Thế là Tsertôpkhanôp dẫn hắn vào chuồng ngựa.
Cả hai cùng xem xét ngăn chuồng, máng ăn, khoá cửa, bới đống cỏ khô, bới rơm, rồi ra sân.
Tsertôpkhanôp chỉ cho gã Do Thái xem những vết móng chân bên hàng rào, và bỗng vỗ vào hai bên đùi.
- Khoan! - Ông kêu lên - Ngươi mua con ngựa ấy ở đâu?
- Ở huyện Malôarkhangghenxka, tại hội chợ Verkhôxenxki - gã Do Thái đáp.
- Mua của ai?
- Của một người kazăc.
- Không! Tên kazăc ấy trẻ hay già?
- Trạc tuổi trung niên, dáng người đĩnh đạc.
- Nhưng hình dung thế nào? Bề ngoài nom thế nào? Có vẻ là một tên đại bợm hẳn?
- Chắc hẳn là một tên đại bợm, thưa ngài.
- Thế hắn đã nói với ngươi những gì, tên đại bợm ấy? Hắn làm chủ con ngựa ấy đã lâu chưa?
- Con nhớ hắn bảo là hắn có con ngựa ấy đã lâu.
- Vậy thì chính hắn ăn cắp chứ còn ai nữa! Ngươi thử nghĩ xem, nghe đây, đứng lại đây... tên ngươi là gì? Gã Do Thái giật mình và ngước đôi mắt đen lên nhìn Tsertôkhanôp.
- Tên con là gì ấy ạ?
- Ừ, tên thường gọi của ngươi là gì?
- Môsen Lâyba.
- Này, anh thử nghĩ xem, Lâyba, bạn tôi ơi, anh là người thông minh mà: nếu không phải là chủ cũ, thì ai có thể khiến Malêc-Ađen chịu theo như vậy? Chính y thắng yên cương cho nó, bỏ tấm vải phủ trên mình nó, tấm vải còn nằm trên đống cỏ khô kia kìa!... Y làm mọi chuyện cứ y như ở nhà y vậy? Vì nếu không phải là chủ thì bất cứ kẻ nào khác cũng sẽ bị Malêc-Ađen xéo bẹp ngay! Nó sẽ làm huyên áo lên, làm kinh động cả làng chứ không chơi! Anh có đồng ý với tôi không?
- Con thì con cũng cho là như thế, thưa ngài...
- Như vậy là trước hết cần tìm cho ra gã kazắc ấy!
- Nhưng làm thế nào tìm được y, thưa ngài? Con chỉ gặp y có một lần, mà bây giờ y ở đâu, tên y là gì? Ôi, chao chao! - Gã Do Thái nói thêm và lắc hai mái tóc mai dài, vẻ cay đắng.
- Lâyba! - Tsertôpkhanôp bỗng kêu lên - Lâyba, nhìn tôi đây này! Tôi đã mất trí, tôi không còn bình tĩnh được nữa!... Tôi sẽ tự vẫn, nếu anh không giúp tôi!
- Nhưng con làm thế nào mà...
- Anh sẽ cùng đi với tôi và ta sẽ lùng tìm tên kẻ cắp ấy!
- Nhưng biết đi đâu được kia chứ?
- Đến các hội chợ, qua các đường cái lớn nhỏ, tìm đến những tên ăn cắp ngựa, đến các thành phố, các làng mạc, các trại ấp, đến bất cứ nơi nào, đi bất cứ đâu! Còn về tiền thì anh đừng lo, tôi vừa được thừa kế một di sản, người anh em ạ! Tôi sẽ tiêu cho đến đồng xu cuối cùng, nhưng nhất định tôi sẽ tìm được bạn của tôi! Còn tên kazắc gian phi đã đánh lừa chúng ta thì sẽ không thoát khỏi tay ta! Nó đi đâu chúng ta sẽ theo đấy! Nó chui xuống đất, chúng ta cũng sẽ chui xuống đất! Nó đến với quỉ, chúng ta sẽ đến hẳn chỗ quỉ sa tăng!
- Đến quỉ sa tăng làm gì kia chứ - gã Do Thái nói - chẳng cần đến nó cũng xong.
- Lâyba! - Tsertôpkhanôp nói tiếp - Tuy anh là người Do Thái và tín ngưỡng của anh là tà đạo, nhưng tâm hồn anh còn khá hơn khối tín đồ Cơ đốc! Anh hãy thương tôi! Một mình tôi thì chẳng nên công cán gì, mình tôi không đương nổi việc này. Tôi vốn nóng tính, còn anh là người có đầu óc, một đầu óc vàng ngọc! Dân tộc anh là như thế này: không học hành mà cái gì cũng biết hết! Có lẽ anh còn hồ nghi: ông ta lấy đâu ra tiền? Thế thì vào buồng tôi, tôi sẽ đem tất cả tiền của tôi ra cho anh xem. Anh hãy lấy cả tiền, lấy cả cây thập ác trên cổ tôi đi nhưng làm thế nào đoạt lại Malêc-Ađen cho tôi, đoạt lại, đoạt lại cho tôi.
Tsertôpkhanôp run lên như cơn sốt; mồ hôi chảy như suối trên mặt, hoà với nước mắt, lẫn vào trong hàng ria mép. Ông xiết chặt hai tay Lâyba, ông van vỉ, suýt nữa thì hôn gã...Ông hóa điên cuồng. Gã Do Thái cố thoái thác, cả quyết rằng gã không thể đi xa được, gã có công việc bận... Đừng hòng? Tsertôpkhanôp không muốn nghe gì hết. Không còn cách nào được nữa: Lâyba đáng thương đành phải ưng thuận.
Hôm sau, Tsertôpkhanôp cùng với Lâyba rời khỏi Bexxônôvô trên chiếc xe ngựa nông dân. Gã Do Thái nom hơi bối rối, một tay víu vào thành xe, cả tấm thân mềm nhẽo của gã nảy chồm chồm trên cái ghế ngồi xóc lọng lên; tay kia gã áp chặt vào khoang ngực áo, chỗ để bọc tiền gói giấy báo. Tsertôpkhanôp ngồi ngây như tượng, chỉ đảo mắt nhìn quanh và thở căng lồng ngực.
- Hừ, tên gian phi lẩn trốn, bây giờ thì liệu hồn! - Ông lầm bầm, khi xe ra đường cái lớn.
Nhà cửa thì ông đã giao cho gã kazắc Perfiska và mụ bếp, một bà già điếc mà ông cho về ở nhà mình vì thương hại. - Ta sẽ cưỡi Malêc-Ađen trở về với các ngươi - lúc chia tay, ông lớn tiếng nói với họ - hoặc ta sẽ không bao giờ trở lại nữa!
- Bà nên lấy tôi đi thôi! - Perfiska hích khuỷu tay vào sườn mụ bếp - Đằng nào thì ta cũng không chờ được đến lúc ông chủ về đâu, ta đến chết vì buồn mất thôi!
⚝ IX ⚝Một năm qua... vừa đúng một năm: chẳng có tin tức gì về Pantelây Êrêmêits cả. Bà lão nấu bếp đã chết. Chính Perfiska cũng đã toan bỏ nhà ra thành phố, vì người em họ y làm thợ phụ cắt tóc ở đấy rủ y ra, nhưng bỗng nhiên, có tin ông chủ đang trên đường trở về! Viên trợ tế giáo khu nhận được lá thư của chính Pantêlây Êrêmêits, trong đó ông cho biết ông định về Bexxônôvô và nhờ báo trước cho người đầy tớ của mình để y sửa soạn đón tiếp cho chu tất. Perfiska hiểu ý chủ bảo gã nên quét dọn nhà cửa, lau chùi đồ đạc đi một chút, nhưng cũng không chắc lắm rằng tin đó là đúng. Nhưng rồi gã đã phải thấy rõ rằng viên trợ tế nói thật: mấy ngày sau, chính Pantêlây Êrêmêits bằng xương bằng thịt xuất hiện trong sân nhà, cưỡi trên lưng Malêc-Ađen.
Perfiska đâm bổ đến đón chủ, và tay giữ bàn đạp, muốn giúp chủ xuống ngựa; nhưng Tsertôpkhanôp tự nhảy xuống, và đưa cặp mắt đắc thắng nhìn ra xung quanh, lớn tiếng nói: "Ta đã bảo rằng ta sẽ tìm được Malêc-Ađen, và ta đã tìm được nó, bất chấp mọi kẻ thù và cả số phận nữa!" Perfiska tới hôn tay chủ, nhưng Tsertôpkhanôp không chú ý đến sự sốt sắng của người đầy tớ. Ông bước những bước dài về phía chuồng ngựa, cầm cương dắt Malêc-Ađen theo mình. Perfiska nhìn chủ kĩ hơn và đâm ra rụt rè: "Ôi, trong năm qua, ông chủ gầy và già đi biết bao nhiêu, mặt ông trở nên nghiêm nghị và khắc khổ biết bao. Lẽ ra Pantêlây Êrêmêits phải vui sướng vì đã đạt được mục đích, và ông cũng vui sướng thật đấy, hình như thế...nhưng Perfiska vẫn cứ cảm thấy rụt rè, thậm chí kinh sợ. Tsertôpkhanôp đưa con ngựa vào ngăn chuồng trước kia của nó, vỗ nhẹ vào mông nó và nói: "Đấy, thế là mày đã về nhà rồi nhé? Xem đấy?" Ngay hôm đó, ông thuê một người gác đáng tin cậy - một trong những nông dân độc thân không phải đóng thuế, - rồi ông lại vào ở các căn phòng của mình và bắt đầu sống như trước...
Tuy vậy, vẫn không hẳn như trước... Nhưng điều đó sẽ nói sau.
Về hôm trước thì hôm sau, Pantêlây Êrêmêits gọi Perfiska đến và, vì thiếu người nói chuyện, ông bắt đầu kể với Perfiska về việc ông đã làm cách nào tìm được Malêc-Ađen: cố nhiên, trong khi kể, ông vẫn không quên giữ vẻ trang nghiêm và nói bằng giọng trầm. Suốt thời gian kể chuyện, Tsertôpkhanôp hút cái tẩu ống dài; còn Perfika đứng ở ngưỡng cửa, chắp hai tay sau lưng, kính cẩn nhìn gáy ông chủ, nghe câu chuyện của Pantêlây Êrêmêits: sau nhiều cố gắng và nhiều chuyến đi không có kết quả gì, cuối cùng ông đến hội chợ Rômnư, nhưng lúc này chỉ còn có một mình ông, gã Do thái Lâyba đớn hèn, không kiên gan được, đã bỏ ông trốn đi. Sang ngày thứ năm, ông đã định rời đi nơi khác, và lần cuối cùng, ông đảo qua dãy xe ngựa, và bỗng nhiên, giữa ba con ngựa khác, ông thấy Malêc-Ađen bị buộc vào càng xe. Ông nhận ra nó ngay và Malêc-Ađen cũng nhận ra ông, nó bắt đầu hí lên, lồng lộn, và dùng móng chân cào đất.
Mà chủ nó lúc ấy không phải là một gã kazắc đâu nhé - Tsertôpkha nói tiếp, vẫn không quay đầu lại và vẫn dùng cái giọng trầm như thế - chủ nó là một gã Di-gan buôn ngựa kia. Tất nhiên, ta không rời con ngựa ra và muốn dùng sức mạnh đoạt lại nó, nhưng tên Digan gào inh ỏi khắp bãi chợ như thể y bị giội nước sôi, và y thề thốt rằng y mua con ngựa của một người Digan khác, y toan gọi những người làm chứng... Ta không thèm lôi thôi, ta trả tiền cho y, không thèm dây với quân ấy! Đối với ta, điều đáng quí nhất là ta tìm được bạn ta, vì thế ta yên tâm. Ấy vậy mà ở huyện Karatxepxka, vì nghe theo lời tên Do Thái Lâyba, suýt nữa ta dính vào chuyện rắc rối với một tên kazắc: ta tưởng hắn là kẻ ăn cắp ngựa của ta, ta đánh hắn vỡ cả mặt; nhưng té ra tên kazắc ấy là con một cha đạo và y đã bắt ta bồi thường một trăm hai mươi rúp để chuộc lỗi. Nhưng chẳng sao, tiền thì rồi có thể kiếm ra được, cái chính là Malêc-Ađen lại trở về tay ta!
Bây giờ ta sung sướng, và ta sẽ sống yên vui. Còn ngươi, Porfiri ạ, ta dặn ngươi một điều: hễ thấy tên kazăc nào lởn vởn quanh đây - cầu Chúa cho đừng xảy ra chuyện ấy - thì ngươi chớ nói năng gì cả, hãy chạy ngay đi lấy khẩu súng đem đến cho ta, còn về phần ta thì ta sẽ có cách xử trí!
Pantêlây Êrêmêits nói như vậy, miệng ông nói như vậy, nhưng trong lòng ông thì không được yên tĩnh như ông cam đoan.
Hỡi ơi! trong thâm tâm, ông hoàn toàn không tin chắc rằng con ngựa ông đem về quả thực là Malêc-Ađen!
⚝ X ⚝Bắt đầu một thời kỳ khó khăn đối với Pantêlây Êrêmêits. chính sự yên tĩnh trong tâm hồn lại là điều mà ông ít được hưởng hơn hết. Thực ra thì vẫn có những ngày vui thú: ông có cảm giác rằng mối nghi ngờ đã xuất hiện trong lòng ông chỉ là chuyện không đâu, ông xua đuổi ý nghĩ vớ vẩn ấy như xua một con ruồi bám dai; thậm chí ông tự chế nhạo mình. Nhưng cũng có những ngày tệ hại: ý nghĩ ám ảnh ấy lại bắt đầu lén lút gặm nhấm, cào cấu trái tim ông như một con chuột ẩn nấp rất kín, và ông đau xót ngấm ngầm. Trong cái ngày đáng ghi nhớ mà ông tìm được Malêc-Ađen, Tsertôpkhanôp chỉ cảm thấy vui sướng cực độ... Nhưng sáng hôm sau, khi dưới mái hiên thấp ở nhà trọ, ông bắt đầu thắng yên vào con ngựa ông tìm được (ông đã ở cạnh nó suốt đêm qua), thì lần đầu tiên, ông cảm thấy đau nhói trong lòng... ông chỉ lắc đầu một cái, nhưng hạt giống đã gieo xuống rồi. Suốt thời gian trên đường về nhà (chừng một tuần lễ), những ý nghĩ ngờ vực ít khi trỗi dậy trong lòng ông, nhưng ông vừa về đến Bexxônôvô, vừa đến cái chỗ mà Malêc-Ađen trước kia Malêc-Ađen thực sự đã ở, thì những mối nghi ngờ ấy trở nên mạnh hơn, rõ rệt hơn... Trên đường, ông cho ngựa đi bước một nhiều hơn, ông ngồi ngất nghểu, đưa mắt nhìn quanh, hút thuốc lá bằng chiếc tẩu ống ngắn và không nghĩ ngợi gì cả, chỉ có một lần ông bỗng nghĩ thầm: "Họ nhà Tserôpkhanôp muốn gì là sẽ làm bằng được! Đừng có mà tưởng bở!", và ông tủm tỉm cười ấy thế mà về đến nhà thì lại khác hẳn. Cố nhiên, ông giữ kín tất cả những ý nghĩ riêng tư ấy; lòng tự ái không cho phép ông nói ra nỗi lo ngại trong thâm tâm. Ông sẵn sàng "bẻ gãy đôi" kẻ nào dám nói - dù là bóng gió xa xôi - rằng Malêc-Ađen mới dường như không phải là Malêc-Ađen trước kia. Ông đã nhận lời chúc mừng của một số người mà ông phải chạm trán với họ: chúc mừng về "cuộc tìm kiếm thành công". Nhưng ông không đi tìm những lời chúc mừng ấy, ông tránh gặp mặt mọi người, tránh kỹ hơn trước: thật là một dấu hiệu chẳng lành. Ông thử th