← Quay lại trang sách

BÓ THÁNH CỐT SỐNG

Quê hương tôi giàu lòng nhẫn nại,

quê hương ôi, Người là của dân Nga!

F. Chutchev

Ngạn ngữ Pháp có câu "buồn cho cái cảnh đi câu gặp nắng và đi bắn gặp mưa ( [155] ). Tôi không thể bàn đến việc câu cá, bởi vì tôi chưa bao giờ có cái thú đi câu; không biết người đi câu có cảm nghĩ gì khi trời quang mây tạnh, và gặp lúc mưa gió thì niềm thích thú vì kiếm được nhiều cá có át được nỗi cực khổ vì phải dầm mưa hay không.

Nhưng đối với người đi săn thì mưa quả là điều đen đủi. Trong một chuyến đi săn gà gô ở Benlev chính tôi và Ermôlai đã gặp cái cảnh không may ấy.

Ngay từ sáng sớm, trời đã mưa liên miên. Chúng tôi tìm đủ cách để tránh mưa! Nào là kéo áo mưa lên che gần kín đầu, nào là núp dưới gốc cây cho đỡ ướt. Áo mưa tiếng là không thấm nước, vậy mà vẫn trơ trẽn để mưa thấm qua, ấy là chưa kể nó còn làm chúng tôi vướng víu, khó bắn; đứng dưới gốc cây thì lúc đầu cứ tưởng như có đỡ ướt, nhưng một lúc sau nước mưa đọng lại trên cành lá bất chợt đổ ập xuống, mỗi cành cây như một ống máng xối nước xuống người chúng tôi, dòng nước lạnh luồn cả vào dưới cà vạt và chảy theo đường sống lưng... Thật là chó má, nói theo lời Ermôlai!

- Không, ông Piôtr Pêtơrôvits ạ! - Cuối cùng anh ta thốt lên. - Cái kiểu này là không ổn rồi! Hôm nay không đi săn được đâu - Chó thì ướt mũi, súng thì tắc nòng... Hừ! Rõ là đến may mắn!

- Làm thế nào bây giờ? - Tôi hỏi.

- À, thế này nhá, chúng ta sẽ rẽ vào Alêcxêepca, có lẽ ông không biết, ở đấy có một khu trại nhỏ thuộc quyền sở hữu của bà cụ thân sinh ra ông; từ đây đến đấy tám dặm. Chúng ta sẽ ngủ lại đó và sáng mai thì...

- Lại trở về đây?

- Không, không quay lại đây nữa... ở phía bên kia Alêchxêepca, tôi biết có những chỗ... săn gà gô còn tốt hơn chỗ này nhiều.

Tôi không hỏi thêm người bạn đồng hành đáng tin cậy của tôi xem tại sao lúc trước anh ta không dẫn thẳng tôi đến những chỗ mà anh đã nói, và ngày hôm ấy chúng tôi đã lần đến được khu trại của mẹ tôi - thú thực là cho đến lúc bấy giờ tôi vẫn không ngờ rằng lại có khu trại ấy. Trong trại có một căn nhà nhỏ rách nát nhưng bỏ không, vì vậy cũng sạch sẽ. Đêm ấy, tôi ngủ một giấc khá yên lành trong căn nhà đó.

Sáng hôm sau tôi tỉnh giấc hơi sớm. Mặt trời vừa mới nhô lên, bầu trời không một gợn mây; xung quanh chói loà ánh sáng: những tia nắng ban mai tươi trẻ lấp lánh trong ánh hào quang của trận mưa rào hôm qua. Trong lúc chờ thắng xe, tôi dạo chơi trong khu vườn nhỏ, ngày xưa là vườn quả, giờ đây đã thành khu vườn hoang ôm lấy căn nhà nhỏ lọt thỏm trong cảnh cô liêu phảng phất hương thơm và tiếng lá rì rào. Ôi, khoan khoái biết bao khi ta được sống trong bầu không khí thoáng đãng, dưới bầu trời trong sáng đầy chim sơn ca bay lượn, lắng nghe tiếng hót trong như tiếng chuông bạc từ không trung vẳng xuống! Chắc chắn là chúng mang những giọt sương trên cành, và tiếng hót dường như cũng đẫm hơi sương. Tôi ngả mũ và sung sướng hít căng lồng ngực. Một bọng ong mật hiện ra từ sườn dốc một cái khe không sâu lắm ngay sát bờ rào. Con đường mòn nhỏ hẹp dẫn tới bọng ong,  lượn ngoằn ngoèo như rắn giữa những bức tường cỏ dại và tầm ma dầy đặc, phía trên có những thân cây gai đầu nhọn mầu xanh sẫm nhô lên; có trời biết được những cây gai ấy từ đâu lạc loài đến.

Tôi theo con đường mòn tới chỗ tổ ong; gần đó có một túp lều dựng bằng cành cây ken vào nhau, dùng làm kho chứa bọng ong vào những ngày đông tháng giá. Tôi nhìn qua cánh cửa hé mở: bên trong tối tăm, vắng vẻ, khô ráo; phảng phất mùi bạc hà, mùi tía tô. Trong gốc có kê cái bục bằng ván ghép, và trên bục, một thân hình nhỏ bé trùm tấm chăn...

Tôi đã quay bước toan bỏ đi.

- Ông chủ, ông chủ ơi? Ông Piôtr Pêtrôvitst - Tôi nghe rõ tiếng nói yếu ớt, chậm chạp và khàn khàn như tiếng rì rào của cỏ lau trên đầm lầy.

Tôi dừng lại.

- Ông Piôtr Pêtrôvits? Xin ông lại gần đây! - lại có tiếng người gọi tôi.

Tiếng nói từ trong góc lều đưa ra, chỗ có tấm bục mà tôi đã nhận thấy từ ban nãy. Tôi bước lại và sững người ra vì kinh ngạc. Trước mặt tôi là một con người sống, nhưng người với ngợm gì mà lại thế này?!

Cái đầu quắt queo, nước da đen sạm, hệt như bức ảnh thánh vẽ theo lối hoạ thời xưa; cái mũi mảnh như lưỡi dao; gần như không trông thấy môi  mà chỉ thấy hàm răng trắng bóng và đôi mắt; dưới nếp khăn thòi ra, mấy món tóc vàng lưa thưa, rủ xuống trán. Đôi bàn tay nhỏ xíu cũng đen sạm động đậy ở phía dưới cằm, những ngón tay gầy khẳng như những chiếc đũa chậm chạm quờ quạng trên mép chăn. Tôi chú ý nhìn kỹ hơn thì khuôn mặt ấy chẳng những không xấu, thậm chí còn đẹp là đằng khác; nhưng nom thật đáng sợ, đến là khác thường. Khuôn mặt ấy càng gây cho tôi cảm giác ghê sợ hơn nữa khi trên đôi má mầu kim loại ấy, tôi thấy một nụ cười... gắng gượng mãi vẫn không nở ra được.

- Thưa ông, ông không nhận ra sao? - người ấy nói thều thào, tựa hồ như luồng hơi chỉ thoát ra qua cặp môi khẽ mấp máy - Vâng, ông làm thế nào mà nhận ra được cơ chứ! - Em là Lukêria đây...chắc ông còn nhớ chính em đã từng dắt dẫn những cuộc múa hát vòng tròn tại nhà bà cụ thân sinh ra ông ở Xpaxki chứ... ông có nhớ bấy giờ em là người hát lĩnh xướng không?

- Lukêria? - tôi kêu lên - Chị đấy chứ? Thật vậy sao?

- Em, chính em đây, thưa ông, - Em, em là Lukêria đây.

Tôi không nói được nên lời, và bàng hoàng nhìn khuôn mặt tối thẫm, đờ dẫn với đôi mắt nhợt nhạt không còn chút sinh khí đang nhìn tôi chằm chằm.

Thật vậy ư? Chẳng lẽ cái xác ướp này lại là Lukêria, cô gái đẹp nhất làng, cô gái có thân hình cao lớn, đẫy đà, nước da trắng hồng, hay cười hay nhảy, hay hát ư? Lukêria, Lukêria thông minh mà hết thảy trai làng chúng tôi đều theo đuổi, và chính tôi, lúc ấy là một cậu bé mười sáu tuổi, cũng đã từng bao phen phải thở dài một mình vì trộm nhớ thầm yêu đó ư!

- Mong chị thứ lỗi cho tôi, chị Lukêria ạ - cuối cùng tôi đã thốt được lên - Cớ sao chị lại đến nông nỗi này?

- Vâng, một chuyện chẳng may đã đến với em! Nhưng ông đừng khinh bỉ và chế giễu cảnh thân tàn ma dại này của em mà tội nghiệp, ông chủ ạ. Ông hãy ngồi tạm lên cái thùng kia kìa. Ông xích gần lại chút nữa kẻo không nghe rõ đâu...Ông thấy đấy, giọng nói của em đã trở nên trong trẻo lắm cơ? Chao ôi, thật là sung sướng được gặp lại ông! Làm thế nào mà ông lại lạc bước đến Alêcxeepca này vậy?

Lukêria nói rất khẽ, giọng yếu ớt nhưng nói luôn miệng.

- Anh thợ săn Ermôlai đã dẫn tôi về đây. Nhưng chị hãy kể cho tôi nghe đi...

- Về câu chuyện rủi ro của em ấy ư? Xin vâng,  thưa ông. Chuyện xẩy ra với em đã lâu, cách đây sáu bảy năm rồi. Ngày ấy, người ta vừa mới dạm hỏi em cho anh Vaxili Pôliakôp. Ông còn nhớ chàng tóc quăn, thân hình cân đối, lúc bấy giờ làm người coi giữ tủ thức ăn cho bà cụ thân sinh của ông không? À, mà bấy giờ ông có còn ở nhà nữa đâu. Ông đã lên Maxcơva học rồi. Em và Vaxili yêu nhau thắm thiết, đầu óc em không lúc nào không mơ tưởng đến anh ấy; và câu chuyện đã xảy ra vào độ mùa xuân. Một hôm, giữa đêm hôm khuya khoắt... hình như trời đã sắp sáng... vậy mà em vẫn chưa hề chợp mắt: ngoài vườn hoạ mi hót mới ngọt ngào, mê ly làm sao!... Không cầm lòng được, em ngồi dậy và ra bậc tam cấp nghe chim hót. Con chim hoạ mi kia sao nó cứ hót mãi, hót hoài... và bỗng nhiên em cảm thấy như có tiếng Vaxili gọi em; gọi khe khẽ: Lusa ( [156] )... Em quay lại, nhưng vì còn ngái ngủ, em loạng choạng giật lùi và trượt chân, từ trên một cái hòm ngã quật xuống đất; có lẽ em không đau lắm, bởi vì lát sau em đã đứng dậy được và trở về phòng. Có điều là, hình như em bị giập một bộ phận nào đó ở trong người - ở chỗ bụng ấy cho em nghỉ chút đã... một lát thôi... ông chủ ạ.

Lukêria im lặng, và tôi ngạc nhiên nhìn nàng.

Tôi ngạc nhiên chính bởi vì nàng kể lại câu chuyện đời mình với thái độ gần như vui vẻ, không một tiếng thở than, oán trách, chẳng hề phàn nàn và cầu mong một lời thương cảm.

- Từ sau lần ấy, - Lukêria kể tiếp - em gầy rộc, héo hắt hẳn đi, da dẻ đen nhẻm lại, đi đứng thật là khó nhọc, và ít lâu sau thì hoàn toàn không sai khiến nổi đôi chân, không đứng, không ngồi được nữa, nằm liệt giường, chẳng muốn ăn uống gì cả, càng ngày càng quá ra. Bà cụ thân sinh của ông giầu lòng nhân đức đã mời thầy thuốc về thăm bệnh cho em và đưa em vào bệnh viện. Vậy mà bệnh tình của em cũng chẳng đỡ chút nào. Không một thầy thuốc nào dám nói chắc bệnh của em là bệnh gì. Các ông ấy đã dùng đủ cách cứu chữa; nào là lấy sắt nung để đốt lưng cho em, nào là đặt em nằm lên đống nước đá đập nhỏ, nhưng đều vô hiệu. Rút cuộc em chỉ còn lại là một bộ xương... Thế rồi các ông ấy đều bó tay tất, hết phương cứu chữa, nhưng để kẻ tàn tật trong nhà chủ thì không được...cuối cùng, em được đưa về chỗ này, bởi vì ở đây, em có họ hàng thân thích. Và thế là em ở đây, như ông thấy đấy.

Lukêria lại im lặng và lại gắng gượng mỉm cười.

- Dẫu sao thì tình cảnh của chị thật là đáng sợ? - Tôi thốt lên... và không biết nói gì thêm, tôi đã hỏi nàng một câu ngu xuẩn biết chừng nào: còn Pêliakôp Vaxili thì sao?

Lukêria đưa mắt nhìn đi chỗ khác.

- Còn Pôliakôp thì thế nào ư? Anh ấy cứ sầu não, vấn vương mãi, nhưng rồi thời gian qua đi, anh ấy cũng đã lấy vợ, một cô người làng Glinưi. Ông có biết làng Glinưi không nhỉ? Cách làng ta chẳng bao xa. Tên cô ta là Agrafena. Anh ấy yêu em lắm, nhưng anh ấy còn trẻ quá, chẳng lẽ bắt anh ấy ở vậy sao. Còn em thì kết bạn với anh ấy thế nào được nữa? Anh ấy đã kiếm được cô vợ phúc hậu, đảm đang, và họ đã có con. Bây giờ anh ấy làm quản gia cho một nhà ở gần đấy: bà cụ thân sinh của ông đã trả lại tự do cho anh ấy, và nhờ ơn Chúa, anh ấy sống rất sung túc.

- Vậy ra chị cứ nằm thế này suốt ngày hay sao? - Tôi lại hỏi.

- Đúng thế, thưa ông, em nằm thế này đã hơn sáu năm nay rồi. Mùa hè em nằm ở đây, trong cái nhà tranh này, nhưng khi trời lạnh thì người ta đưa em vào buồng thay quần áo ở nhà tắm... Bấy giờ em lại nằm ở đấy.

- Ai trông nom săn sóc chị?

- Người phúc hậu thì ở đâu chả có. Người ta chẳng bỏ rơi em đâu. Thực ra thì việc chăm nom em chẳng khó nhọc gì lắm, ăn thì hầu như em chả ăn gì cả, còn uống, thì đấy - nước ở trong ca đấy: trong ca bao giờ cũng có nước trữ sẵn, nước lấy ở đầu nguồn, trong vắt. Ca nước kia em có thể tự với lấy em vẫn còn một cánh tay có thể cử động được. À, ở đây còn một cô bé, một cô bé mồ côi, thỉnh thoảng vẫn tạt qua thăm em, cám ơn cô bé. Cô ấy vừa ở đây...Ông có thấy cô ấy chưa? Trắng trẻo, xinh xắn lắm. Cô bé hái cả hoa mang về cho em đấy. Em rất thích chơi hoa. Ở đây chả có hoa trồng đâu, trước thì có đấy, nhưng lụi hết cả rồi. Cơ mà hoa đồng cũng đẹp đấy chứ. Còn thơm hơn cả... hoa trồng là đằng khác. Những bông linh lan này chẳng hạn... thơm biết mấy!

- Thế mà chị không buồn nản, không sợ ư, Lukêria tội nghiệp của tôi?

- Nhưng biết làm thế nào? Em không muốn nói dối đâu. Thoạt đầu quả là rất chán nản; nhưng sau đó ít lâu em đã quen đi, thấy cũng chịu đựng được, chẳng có gì ghê gớm lắm. Có người còn khổ hơn thế này nữa ấy chứ.

- Còn khổ đến mức nào được nữa?

- Có người không có cả chỗ nương thân nữa ấy chứ? Có người bị điếc hay mù! Nhưng em thì nhờ ơn Chúa, mắt vẫn sáng và tai vẫn tinh. Em nghe thấy cả tiếng con chuột chũi đào hang ở dưới đất. Và em có thể ngửi thấy bất cứ mùi hương nào dù là thoảng nhẹ nhất, tưởng như không có. Hương lúa trổ bông ngoài đồng hay cây bồ đề nở hoa trong  vườn, không cần ai bảo em vẫn biết: em là người đầu tiên ngửi thấy. Chỉ cần một làn gió nhẹ từ đấy thoảng qua là đủ. Không, cớ gì mà làm Chúa nổi giận nhỉ? Chán kẻ còn khốn khổ hơn em. Cứ nói thế này thôi chẳng hạn: một người khỏe mạnh thì có thể rất dễ phạm tội; còn với em, thì chính tội lỗi đã bỏ em mà đi. Cách đây không lâu, cha Alecxây đã rửa tội cho em, và bảo: con còn có tội gì nữa, mà rửa, ở tình cảnh con như thế này mà con còn có thể phạm tội được nữa sao? Nhưng em đã nói với cha: còn tội lỗi trong ý nghĩ, thưa cha? - "Ừ - cha và chính ông cũng bật cười - Loại tội lỗi ấy chẳng lấy gì làm to tát lắm". Mà có lẽ chính cái tội lỗi trong ý nghĩ ấy, em cũng không phạm nhiều lắm đâu - Lukêria nói tiếp - bởi lẽ em đã tập được thói quen không nghĩ ngợi, nhất là không nhớ lại dĩ vãng. Thời gian trôi qua cũng nhanh thôi.

Thú thực là tôi rất ngạc nhiên.

- Lukêria ạ, lúc nào chị cũng nằm đây có một mình; vậy thì chị làm thế nào mà có thể ngăn không cho những ý nghĩ nảy sinh trong đầu. Hay là chị cứ ngủ triền miên?

- Ồ, không phải thế đâu, ông chủ ạ? Có phải lúc nào em cũng ngủ được đâu. Mặc dầu em không bị những cơn đau ghê gớm, nhưng cứ nhức nhối ê ẩm ở trong bụng và trong xương. Vì thế em không ngủ yên được. Không... em cứ nằm thế này, nằm mãi - chẳng nghĩ ngợi gì cả, em cảm thấy em vẫn còn sống, đang thở. Và toàn bộ cuộc sống của em ở là đây. Em nhìn, em nghe ngóng. Ngoài tổ ong, đàn ong vo ve và vù vù bay đi; con bồ câu đậu xuống mái nhà và cất tiếng gù; ả gà mái mẹ dắt một đàn con vào nhặt tấm; khi thì một con chim sẻ hoặc một con bướm bay lên. Và em cảm thấy rất khoan khoái. Hồi năm kia có cả chim én vào làm tổ và đẻ con ở cái góc kia kìa. Cứ ngắm nhìn cái tổ chim mới thích chứ! Một con bay về, đậu trên miệng tổ, cúi xuống mớm mồi cho con, và lại bay đi. Thoáng chốc, một con khác đã đến thay nó. Đôi khi con chim mẹ không bay về tổ mà chỉ bay qua cánh cửa bỏ ngỏ thôi, nhưng đàn chim con lập tức kêu líu ríu và há mỏ chờ mồi... Sang năm sau em lại chờ đợi chúng, nhưng nghe nói một người đi săn vùng này đã dùng súng bắn chết chúng. Lợi lộc được là bao? Một con chim én không lớn hơn con bọ dừa... Sao mà những người đi săn các ông độc ác thế?

- Tôi có bắn chim én đâu, - tôi vội vã nói.

- Có một lần - Lukêria lại bắt đầu kể, - Chuyện buồn cười lắm kia! Một con thỏ chạy vào, thật đấy! Chắc nó bị chó đuổi, chỉ biết là nó lao thẳng vào cửa như mũi tên! Nó ngồi gần em lắm, và ngồi rất lâu, cứ hếch mãi cái mũi lên, và bộ ria động đậy, y như một viên sĩ quan thực thụ! Nó nhìn em. Như vậy là nó đã hiểu rằng em không đáng sợ đối với nó. Cuối cùng, nó đứng dậy và nhảy chồm chồm ra cửa, đến ngưỡng cửa nó còn ngoái cổ lại, đúng là có một con thỏ như vậy đấy! Con vật thật đến buồn cười?

Lukêria nhìn tôi... Tựa hồ như muốn hỏi: hay là câu chuyện em kể không có gì ngộ nghĩnh chăng? Tôi cười để làm vừa lòng nàng, nàng cắn chặt cặp môi khô héo.

- Còn về mùa đông thì dĩ nhiên em sống có khổ cực hơn. Bởi vì trời tối, thắp nến thì tiếc, mà thắp làm gì cơ chứ? Em tuy có biết chữ và bao giờ cũng thích đọc, nhưng đọc cái gì? Ở đây chả có sách vở gì cả mà giả thử có đi chăng nữa thì em cầm làm sao được mà đọc? Để cho em khuây khoả, cha Alêcxây đã mang đến cho em một cuốn lịch, nhưng cha thấy cũng chẳng bổ ích gì nên lại lấy mang đi. Thế nhưng trời tối mà em vẫn nghe thấy mọi tiếng động ở xung quanh: con dế kêu rinh rích, hay con chuột cào sột soạt ở đâu đó. Những lúc như vậy thật là sung sướng: chẳng phải nghĩ ngợi gì cả!

- Có lúc thì em đọc kinh, - Lukêria ngừng một chút để thở rồi lại kể tiếp - có điều là kinh cầu nguyện thì em thuộc ít lắm. Nhưng em quấy rầy Chúa trời để làm gì mới được chứ? Em có thể cầu xin Chúa điều gì? Chúa biết rõ hơn ai hết em cần gì rồi. Chúa đã gửi xuống cho em cây thập tự, nghĩa là người yêu thương em. Vậy thì chúng ta phải hiểu điều đó. Em sẽ đọc kinh Lạy cha chúng con, Lạy Đức mẹ đồng trinh, đọc thánh tụng ca cho tất cả những con chiên đau thương của Chúa. Rồi em lại nằm im một mình, không hề nghĩ ngợi gì cả. Thế cũng xong!

Hai phút trôi qua. Tôi không phá tan sự im lặng và ngồi không nhúc nhích trên cái thùng nhỏ dùng thay ghế. Trạng thái bất động nghiệt ngã, trơ trơ như đá của con người bất hạnh đang nằm trước mặt tôi đã truyền lan cả sang tôi: tôi cũng ngây ra như tượng đá.

- Lukêria, chị hãy nghe tôi, - cuối cùng tôi nói, - chị hãy nghe tôi, tôi muốn bàn với chị một điều thế này nhé. Nếu chị muốn, tôi sẽ thu xếp đưa chị vào bệnh viện, một bệnh viện loại tốt ở thành phố. Biết đâu đấy có thể bệnh của chị sẽ khỏi chăng? Dẫu sao chị cũng không phải chịu cái cảnh cô độc này...

Lukêria khẽ nhướn cao lông mày.

- Ồ không, ông chủ ạ - nàng nói khe khẽ, giọng thì thào lo lắng, - ông đừng đưa em vào bệnh viện, cứ mặc em. Ở đấy em chỉ khổ thêm thôi. Bệnh của em còn chữa làm sao được nữa! Có lần, một ông  thầy thuốc về đây, muốn khám bệnh cho em. Em đã van xin ông ta: vì Chúa, xin ông đừng làm rầy tôi nữa. Vô ích! ông ta bắt đầu xoay vần em, xoa nắn tay chân. Rồi ông ta nói: tôi làm công việc này nhằm mục đích nghiên cứu khoa học; tôi đang theo đuổi công việc đó, tôi là nhà bác học! Còn cô, ông ta lại nói, đừng cố ý cản trở công việc của tôi, cô phải hiểu rằng rồi đây, nhờ những công trình của tôi, tôi sẽ được người ta quàng lên cổ một tấm huân chương, tôi cố gắng là vì các người đấy, hỡi những kẻ ngu ngốc ạ. Và thế là ông ta cứ làm tình làm tội em mãi, rồi ông ta đã gọi được đích danh tên bệnh của em - cái tên rắc rối lắm - đoạn rồi ông ta bỏ đi. Sau đó xương cốt em đau ê ẩm suốt cả một tuần. Ông bảo rằng em sống một mình, bao giờ cũng chỉ có một mình. Không, không phải bao giờ cũng thế đâu. Người ta đến thăm em luôn. Em vốn tính hiền lành chẳng bao giờ quấy nhiễu ai. Các cô gái nông dân ghé vào thăm, chuyện trò với em. Có lần, một người đàn bà hành hương lạc đường tạt vào, kể cho em nghe về Jêruzalem, về Kiep, về những thành phố thiêng liêng. Vả chăng, sống một mình em cũng chẳng hãi đâu. Thậm chí còn tốt là đằng khác, em nói thật đấy! Ông chủ ạ, hãy để mặc em; đừng đưa em vào bệnh viện...Em cám ơn ông, ông thật có lòng tốt, nhưng xin ông cứ để mặc em, ông chủ quý hoá của em ạ.

- Thôi được, tùy chị, tùy chị thôi. Lukêria ạ. Chính vì lợi ích của chị mà tôi đề ra ý kiến ấy...

- Em biết, ông chủ ạ, em biết ông có lòng tốt đối với em. Nhưng ông chủ quý mến của em ơi, ai là người có thể giúp đỡ được người khác? Ai có thể hiểu thấu được lòng người? Con người hãy tự giúp mình thì hơn! Nói ông chẳng tin đâu, nhưng đôi khi em nằm một mình như thế này...và tưởng như trên trái đất này ngoài em ra chẳng còn ai nữa. Chỉ một mình em còn sống sót! Và em mường tượng như một ý nghĩ chợt đến với em, thế là em nghĩ ngợi, kể cũng kỳ lạ thật!

- Lúc ấy chị nghĩ gì, Lukêria?

- Thưa ông, điều đó em cũng không thể nào nói được: không thể giảng giải được. Vả lại, sau đó em thường quên đi. Ý nghĩ đến như một đám mây đen, trút xuống thành cơn mưa thật là mát mẻ, dễ chịu, nhưng nó là cái gì thì không thể hiểu được. Em chỉ biết có một điều là: nếu có người ở bên em thì chuyện đó sẽ không hề xảy ra và em chẳng cảm thấy gì hết, ngoài nỗi bất hạnh của bản thân em.

Lukêria thở dài một cách khó nhọc. Lồng ngực nàng chẳng chịu theo nhịp thở của nàng, cũng như mọi phần khác trên cơ thể nàng chẳng chịu theo ý nàng vậy.

Nàng lại nói:

- Ông chủ ạ, cứ nhìn ông là em thấy rằng ông rất lấy làm ái ngại cho em. Nhưng ông đừng quá thương em, thật đấy! Em nói với ông điều này. Đôi khi và ngay bây giờ cũng vậy, em... Hẳn ông còn nhớ, thời con gái em vui tính như thế nào chứ? Một con bé!... Vậy mà, ông có biết thế nào không? Bây giờ em vẫn ca hát đấy.

- Hát... chị mà hát ấy à?

- Vâng, em hát những bài hát cổ, những bài hát múa vòng, những bài ca nghi thức, những bài ca ngày lễ Noël, đủ các loại. Em vốn biết nhiều bài ca và vẫn không quên đâu. Có điều là em không hát những điệu nhạc vũ. Ở tình cảnh em bây giờ thì loại bài hát ấy không thích hợp.

-Chị hát như thế nào cơ chứ... chả lẽ hát thầm ư?

- Cả hát thầm và hát thành tiếng. Hát to thì em chịu nhưng cũng có thể hát đủ nghe. Ban nãy em đã kể với ông là có một cô bé vẫn đến thăm em. Cô gái mồ côi ấy rất sáng ý. Thế là em đã dạy cô ta hát cô bé đã học được ở em bốn bài. Ông không tin ư? Ấy khoan, em sẽ hát cho ông nghe.

Lukêria lấy hơi chuẩn bị hát... ý nghĩ rằng cái sinh vật dở sống dở chết này lại sắp sửa hát khiến tôi bất giác kinh hãi. Nhưng tôi chưa kịp thốt lên lời thì một âm thanh ngân nga, văng vẳng như có  như không, nhưng trong trẻo và chính xác đã rung động trong không trung... rồi tiếp đến âm thanh thứ hai, thứ ba; Lukêria hát bài "Tôi đi trên đồng cỏ". Nàng hát, và nét mặt vẫn lạnh như đá, không hề thay đổi, đôi mắt thậm chí vẫn nhìn trừng trừng. Nhưng tiếng hát tội nghiệp, gắng gượng quá sức như một luồng khói lung linh, nghe mới cảm động làm sao, dường như nàng muốn giãi bầy hết nỗi lòng... Tôi không cảm thấy gì đáng sợ nữa: lòng thương vô hạn vò xé trái tim tôi.

- Ôi em không thể hát được nữa! - nàng bỗng nói, - em không đủ sức nữa rồi... em rất sung sướng đã được hát cho ông nghe.

Nàng nhắm mắt lại.

Tôi đặt tay lên những ngón tay nhỏ xíu lạnh giá của nàng... nàng ngước tôi, và đôi mí mắt thâm quầng dưới cặp lông mày vàng óng của nàng lại khép lại giống như ở các bức tượng cổ. Lát sau, đôi mắt ấy ngời lên trong bóng tối mờ mờ... Lệ đã chan hoà. Tôi vẫn không nhúc nhích.

- Em vớ vẩn quá đi thôi! - Đột nhiên Lukêria lại nói với một sức lực bất ngờ, và mở to mắt, cố chớp cho giọt lệ rơi xuống - Em không biết xấu hổ ư? Cớ sao em lại như thế nhỉ? Đã lâu lắm em có khóc đâu... kể từ ngày Vaxili Pôliakôp đến thăm em vào mùa xuân năm ngoái cơ đấy. Lúc anh ấy  còn ngồi nói chuyện với em thì không sao; nhưng anh ấy vừa ra về là em không cầm lòng được, đã tấm tức khóc một mình? Rõ khéo mau nước mắt?...

Vả lại nước mắt của phụ nữ chúng em có tốn tiền mua đâu mà sợ. Ông chủ ạ, - Lukêria nói thêm, - chắc là ông có mùi soa trong túi... Mong ông đừng ghê tay, hãy lau nước mắt cho em đi.

Tôi vội chiều theo ý nàng, và tôi đã để lại cho nàng chiếc khăn tay ấy. Lúc đầu nàng từ chối; em biết dùng món quà như thế để làm gì? Cái khăn rất giản dị, nhưng sạch sẽ và trắng trẻo. Lát sau nàng đưa những ngón tay yếu ớt nắm lấy chiếc khăn và không buông ra nữa. Khi đã quen dần với bóng tối đang bao trùm lấy cả hai chúng tôi, tôi mới nhận rõ được những đường nét trên mặt nàng, thậm chí tôi còn nhận thấy cả cái sắc hồng lờ mờ ánh lên qua lớp da mặt đen xỉn của nàng, tôi đã có thể khám phá ra, hay ít nhất là tôi đã tưởng tượng ra là khuôn mặt này vẫn còn giữ được dấu vết của vẻ đẹp ngày xưa.

Lukêria lại nói:

- Ông hỏi em có ngủ được không, thưa ông, có phải thế không ạ. Em ngủ quả là ít lắm, nhưng lần nào ngủ em cũng mơ, những giấc mơ đẹp lắm! Trong giấc mơ chưa bao giờ em thấy mình ốm yếu: bao giờ em cũng thấy mình khỏe mạnh và tươi trẻ biết chừng nào... Khổ một nỗi là lúc tỉnh dậy, em muốn vươn vai cho dễ chịu một chút, thế nhưng  toàn thân em đã bị liệt rồi còn đâu. Có lần, em đã mơ thấy một giấc chiêm bao đẹp tuyệt vời! Ông có muốn em kể ông nghe không? Thế thì em kể nhé.

- Em thấy mình đứng ở giữa một cánh đồng, chung quanh toàn lúa mạch, lúa mọc cao, chín rực, óng ánh như vàng!... Và hình như ở bên cạnh em có một con chó sắc hung, con chó hung hăng lắm, nó cứ luôn luôn chực cào em. Và hình như tay em đang cầm cái liềm, không phải là cái liềm thường, mà đúng là mảnh trăng khuyết thật, vào lúc trăng khuyết thì mặt trăng giống như cái liềm vậy. Và lẽ ra em phải dùng mảnh trăng ấy để gặt hết cánh đồng lúa kia. Nhưng khí trời nóng bức khiến em mệt lả, và vành trăng kia làm cho em loá mắt, khiến em đâm ra biếng nhác. Xung quanh em mọc lên những cây mua, to ghê lắm cơ! Và tất cả những cây mua đều quay đầu về phía em. Em nghĩ bụng, mình sẽ ngắt những bông hoa mua ấy. Vaxia đã hứa là sẽ đến, vậy thì trước hết em sẽ tết cho em một vành hoa cái đã; vẫn đủ thì giờ để gặt lúa. Em đưa tay hái hoa mua, nhưng những bông hoa kia cứ tan dần, tan dần giữa các kẽ tay, không làm sao giữ nổi! Em không tài nào tết nổi được một vành hoa, giữa lúc ấy em lại nghe thấy tiếng bước chân ai đang đi về phía em, gần lắm và có tiếng gọi em: Lusa! Lusa... Ôi, thế có khổ không, chậm mất rồi - em nghĩ vậy? Dầu sao em cũng cứ đội cái mảnh  trăng lưỡi liềm ấy lên đầu thay cho vòng hoa mua.

Em đặt vành trăng lên đầu, như đội cái mũ có vành trước trán và toàn thân em lập tức rực rỡ hẳn lên, cả cánh đồng cũng chan hoà ánh sáng. Thốt nhiên em thấy một người lướt nhanh trên ngọn lúa tiến về phía em, nhưng đó không phải là Vaxia, mà chính là Zêsu. Tại sao em nhận ngay ra đó là Chúa Zêsu em cũng không biết nữa, chưa có sách nào mô tả Chúa như vậy, nhưng đó chính là Chúa! Cằm không râu, dáng người cao cao, trẻ trung y phục toàn trắng, chỉ có thắt lưng vàng choé và Chúa chìa tay cho em - "Con đừng sợ - Chúa nói - hỡi nữ tu sĩ diễm lệ của ta, nàng hãy theo ta. Trên thiên đình của ta, nàng sẽ dẫn đầu những đội vũ vòng tròn và nàng sẽ hát những khúc ca thiên đường".

Và em úp mặt vào tay Chúa! Con chó vẫn rình em lập tức vồ lấy chân em... Nhưng Chúa và em đã bay bổng lên không trung! Chúa bay ở phía trước... đôi cánh của Chúa dang rộng che khắp cả bầu trời, cánh dài như cánh hải âu ấy, còn em cũng bay theo Chúa! Lúc ấy em mới hiểu rằng con chó kia chính là bệnh tật của em và trên thiên đàng làm gì có chỗ cho cái ngữ đó.

Lukêria lại ngừng lời giây lát.

- Em còn mơ thấy một giấc chiêm bao nữa - nàng kể tiếp - Nhưng có thể đó chỉ là sự tưởng tượng của em, em cũng không biết nữa. Em cảm  thấy hình như em đang nằm trong chính căn lều này và thân phụ cùng thân mẫu đã quá cố của em đến tận đây thăm em, hai người cúi rạp xuống chào em nhưng chính hai người lại chẳng nói gì với em cả. Và em hỏi hai thân em: tại sao ba mẹ lại cúi chào con? Nhưng một lúc sau hai thân em nói rằng bởi vì con đã chịu nhiều khổ cực trên thế gian này, cho nên chẳng những con đã làm cho bản thân con được rỗi linh hồn và còn giúp cho hai thân con trút bỏ được cái gánh nặng ghê gớm đè lên vai các người. Cha mẹ ở cõi bên kia cũng gặp nhiều điều dễ dàng hơn. Con đã rũ bỏ được hết mọi tội lỗi của con, giờ đây con đang gỡ tội cho cha mẹ con. Hai người nói, rồi lại cúi chào em, và em không còn nhìn thấy hai người nữa; xung quanh chỉ còn lại những bức vách. Sau này em vẫn ngờ vực, không biết chắc có phải em đã chiêm bao thấy như thế thật không. Thậm chí em đã kể lại với cha đạo trong buổi thú tội. Nhưng cha lại cho rằng đó không phải là hoang tưởng, bởi vì chỉ có bậc chức sắc mới hay gặp hoang tưởng.

- Nhưng em lại còn mơ thấy thế này - Lukêria kể tiếp - Em thấy hình như em ngồi trên một con đường lớn, dưới gốc một cây liễu, tay em cầm cái gậy bằng cành cây đã róc hết vỏ, vai đeo tay nải và đầu quấn khăn như một kẻ hành hương vậy! Và em phải đi tới một nơi nào xa lắc xa lơ trên con đường  hành hương. Những người hành hương không ngớt kéo qua trước mặt em; họ lặng lẽ bước đi, tựa hồ như miễn cưỡng, luôn luôn đi về một ngả; mặt người nào cũng lộ vẻ chán chường và mọi người đều giống nhau như đúc. Em thấy trong bọn họ có một người đàn bà cao hơn họ hẳn một đầu, mặc chiếc áo dài rất đặc biệt, hình như không phải kiểu áo của phụ nữ Nga chúng ta, bà ta lượn đi lượn lại, lăng xăng giữa dòng người. Vẻ mặt bà ta cũng đặc biệt, cau có, nghiêm nghị. Và dường như mọi người ai cũng muốn xa lánh người đàn bà ấy; nhưng bất thình lình người đó quay lại và đi thẳng về phía em. Bà ta đứng lại và nhìn em; bà ta có đôi mắt như mắt chim ưng, đôi mắt màu vàng, to và sáng lấp lánh. Em hỏi bà ta: "Người là ai"" - Và bà ta trả lời em: "Ta là thần chết của nhà ngươi đây". Lẽ ra em phải hoảng sợ, nhưng ngược lại, em vui sướng quá và đưa tay làm dấu cầu nguyện! Người đàn bà ấy, vị thần chết của em, lại nói với em: "Ta lấy làm ái ngại cho nhà ngươi, Lukêria ạ, nhưng đưa nhà ngươi đi theo ta ngay bây giờ thì ta chưa thể làm được Thôi, chào ngươi?" Trời ơi? lúc ấy em cảm thấy buồn biết bao!.. "Hãy cho con đi cùng - em nói - mẹ ơi, mẹ quí mến của con ơi, cho con theo với?" – Thế là thần chết của em quay lại và quở trách em...Em hiểu rằng thần chết đã định giờ tận số cho em, nhưng thật là khó hiểu quá, mập mờ quá... theo lời  thần bảo, thì sau tuần Pêtrôpki ( [157] )... Thế là em tỉnh dậy...Em thường chiêm bao thấy những điều kỳ lạ như thế đấy! - Lukêria ngước nhìn lên... đăm chiêu suy nghĩ...

- Nhưng điều không may cho em là: có khi cả tuần em không ngủ được tí nào. Năm ngoái có một bà quí tộc qua đây, gặp em và đã cho em một chai thuốc chống bệnh mất ngủ. Bà ta bảo em uống mỗi bận mười giọt. Thứ thuốc ấy đối với em rất hiệu nghiệm, và em đã ngủ được; nhưng đến giờ thì em đã uống hết cả rồi... ông có biết đó là loại thuốc gì không và làm sao mà mua được nhỉ?

Rõ ràng là bà khách qua đường kia đã cho Lukêria uống thuốc phiện. Tôi hứa sẽ mua cho nàng một chai thuốc y như vậy và một lần nữa, tôi lại không thể nào không buột miệng nói lên sự ngạc nhiên về lòng nhẫn nại của nàng.

- Ồ thưa ông! - nàng phản đối - ông nói gì vậy? Nhẫn nại như thế đã thấm vào đâu chứ? Ví như sự nhẫn nại của Ximêon - Trụ đá mới thật là vĩ đại: ba mươi năm ròng đứng trên cột trụ! Một vị thánh khác đã bảo người ta chôn mình xuống đất và lấp đất đến tận ngực, kiến kéo đến đục khoét cả mặt ngài... có lần một nhà chú giải thánh kinh còn kể với em rằng, có một đất nước nọ bị người Hồi giáo xâm lăng, tất thảy dân chúng đều bị bọn xâm lược hành hạ và giết chóc; nhân dân đã tìm đủ cách để tự giải phóng nhưng không làm nổi. Giữa lúc ấy, một nữ thánh đồng trinh xuất hiện trong đám dân chúng; nàng cầm một thanh kiếm khổng lồ, và khoác lên mình bộ chiến bào nặng hai pút , nàng xông vào bọn hồi giáo và đuổi tất cả bọn chúng ra ngoài biển. Sau khi đã tống cổ được bọn chúng ra ngoài bờ cõi, nàng nói với chúng: bây giờ các người hãy thiêu ta đi vì ta đã hứa là ta sẽ chết thiêu trong ngọn lửa vì sự nghiệp giải phóng dân tộc ta.

Bọn người Hồi giáo đã bắt nàng đem thiêu sống, còn nhân dân thì từ đó trở đi đời đời được giải phóng! Thế mới là chiến công chứ? Còn em thì ra cái quái gì!

Tôi lại sửng sốt trong lòng: câu chuyện truyền thuyết về Jan Đar sao lại biến dạng đi đến như như vậy. Tôi im lặng một lát và hỏi nàng bao nhiêu tuổi?

- Hăm tám... hay hăm chín gì đó... nhưng chưa đến ba mươi đâu. Mà tính tuổi làm gì cơ chứ! Em còn muốn nói với ông điều này...

Đột nhiên Lukêria ho sù sụ, rên lên một tiếng.

- Chị nói nhiều quá - tôi bảo nàng- nói nhiều có hại đến sức khỏe của chị đấy.

- Đúng thế, - nàng nói nhỏ nhẹ thật là khó nghe - chẳng còn chuyện gì đáng nói nữa. Thế cũng phải! Bây giờ ông đi rồi em lại tha hồ mà im lặng. Dù sao em cũng đã có dịp cởi mở nỗi lòng...

Tôi từ biệt nàng, nhắc lại lời hứa sẽ gửi thuốc cho nàng, yêu cầu nàng suy nghĩ kỹ lại một lần nữa và nói cho tôi biết nàng có cần gì nữa không.

- Em không cần gì nữa đâu. Nhờ ơn Chúa, em hài lòng về tất cả mọi việc, - nàng nói hết sức gắng gượng, nhưng giọng đầy vẻ cảm động, - Cầu Chúa ban sức khỏe cho mọi người! Còn ông, ông chủ ạ, ông nên thưa chuyện với bà cụ thân sinh của ông rằng nông dân ở đây nghèo khổ lắm, bà lớn nên giảm tô cho họ chút ít? Họ thiếu ruộng, vườn tược cũng chẳng có... Họ sẽ cầu Chúa cho ông.. Còn em thì chẳng cần gì nữa cả. Em bằng lòng về tất cả mọi chuyện. Tôi hứa với Lukêria là sẽ thực hiện lời cầu xin của nàng, và khi tôi đã ra đến cửa thì...nàng lại gọi tôi.

- Thưa ông, - nàng nói, và có một cái gì đẹp lạ lùng thoáng hiện trong mắt và trên môi nàng - hẳn ông còn nhớ, trước kia em có bím tóc như thế nào chứ ạ? dài đến tận đầu gối ấy! Em cứ lưỡng lự mãi... Mớ tóc ấy!... Nhưng em chải tóc làm sao được? Nằm liệt giường thế này!... Thế là em đã cắt  đi vâng... Thôi, ông thứ lỗi cho em, ông chủ ạ! Em không thể...

Hôm ấy, trước khi lên đường tiếp tục chuyến đi săn, tôi đã nói chuyện với viên tuần trang của trại về Lukêria. Bác ta cho tôi biết rằng dân làng gọi nàng là "bộ thánh cốt sống", và tuy vậy, không ai bị phiền rầy gì về nàng cả. Chưa ai nghe thấy nàng thốt ra một lời kêu than, oán trách - Cô ấy không đòi hỏi gì hết, mà ngược lại, cô biết ơn tất cả những gì người ta đã làm cho mình; phải nói rằng đấy là một cô gái hiền lành, đúng là hiền lành. Hẳn là cô ấy bị trời hại để trừng phạt về những tội lỗi đã phạm phải - viên tuần trang kết luận như vậy - nhưng chúng ta không bàn đến chuyện đó. Để chê trách cô ấy ư? Không, chúng tôi không chê trách cô ấy Mặc cô ấy với Chúa?

Mấy tuần sau, tôi được tin Lukêria đã qua đời.

Thần chết vẫn cứ đến đón nàng đi... và sau "tuần Pêtrôpki". Người ta kể lại rằng đúng hôm nàng tắt thở, nàng vẫn còn nghe thấy tiếng chuông nhà thờ, mặc dù từ Alêcxêepka đến nhà thờ có tới trên năm dặm đường và hôm ấy không phải ngày lễ. Tuy nhiên, nàng nói rằng tiếng chuông không phải từ phía nhà thờ vọng lại, mà từ "trên cao" vọng xuống.

Chắc nàng không đủ can đảm để nói là: từ trên trời vọng xuống.