LỌC CỌC! LỌC CỌC!
Xin thưa với ông một điều - Ermôlai vừa bước vào nhà gặp tôi vừa nói, còn tôi cũng vừa ăn xong và nằm trên chiếc giường gấp nhỏ để nghỉ ngơi một lát sau chuyến đi săn gà rừng khá thành công, nhưng mệt lử; bấy giờ là quãng thượng tuần tháng sáu và tiết trời nóng kinh khủng...
- Xin thưa với ông: đạn chì của chúng ta hết rồi.
Tôi chồm dậy khỏi giường.
- Hết chì! Sao lại thế! Ở làng đi chúng ta mang theo ngót ba mươi fun cơ mà! cả một bì!
- Đúng thế ạ; một bì lớn: có thể đủ dùng trong hai tuần. Nhưng ai mà biết được! Chắc là bao bì bị thủng, nhưng đích là không còn chì nữa... chỗ còn lại chỉ đủ nạp mười phát đạn nữa thôi.
- Vậy thì chúng ta làm thế nào bây giờ? Ta sắp đến những chỗ săn tốt nhất, ngày mai ta có thể gặp được sáu ổ gà rừng...
- Ông cứ cho tôi đi Tula. Cách đây không xa lắm: chỉ có bốn mươi lăm dặm. Tôi sẽ đi như bay, thẳng một mạch và nếu ông ra lệnh, tôi sẽ đem về cả một pút .
- Vậy bao giờ anh đi?
- Ngay bây giờ cũng được ạ. Lần chần làm gì kia chứ? Nhưng có điều là sẽ phải thuê ngựa.
- Sao lại phải thuê ngựa! Thế ngựa của ta để làm gì?
- Không thể dùng ngựa nhà được. Con ngựa chính bị khập khiễng... thọt nặng?
- Từ bao giờ?
- Mới thôi ạ. Anh đánh xe đưa nó đi đóng móng. Và anh ta đã đóng được móng cho nó. Hẳn là đã gặp phải tay thợ rèn tồi. Bây giờ thậm chí một chân nó không thể bước đi được. Chân trước. Nó lê cái chân ấy... như chó lê chân vậy.
- Thế là thế nào? Vậy thì họ cũng phải tháo móng cho nó rồi chứ?
- Không, không tháo ạ; nhưng đúng là phải tháo móng. Có lẽ đinh cắm vào thịt nó.
Tôi bảo gọi người đánh xe. Thì ra Ermôlai không nói dối: con ngựa chính quả thực có một chân không bước đi được. Tôi lập tức ra lệnh tháo móng cho nó và để nó đứng trên đất sét ẩm.
- Sao ạ? Ông cho thuê ngựa đi Tula chứ ạ? - Ermôlai cứ mè nheo.
- Nhưng ở cái chốn hẻo lánh này mà tìm được ngựa ư? - Tôi kêu lên, vô tình để lộ vẻ bực bội.
Cái làng chúng tôi hiện dừng chân lại một làng vắng vẻ, heo hút. Cả làng dường như chỉ toàn trẻ con. Chúng tôi phải khó khăn lắm mới tìm được một căn nhà không lấy gì làm sáng sủa, nhưng khá rộng rãi.
- Có thể tìm được ạ - Ermôlai đáp, vẻ thản nhiên quen thuộc - Làng này thì đúng như ông nói đấy. Nhưng chính nơi đây lại có một nông dân tinh khôn! Giàu có! Lão có chín con ngựa. Lão về chầu trời rồi, bây giờ người con cả trông nom tất cả. Gã này đần nhất hạng, nhưng chưa kịp phá hết gia sản của bố. Ta sẽ thuê ngựa của y. Nếu ông ra lệnh, con sẽ đưa y tới. Các em y nghe đâu là cũng lanh lợi...nhưng dù sao y vẫn là người cầm đầu bọn họ.
- Sao lại thế?
- Vì y là anh cả mà? Như vậy có nghĩa là các em phải phục tùng! - Đến đây Ermôlai bày tỏ ý kiến dứt khoát và lỗ mãng về việc các em phải tuân lời anh - Con sẽ dẫn y đến. Y là kẻ ngờ nghệch. Chả nhẽ lại không thoả thuận được với y sao?
Trong lúc Ermôlai đi tìm con người "ngờ nghệch", tôi nảy ra ý nghĩ: tôi thân hành đi Tula lại chẳng hơn ư? Qua kinh nghiệm, tôi không tin Ermôlai mấy. Có lần, tôi sai anh ta ra thành phố mua mấy thứ, anh ta hứa làm mọi việc tôi giao phó trong vòng một ngày, thế rồi anh ta mất tích suốt một tuần, uống rượu hết sạch cả tiền và đi bộ trở về vậy mà lúc đi, anh ta đi bằng xe ngựa. Hai nữa là ở Tula, tôi có quen một người buôn ngựa, tôi có thể mua của người đó một con ngựa để thay cho con ngựa bị thọt của tôi.
"Cứ thế thôi! - tôi quyết định - Ta sẽ đi; còn muốn ngủ thì đi đường ngủ cũng được, được cái xe của ta cũng êm".
- Tôi đưa về đây rồi! - mười lăm phút sau, Ermôlai vừa xộc vào nhà vừa reo lên. Theo sau anh ta là một gã mujich cao lớn, mặt sơ mi trắng, chân quấn xà cạp xanh và đi giày bện bằng vỏ cây, tóc hoe nhạt, mắt kém, bộ râu màu hung thu gọn về phía dưới như hình cái nêm, mũi dài và mập, miệng há hốc. Đúng là nom gã này có vẻ "ngốc nghếch".
- Đây thưa ông - Ermôlai nói - người này có ngựa, và y đã bằng lòng.
- Tức là, tức thị là tôi... - Người mujich nói bằng giọng khàn khàn và ngắc ngứ, vừa nói vừa lắc mái tóc thưa và mân mê vành đai của cái mũ mềm cầm trong tay. - Tức thị là tôi...
- Tên anh là gì? - Tôi hỏi.
Gã mujich gằm mặt xuống và lại suy nghĩ.
- Tên là gì ạ?
- Ừ, tên anh là gì?
- Tên tôi là Filôfây ạ.
- Thế này nhé, anh Filôfây ạ; tôi nghe nói anh có ngựa. Hãy đem bộ ngựa ba con của anh đến đây, rồi thắng vào xe tôi, xe của tôi nhẹ thôi, và anh chở tôi ra Tula. Đêm nay có trăng, trời sáng sủa và đi đêm mát mẻ. Đường sá ở đây thế nào?
- Đường ạ? Đường cũng khá. Từ đây đến đường cái lớn chỉ hai mươi dặm thôi. Có một chỗ hơi rầy; còn thì thường thôi ạ.
- Một chỗ hơi rầy là thế nào?
- Đấy là chỗ phải cho xe lội qua sông.
- Vậy ra chính ông đi Tula à? - Ermôlai hỏi.
- Ừ, tôi đi.
- Ra thế! - Người đầy tớ trung thành của tôi thốt lên và lắc mạnh đầu - Ra thế đấy. - Anh ta nhắc lại, nhổ bọt và đi ra.
Rõ ràng chuyến đi Tula không còn gì hấp dẫn đối với anh ta; đối với anh ta, nó đã trở thành một việc trống rỗng và vô vị.
- Anh biết đường chứ? - Tôi hỏi Filôfây.
- Chúng tôi lại còn không biết đường nữa sao? Có điều tức thị là.. xin tùy ý ông... nhưng tôi không thể... bởi vì sao lại đột ngột như thế...
Té ra, khi thuê Filôfây, Ermôlai đã nói với gã để gã chắc mẩm rằng người ta sẽ trả cho cái thằng ngốc như gã một món tiền...khó có thể hình dung nổi! Tuy theo lời Ermôlai thì Filôfây là thằng ngốc, nhưng gã không chỉ bằng lòng với lời hứa hẹn ấy. Gã đòi tôi năm chục rúp tiền giấy, một giá quá đắt. Tôi trả mười rúp, một giá thấp. Chúng tôi bắt đầu mặc cả, Filôfây thoạt tiên không chịu, rồi dần dần nhượng bộ, nhưng cũng găng lắm. Ermôlai tạt vào một lát, bắt đầu cam đoan với tôi rằng "gã ngốc này" (chà, anh ta thích dùng cái tiếng đó? - Ermôlai nói khe khẽ), gã ngốc này hoàn toàn không biết tính tiền; và luôn tiện, anh ta nhắc tôi rằng hai mươi năm trước, cái nhà trọ do mẹ tôi làm ở chỗ rất đông khách qua lại, ngay tại ngã tư hai con đường lớn, đã hoàn toàn suy sụp vì người gia nhân già được đưa đến đấy để trông nom công việc quả là không biết tính tiền, mà đánh giá tiền theo số lượng. Chẳng hạn, lão đổi một đồng hai mươi nhăm cô pếch bằng bạc lấy sáu đồng năm cô pếch bằng đồng, vậy mà vẫn còn chửi vung lên.
- Ôi cha, Filôfây, người đúng là Filôfây! - cuối cùng, Ermôlai kêu lên và vừa đi ra vừa đóng sập cửa lại một cách cáu kỉnh.
Filôfây chẳng đáp lại Ermôlai câu nào, dường như thừa nhận rằng cái tên Filôfây quả thực là không hay ho lắm, và thậm chí có thể trách móc người ta vì cái tên ấy, tuy thực ra thì duyên do là tại viên cha đạo: khi làm lễ đặt tên, người ta chưa làm cho cha được ưng ý.
Cuối cùng, tôi và anh ta ngả giá hai mươi rúp.
Anh ta đi lấy ngựa và dắt tới năm con để chọn.
Ngựa cũng khá, tuy bờm và đuôi rối bù và bụng to, xệ như cái trống. Cùng đến với Filôfây còn có hai người em gã, chẳng giống gã chút nào. Thân hình nhỏ bé, mắt đen, mũi nhọn, họ khiến ta có cảm tưởng rằng họ là những người "lanh lợi", họ nói nhiều và nói nhanh - "liến thoắng", theo lời Ermôlai, nhưng phục tùng anh cả.
Họ đưa chiếc xe của tôi ra khỏi chỗ có mái che, và loay hoay với chiếc xe và mấy con ngựa suốt một tiếng rưỡi đồng hồ, khi thì cởi những dây kéo bằng thừng, khi thì buộc lại thật chặt. Cả hai người em đều muốn đóng con ngựa xám đốm đen làm ngựa kéo chính, vì " ló có thể xuống rốc ". Nhưng Filôfây quyết định: thắng con xồm! Thế là họ thắng con xồm làm ngựa kéo giữa. Họ chất cỏ khô vào xe, nhét cả vòng cổ kéo xe của con ngựa thọt xuống dưới ghế ngồi, phòng khi đến Tula, cần dùng để thắng vào con ngựa mới mua... Filôfây đã kịp chạy về nhà và quay trở lại, mặc chiếc áo thụng trắng của bố để lại, đội cái mũ dạo cao hình nón cụt và đi ủng bôi dầu. Anh ta trịnh trọng leo lên chỗ ngồi của người đánh xe. Tôi xem đồng hồ: mười một giờ kém mười lăm, và tôi lên xe. Ermôlai thậm chí không chia tay tôi, anh ta bắt đầu đánh con chó Valetka của mình. Filôfây giật dây cương, cất giọng lanh lảnh quát lên: "này; các chú nhỏ!", và mấy người em anh ta từ hai phía nhảy tới, quất roi vào dưới bụng con ngựa kéo bên, xe chuyển bánh, ra khỏi cổng, rẽ lên đường. Con ngựa xồm toan lồng trở lại sân nhà, nhưng Filôfây quất mấy roi làm cho nó hiểu ra nhẽ. Chúng tôi đã ra khỏi làng và xe lăn bánh trên con đường khá bằng phẳng, giữa những bụi hồ đào rậm rạp.
Đêm thanh vắng, tuyệt đẹp, rất thuận lợi cho chuyến đi của chúng tôi. Gió khi thì rì rào trong các bụi cây, lay động lá cành, khi thì lặng hẳn. Trên trời, rải rác đây đó, mấy chòm mây trắng bạc đứng im phăng phắc. Mảnh trăng treo trên vòm trời, sáng vằng vặc. Tôi nằm duỗi dài trên cỏ khô và đã thiêm thiếp đi... nhưng đột nhiên tôi nhớ đến "đoạn đường hơi rầy rà" và choàng tỉnh.
- Thế nào, Filôfây? Đến chỗ qua sông còn xa không?
- Đến chỗ qua sông ạ? Tám dặm nữa.
"Tám dặm - tôi nghĩ ít là một giờ nữa mới đến nơi. Có thể ngủ một lát".
- Filôfây này, anh biết đường chứ? - tôi lại hỏi.
- Đường ấy à? Sao lại không biết ạ? Không phải lần này chúng tôi mới đi như thế này...
Anh ta còn nói thêm mấy câu, nhưng tôi không nghe rõ nữa rồi...Tôi ngủ.
Tôi thức giấc không phải vì chủ tâm định ngủ một giờ rồi tỉnh dậy, như thường xảy ra, mà vì có tiếng lóc bóc kỳ lạ ngay dưới tai tôi, không rõ là tiếng gì. Tôi ngóc đầu lên...
Cái gì kỳ lạ thế? Tôi vẫn nằm trong xe như trước, nhưng xung quanh xe, chỉ cách thành xe chừng nửa arsin, mặt nước sáng như gương, chói ngời ánh trăng, vỡ hành từng mảng và rung rinh dưới những làn gợn lăn tăn nhưng rõ nét. Tôi nhìn về phía trước: trên ghế xà ích, Filôfây ngồi cúi đầu, khom lưng, nom như pho tượng. Xa chút nữa, trên mặt nước róc rách, nổi lên cái đường vòng cung thắng ngựa và mấy cái đầu ngựa, lưng ngựa. Và tất cả đều không nhúc nhích, không tiếng động, như trong xứ sở thần kỳ, như trong chiêm bao, trong giấc chiêm bao của chuyện cổ tích... Cái gì khó hiểu thế? Tôi nhìn về phía sau, qua mé dưới cái thanh ngang ở xe ngựa... Chúng tôi đang ở giữa sông... bờ cách chúng tôi ba chục bước!
- Filôfây! - tôi gọi.
- Gì đấy? - Anh ta đáp.
- Còn gì nữa? Chúng ta ở đâu đây? Nói đi!
- Ở giữa sông.
- Cái đó thì tôi thấy rồi. Nhưng cứ kiểu này thì chúng ta sắp chết chìm đến nơi rồi. Anh vẫn cho xe qua sông bằng cách này à? Thế nào? Anh ngủ đấy phỏng, Filôfây! Trả lời đi!
- Tôi nhầm một chút ạ - người đánh xe của tôi thốt lên - của đáng tội, tôi đi chệch đường, còn bây giờ thì phải chờ thôi.
- Phải chờ là thế nào? Chờ cái gì kia chứ?
- Thế này này: để cho con ngựa xồm nhìn quanh một lúc, nó quay về hướng nào thì phải cho xe đi về hướng ấy.
Tôi nhổm dậy trên đám cỏ khô. Đầu con ngựa giữa vẫn không động đậy. Dưới ánh trăng sáng tỏ, chỉ thấy một tai nó hơi động đậy, khi thì ngả về phía sau, khi thì đưa về phía trước.
- Nó cũng đang ngủ đấy thôi, con ngựa xồm của anh ấy!
- Không phải đâu - Filôfây đáp - Bây giở nó đang ngửi nước.
Tất cả lại im ắng, chỉ có nước vẫn khẽ róc rách như trước. Tôi sững sờ cả người.
Đêm trăng, dòng sông, và chúng tôi ở giữa sông.
- Có tiếng rít gì thế nhỉ? - tôi hỏi Filôfây.
- Tiếng rít ấy à? Lũ vịt con trong đám cói, - hoặc là rắn.
Bỗng nhiên, đầu con ngựa giữa lúc lắc, hai tai nó dỏng lên, nó thở phì phì, bắt đầu ngọ nguậy.
- Nô nô nô nô ô? - Filôfây đột nhiên gào toáng lên, hơi nhổm dậy và vung roi. Chiếc xe lập tức rời chỗ, băng về phía trước, cắt ngang một con sông, và bắt đầu lăn bánh, nẩy chồm chồm và lắc lư... Thoạt tiên tôi tưởng chừng như chúng tôi đang chìm, đang đi xuống chỗ sâu, nhưng sau hai ba lần xóc và ngụp lội, mặt nước bất ngờ hạ thấp xuống...rồi mỗi lúc một thấp hơn, xe nhô dần ra khỏi mặt nước, bánh xe và đuôi ngựa đã hiện ra, và kia, dưới ánh trăng bàng bạc, những luồng nước lớn bắn vọt lên, toé về mọi phía như những chùm ánh sáng kim cương, - không, không phải ánh sáng kim cương - mà là ánh sáng ngọc xanh, mấy con ngựa vui vẻ hiệp lực đưa chúng tôi lên bờ cát và đi lên con đường dốc, những chiếc chân ướt, bóng láng thi nhau bước thật nhanh.
"Bây giờ Filôfây sẽ nói gì đây? - tôi thoáng nghĩ - chắc anh ta sẽ nói: tôi nói đúng mà! Hay một câu gì đại loại như thế chăng?" Nhưng anh ta chẳng nói gì. Bởi vậy, tôi thấy không cần phải trách anh ta thiếu thận trọng, và tôi ngả mình xuống cỏ khô, thử chợp đi một lát.
Nhưng tôi không ngủ được, chẳng phải vì tôi không mệt sau chuyến đi săn, chẳng phải vì mối lo sợ vừa qua đã xua tan cơn buồn ngủ của tôi, mà vì chúng tôi đi qua những chốn rất đẹp. Đấy là những đồng cỏ bao la, quang đãng, trũng thấp, với vô số hồ nhỏ, suối con, vũng nước có những cây liễu rũ lá ven bờ. Đây đúng là phong cảnh Nga, nơi người Nga ưa thích, giống như những vùng mà các tráng sĩ trong những bài anh hùng cả cổ xưa của chúng ta vẫn đến để bắn thiên nga trắng và vịt xám. Con đường lớn mòn nhẵn lượn ngoằn ngoèo như một dải lụa màu vàng nhạt, ngựa chạy nhẹ nhàng, và tôi không thể nhắm mắt ngủ, tôi mê thích ngắm cảnh đẹp! Mọi vật lướt trôi êm ả và nhịp nhàng dưới ánh trăng. Cả Filôfây cũng xúc động.
- Vùng này chúng tôi gọi là đồng cỏ Xviatôêgô- riepxki - anh ta nói với tôi - tiếp sau đó là đồng cỏ Vêlikô-kniajexki. Khắp nước Nga không có đồng cỏ nào như thế... Đẹp tuyệt trần! - Con ngựa giữa phì một tiếng và lắc mình - ơ, cái con này! - Filôfây khẽ thốt lên, vẻ trang nghiêm. - Đẹp tuyệt trần! - anh ta nhắc lại và thở dài, rồi buột ra một tiếng kêu ề à. - Vụ cắt cỏ sắp hết rồi, và người ta sẽ cắt chính thứ cỏ này, thật là tai hại! Còn trong các vụng nhỏ cũng nhiều cá. Cá vền ở đây thực không chê vào đâu được! - anh ta nói thêm, giọng ngân nga như hát. - Tóm lại là: không có điều gì khiến ta chán sống.
Anh ta bỗng giơ một tay lên.
- Úi chà? Xem kìa! phía trên mặt hồ... có phải một con diệc đang đậu không nhỉ? Ôi! cái cành cây, không phải con diệc. Tôi nhầm lẫn! Ánh trăng đánh lừa mắt tôi.
Chúng tôi cứ đi như thế khá lâu. Nhưng kìa, đồng cỏ sắp hết, đã thấy hiện ra những khoảnh rừng, những cánh đồng đã cầy. Một ngôi làng nhỏ ở phía bên nhấp nháy hai ba đốm lửa: chỉ còn năm dặm nữa là đến đường lớn. Tôi ngủ thiếp đi.
Một lần nữa, tôi thức giấc, lại không phải là tự tôi tỉnh dậy. Lần này, tiếng nói của Filôfây đánh thức tôi.
- Ông ạ... thưa ông?
Tôi nhổm dậy. Xe đỗ ở một chỗ bằng phẳng, chính giữa con đường lớn. Filôfây ngồi trên ghế xà ích, quay mặt về phía tôi, mở to mắt (thậm chí tôi ngạc nhiên, tôi không tưởng tượng được là mắt anh ta to đến thế). Anh ta thì thào với vẻ quan trọng và bí mật:
- Lọc cọc!... Lọc cọc!...
- Anh nói gì thế?
- Tôi nói là: có tiếng lọc cọc! Ông hãy khom mình xuống và nghe xem. Ông có nghe thấy không ạ?
Tôi thò đầu ra khỏi xe, nín thở, và quả thực có nghe thấy ở nơi nào xa lắm phía sau xe chúng tôi có tiếng lọc cọc yếu ớt, dội lên từng lúc, dường như tiếng bánh xe lăn.
- Ông nghe thấy không ạ?
- Có - tôi đáp - có chiếc xe nào đang đi.
- Nhưng ông chưa nghe rõ đâu... ông nghe kỹ nữa đi! Đấy... tiếng nhạc ngựa... và tiếng huýt sáo nữa...ông nghe thấy không? ông bỏ mũ ra...thì sẽ nghe rõ hơn.
Tôi không bỏ mũ, nhưng lắng tai nghe.
- Ừ, đúng... có lẽ. Nhưng vậy thì sao kia chứ?
Filôfây quay mặt về phía những con ngựa.
- Một chiếc xe tải đang đi... xe không chở đồ, bánh bọc sắt, - anh ta nói và nâng dây cương lên. - Thưa ông, đấy là xe bọn cướp; ở vùng gần Tula này chúng hoành hành... ghê gớm lắm.
- Nhảm nhí! Tại sao anh cho rằng đấy nhất định là bọn cướp?
- Tôi nói không sai đâu. Có nhạc ngựa... và xe tải không chở đồ...còn là ai được nữa?
- Vậy thì làm thế nào, từ đây đến Tula còn xa không?
- Còn mười lăm dặm nữa, và ở đây chẳng có nhà cửa gì cả.
- Thế thì đi nhanh lên, còn lần chần gì nữa.
Filôfây vung roi, và xe lại lăn bánh.
Tôi không tin Filôfây, nhưng không ngủ được nữa. Nếu thật như vậy thì sao? Tôi cảm thấy bứt rứt trong lòng. Tôi ngồi lên trong xe, - cho đến lúc này tôi vẫn nằm, - và bắt đầu nhìn xung quanh.
Trong lúc tôi ngủ, sương mù đã giăng ra một lớp mỏng, không phải trên mặt đất, mà trên trời. Tấm màn sương mù giăng cao, trăng lơ lửng trong sương như một vệt trắng, như bị khối bao phủ. Mọi vật đều mờ đi và nhoà lẫn vào nhau, tuy ở phía dưới thì trông rõ hơn. Xung quanh bằng phẳng, u sầu; cánh đồng, toàn cánh đồng, rải rác đây đó mấy bụi cây nhỏ, mấy cái khe, đồng ruộng phần lớn là ruộng hoá, cỏ dại mọc thưa thớt. Quạnh quẽ...
không sinh khí! Giá như có con chim cun cút cất tiếng kêu ở đâu đó! Chúng tôi đi chừng nửa giờ. Filôfây chốc chốc lại vung roi và bập môi, nhưng anh ta cũng như tôi không ai thốt lên một lời nào. Xe chúng tôi lên một khoảng đất cao... Filôfây dừng ngựa lại và lập tức thốt lên:
- Lọc cọc... có tiếng lọc cọc, thưa ông!
Tôi lại thò đầu ra khỏi xe. Nhưng lẽ ra tôi có thể cứ ở dưới mái che: bây giờ, tiếng bánh xe lọc cọc, tiếng người huýt sáo, tiếng nhạc ngựa, và thậm chí cả tiếng vó ngựa vang đến tai tôi hết sức rõ, tôi tưởng như nghe thấy cả tiếng hát cười. Thực ra, gió thổi từ phía ấy lại, nhưng không còn nghi ngờ gì nữa, những người không quen biết trên chiếc xe lạ cách chúng tôi đến một dặm, mà cũng có thể là hai dặm, đang đến gần chúng tôi. Tôi với Filôfây nhìn nhau. Anh ta chỉ đẩy dịch mũ từ phía sau gáy ra trước trán và lập tức khom mình xuống gần dây cương, bắt đầu quất ngựa.
Mấy cọn ngựa phi nước đại, nhưng không thể phi nước đại lâu được và lại chạy nước kiệu. Filôfây tiếp tục quất ngựa. Cần phải tránh đi!
Tôi không thể hiểu rõ được rằng tại sao lúc đầu tôi không tán thành những mối nghi ngờ của Filôfây, vậy mà lần này bỗng nhiên tôi tin chắc rằng xe bám sau chúng tôi đúng là xe của bọn gian...Tôi không nghe thấy gì mới: vẫn tiếng nhạc ngựa ấy, vẫn tiếng lộc cộc ấy của chiếc xe không chở đồ, vẫn tiếng huýt sáo ấy, vẫn tiếng huyên náo mơ hồ ấy... Nhưng bây giờ, tôi không còn nghi ngờ gì nữa. Filôfây không thể lầm được!
Lại hai mươi phút nữa trôi qua... Trong hai mươi phút cuối cùng này, qua tiếng lọc cọc và ầm ầm của xe mình, chúng tôi đã nghe thấy cả tiếng lọc cọc và ầm ầm khác...
- Dừng lại, Filôfây. - Tôi nói - Đằng nào cũng đi đứt rồi!
Filôfây thốt lên một tiếng kêu sợ sệt. Ngựa lập tức dừng lại, như mừng rỡ vì có dịp nghỉ ngơi.
Cha mẹ ôi! Tiếng lục lạc đúng là gào lên ngay sau lưng chúng tôi, xe nảy ầm ầm, tiếng người huýt sáo reo hò và hát, ngựa thở phì phì và nện móng xuống đất...
Chúng đã đuổi kịp rồi!
- Chết ch-a-a! - Filôfây khẽ thốt lên một cách ngập ngừng, tặc lưỡi với vẻ lưỡng lự và bắt đầu giục ngựa. Nhưng đúng lúc đó, dường như bỗng có cái gì đổ sầm một tiếng, và chiếc xe tải cực to, khạng nạng, thắng ba con ngựa gày nhom đột ngột vượt qua xe chúng tôi như cơn lốc, phóng lên phía trước và lập tức chuyển sang nước đi bước một, chắn ngang đường.
- Đúng là cung cách của bọn cướp - Filôfây thì thầm.
Thú thật là tim tôi lạnh đi... Tôi bắt đầu căng mắt nhìn trong ánh trăng mờ hơi sương. Trong chiếc xe đi trước chúng tôi, có sáu người nằm không ra nằm, ngồi không ra ngồi, mặc áo sơ mi và áo armiak phanh ngực; có hai tên đầu không đội mũ, những cẳng chân to tướng đi ủng thõng qua thành xe, đung đưa những cánh tay giơ lên, rơi xuống không có chủ định gì cả... Những thân hình lắc lư...
Rõ rành rành: đây là bọn say rượu. Có những tên gào lên, không ra đâu vào đâu cả; một tên huýt sáo tiếng rất cao và trong, tên khác chửi tục. Trên ghế ngồi đánh xe có một tên cao lớn khổng lồ mặc chiếc áo khoác ngắn bằng da lông thú, chính y điều khiển ngựa. Chúng cho ngựa đi bước một, dường như không thèm để ý gì đến chúng tôi.
Làm gì bây giờ? Chúng tôi cũng cho ngựa đi bước một theo sau chúng...cực chẳng đã.
Chúng tôi đi như thế chừng một phần tư dặm.
Sự chờ đợi khổ ải... Chạy trốn, tự vệ... chuyện hão huyền! Chúng sáu người, còn tôi thì chẳng có lấy một cái gậy trong tay! Quay xe trở lại phía sau chăng? Nhưng chúng sẽ đuổi kịp tức khắc. Tôi nhớ đến câu thơ của Jukôpxki (câu thơ ông nói về việc giết nguyên soái Kamenxki):
Cái rìu hèn mạt của tên cướp...
Nếu không thì thắt nghẹt cổ bằng sợi thừng...
và quẳng xuống rãnh...
ngươi cứ việc thở khò khè và giẫy giụa như con thỏ sa bẫy...
Ôi chao, thật là tệ hại!
Còn chúng vẫn cho xe đi thong thả như trước và không để ý đến chúng tôi.
- Filôfây - tôi thì thầm - anh hãy thử cho xe đi chếch về mé bên phải, làm như định vượt lên xem sao.
Filôfây thử cho xe đi về mé bên phải... nhưng bọn kia lập tức cho xe đi sang bên phải... không thể vượt qua được.
Filôfây thử lần nữa: cho xe sang trái... Nhưng lần này chúng cũng không để cho anh ta vượt lên.
Thậm chí chúng còn bật cười. Vậy là chúng không để chúng tôi đi thoát.
- Đúng là bọn cướp. - Filôfây ngoảnh lại, thì thào với tôi.
Nhưng chúng còn chờ đợi gì mới được chứ? - Toi cũng thì thầm hỏi.
- Ở đằng sau, phía trước mặt, trong cái lũng nhỏ, có chiếc cầu con bắc qua suối... Chúng chờ ta ở đấy! Bao giờ chúng cũng làm thế... ở gần cầu. Anh ta nói thêm kèm theo tiếng thở dài - chắc chúng chẳng để cho ta sống đâu; vì đối với chúng, cần nhất là xoá sạch dấu vết. Thưa ông, tôi chỉ tiếc một điều: mất ba con ngựa của tôi thì các em tôi sẽ không có ngựa.
Lúc ấy, lẽ ra tôi phải ngạc nhiên về việc tại sao trong giờ phút như vậy mà Filôfây còn có thể lo đến mấy con ngựa của mình, nhưng thú thực là chính tôi cùng không bụng dạ nào nghĩ tới anh ta... "Chẳng lẽ chúng sẽ giết sao? - tôi nghĩ thầm - Vì cớ gì? Ta sẽ nộp cho chúng tất cả những gì ta có kia mà?" Cây cầu vẫn mỗi lúc một gần, mỗi lúc càng nhìn thấy rõ hơn.
Bỗng nhiên, một tiếng hò ngựa giật giọng vang lên, chiếc xe ba ngựa đi trước chúng tôi như lồng lên, phóng như bay, và tới cầu, nó dừng phắt lại như bị chôn xuống đất ở mé bên đường. Tim tôi rơi đâu mất.
- Ôi, chú em Filôfây ơi - Tôi nói - Tôi và chú đang đi đến chỗ chết. Thứ lỗi cho tôi, nếu vì tôi mà chú phải mất mạng.
- Thưa ông, ông có lỗi gì? Không ai tránh khỏi số mệnh của mình! Nào, chú xồm, chú ngựa thân yêu trung thành của ta - Filôfây nói với con ngựa giữa - tiến lên, chú em. Hãy giúp ta lần chót! Đằng nào cũng thế thôi... Cầu Chúa ban phước lành!
Anh ta cho ngựa đi nước kiệu.
Chúng tôi đến gần cầu, đến gần chiếc xe bất động đáng sợ ấy... Như cố tình trêu ngươi, cả xe đều im bặt. Không một tiếng động! Con cá măng, con diều hâu, bất cứ con thú ăn thịt nào thường cũng im tiếng như thế khi con mồi đến gần. Chúng tôi đã lên ngang chiếc xe kia... bỗng nhiên, gã khổng lồ mặc áo khoác ngắn lông thú nhảy xuống, và đi thẳng đến xe chúng tôi!
Gã không nói gì với Filôfây, nhưng Filôfây tự ý ghìm dây cương...Xe chúng tôi dừng lại.
Người khổng lồ đặt hai tay lên cửa xe, cúi cái đầu bù xù về phía trước toác miệng cười, nói khẽ, giọng đều đều, lối nói có vẻ đâu thợ thuyền:
- Thưa quý ngài, chúng tôi vừa dự bữa tiệc cưới lương thiện về; có nghĩa là chúng tôi đã cưới vợ cho một anh bạn trẻ cừ khôi của chúng tôi. Chúng tôi đã đưa anh ta đi nằm. Anh em chúng tôi đây đều còn trẻ, toàn những tay can trường cả. Chúng tôi đã uống nhiều rượu, cần phải làm vài hớp nữa cho giã hơi men, nhưng chẳng có xu nào dính túi. Ông có sẵn lòng đãi anh em chúng tôi ít tiền không ạ? Chút xíu thôi, sao cho mỗi anh em được nửa chai thôi mà. Chúng tôi sẽ uống mừng sức khỏe ông, chúng tôi sẽ nhớ đến ông. Nhưng nếu ông không sẵn lòng gia ơn cho chúng tôi thì xin ông đừng giận? "Thế là thế nào? - tôi nghĩ...- Giễu cợt sao?...Nhạo báng ư?".
Gã khổng lồ vẫn đứng cúi đầu. Đúng lúc ấy, trăng ló ra khỏi sương mù và soi rõ mặt y. Khuôn mặt ấy mỉm cười tinh quái bằng mắt và bằng môi. Nhưng không lộ vẻ hăm doạ... Có điều là toàn bộ khuôn mặt ấy dường như rất chú ý dò xét động tĩnh... răng trắng bóng và to...
- Tôi rất vui lòng...ông cầm lấy cho...- tôi vội nói và móc ví trong túi, lấy ra hai rúp bạc; hồi ấy tiền bạc vẫn còn lưu hành ở Nga - ông cầm lấy này, nếu như ngần ấy đủ dùng.
- Xin đa tạ! - Gã khổng lồ gào lên theo kiểu con nhà lính, và những ngón tay to mập của gã giật phăng lấy số tiền trong tay tôi - Xin đa tạ! - Gã lắc mạnh mái tóc, rồi chạy về xe.
- Anh em ơi! - gã gào lên - ông khách qua đường đãi anh em ta hai rúp.
Cả bọn bỗng cười rộ lên...Gã khổng lồ nhảy đại lên ghế đánh xe...
- Ở lại may mắn nhé?
Và chúng tôi không kịp nhìn rõ chúng nữa!
Ngựa của chúng nhất loạt cất vó, xe ầm ầm chạy lên dốc, thoáng hiện lần nữa trên cái vạch tối thẫm ngăn cách đất và trời, rồi nhào qua cái vạch ấy và biến mất.
Không còn nghe thấy tiếng lọc cọc, tiếng la hét và tiếng nhạc ngựa nữa...Xung quanh lặng phắc như tờ.
Tôi và Filôfây không hoàn hồn ngay được.
- A, thằng cha hay bông lơn! - Cuối cùng anh ta thốt lên và bỏ mũ, bắt đầu làm dấu chữ thập - Đúng là tay này thích trêu đùa! - Anh ta nói thêm và quay về phía tôi, rất vui sướng - chắn hẳn y là người tốt, đúng thế. Nào nào nào, các chú nghẽo, mau chân lên! Chúng mày sẽ được bình yên! Tất cả chúng ta sẽ được bình yên. Ban nãy chính gã cố ý không cho xe ta đi, gã điều khiển ngựa mà. Thằng cha đến là tinh nghịch. Nô nô nô nô ô? Vạn sự may mắn!
Tôi lặng thinh, nhưng trong lòng cũng mừng rỡ. "Chúng ta được bình yên - tôi tự nhủ và nằm dài trên đám cỏ khô, thoát nạn mà chỉ phải trả một giá rẻ!".
Thậm chí tôi hơi xấu hổ vì đã nhớ đến câu thơ của Jukôpxki.
Một ý nghĩ bỗng nẩy ra trong óc tôi.
- Filôfây?
- Sao ạ?
- Anh có vợ chưa?
- Có rồi ạ.
- Có con chứ?
- Có - Vậy sao anh không nhớ đến vợ con? Anh tiếc mấy con ngựa, thế còn vợ con thì sao?
- Việc gì phải thương họ? Có lẽ họ sẽ không sa vào tay bọn ăn cắp đâu mà lo. Nhưng tôi vẫn luôn luôn nhớ đến vợ con, ngay bây giờ cũng thế...vậy đấy - Filôfây im lặng một lát - Có lẽ... chính vì họ mà Chúa đã ban ơn cho chúng ta.
- Nhưng nếu bọn kia không phải là cướp thì sao?
- Làm sao mà biết được? Ta có len vào tâm hồn kẻ khác được đâu? Ai biết đâu được lòng dạ cọn người. Còn ở với Chúa thì bao giờ cũng tốt hơn. Không...bao giờ tôi cũng nghĩ đến gia đình tôi...Nô nô nô, các chú nghẽo, vạn sự may mắn?
Chúng tôi đến gần Tula thì trời sắp rạng đông.
Tôi nằm thiu thiu ngủ.
- Thưa ông - Filôfây bỗng nói với tôi - ông xem kìa; chúng dừng lại ở quán rượu... xe của chúng kia kìa.
Tôi ngẩng đầu lên... đúng, bọn chúng: xe vẫn là xe ấy, ngựa cũng thế. Gã khổng lồ quen biết mặc áo khoác ngắn lông thú chợt xuất hiện trên ngưỡng cửa quán rượu.
- "Chào ông" - Gã vừa kêu lên vừa vẫy mũ - chúng tôi đang uống rượu bằng tiền của ông đấy! - Thế nào, anh đánh xe - gã hất đầu về phía Filôfây, nói thêm - có lẽ anh này sợ phải không?
- Con người vui tính quá đi thôi - Sau khi đã cho xe lùi xa quán rượu chừng hai chục xagien , Filôfây nói.
Cuối cùng, chúng tôi đến Tula. Tôi mua chì và tiện thể mua luôn cả chè và rượu, thậm chí mua cả ngựa của người lái ngựa quen biết. Chúng tôi lên đường trở về lúc giữa trưa. Filôfây đã làm chút rượu ở Tula nên đâm ra rất lắm lời, thậm chí còn kể chuyện cổ tích cho tôi nghe. Khi đi qua chỗ anh lần đầu tiên chúng tôi nghe thấy bánh xe lọc cọc, Filôfây bỗng bật cười.
- Thưa ông, ông có nhớ tôi cứ luôn mồm nói với ông: có tiếng lọc cọc...lọc cọc...lọc cọc!
Anh ta vung mạnh tay mấy lần... Anh ta cảm thấy tiếng đó rất buồn cười.
Ngay chiều hôm ấy, chúng tôi về đến làng của Filôfây. Tôi kể với Ermôlai câu chuyện đã xảy ra với chúng tôi. Lúc này không say rượu, anh ta không hề biểu lộ một chút thông cảm nào và chỉ ư hữ, không biết là tán thành hay chê trách, và tôi cho rằng bản thân anh ta cũng không hiểu rõ điều đó. Nhưng hai ngày sau, anh ta khoái trá báo cho tôi biết rằng chính cái đêm chúng tôi đi Tula, cũng trên con đường cái lớn ấy, một thương nhân đã bị bọn cướp giết chết và lấy hết của. Thoạt tiên tôi không tin câu chuyện ấy. Nhưng sau tôi phải tin: bằng chứng là tôi đã thấy một viên cảnh sát phóng ngựa đi điều tra. Phải chăng những gã trai ngang tàng của chúng tôi đã đi dự "đám cưới" ấy về, phải chăng thương nhân ấy chính là "anh bạn trẻ" mà họ đã đưa đi nằm, nói theo lời gã cao lớn hay bông lơn nọ?
Tôi ở làng của Filôfây năm ngày nữa. Hễ gặp anh ta là tôi bảo: "Thế nào? Có tiếng lọc cọc hả?".
- Một con người vui tính - Lần nào anh ta cũng trả lời tôi như thế và bật cười.