← Quay lại trang sách

DAY

Không phải tôi chưa từng ở riêng với con gái. Nụ hôn đầu tiên của tôi là năm mười hai tuổi, khi tôi khóa môi với một cô gái mười sáu tuổi, để đổi lại cô sẽ không tố cáo tôi với tuần cảnh. Tôi đã vui vẻ với vài cô gái ở các khu nhà ổ chuột và vài cô ở khu nhà giàu, thậm chí còn có một cô ở khu vực đá quý, học sinh lớp chín, người mà tôi từng có vài ngày lãng mạn khi mười bốn tuổi. Cô khá dễ thương, mái tóc tém màu nâu sáng và làn da màu ô liu không tì vết, mỗi buổi chiều chúng tôi thường lẻn đi tầng hầm của trường cô và, có lẽ là, vui vẻ một chút. Chuyện khá dài.

Nhưng... June.

Tim tôi bị xé toạc, đúng như những gì tôi đã sợ, và tôi không thể tự mình đóng nó lại. Mọi rào chắn tôi đã dựng lên thành công xung quanh mình, mọi kháng cự để vùi lấp tình cảm tôi dành cho cô, giờ đã hoàn toàn tan biến. Vỡ vụn. Trong ánh đèn xanh mờ ảo của màn đêm, tôi đưa tay vuốt dọc theo đường cong mềm mại của cơ thể June. Hơi thở tôi vẫn còn nông. Tôi không muốn là người nói trước. Ngực tôi áp nhẹ vào lưng cô và tay thả lỏng đặt trên eo; mái tóc cô phủ lên cổ một lớp đen óng. Tôi vùi mặt vào làn da mềm mại của cô. Hàng triệu ý nghĩ ngập tràn trong đầu tôi, nhưng giống như cô, tôi vẫn im lặng.

Đơn giản vì không có gì để nói.

Tôi giật mình thức giấc, thở hổn hển. Tôi gần như không thể thở, ngực tôi phập phồng để hít không khí vào trong. Tôi hoảng loạn nhìn quanh. Tôi đang ở đâu?

Tôi đang nằm trên giường của June.

Đó là một cơn ác mộng, chỉ là cơn ác mộng thôi, ngõ ngách, phố phường của khu Lake và máu đều biến mất. Tôi nằm đó một lát, lặng lẽ cố gắng ổn định hơi thở, làm chậm nhịp tim. Toàn thân tôi ướt sũng mồ hôi. Tôi liếc qua June, cô đang nằm nghiêng người, quay mặt về phía tôi, cơ thể vẫn nhấp nhô nhẹ, theo nhịp ổn định. Tốt. Tôi không muốn đánh thức cô. Tôi vội lấy bàn tay không bị thương lau nước mắt trên mặt. Rồi tôi nằm đó vài phút, vẫn run rẩy. Khi chắc chắn mình không thể ngủ lại, tôi từ từ ngồi dậy trên giường và gập người đến khi khuỷu tay chạm đầu gối. Tôi cúi đầu xuống. Lông mi cọ vào vùng da trên cánh tay. Tôi cảm thấy rất yếu, như vừa leo xong một tòa nhà ba mươi tầng.

Đây dễ là cơn ác mộng tòi tệ nhất tôi từng gặp. Tôi còn sợ không dám chớp mắt một lúc lâu, phòng khi phải nhìn lại những hình ảnh nhảy múa dưới mí mắt. Mắt tôi lại nhòe đi; tôi bực mình quệt đi dòng nước mắt mới. Mấy giờ rồi nhỉ? Bên ngoài vẫn tối đen như mực, chỉ lác đác vài đốm sáng mờ từ màn hình khổng lồ phía xa và những ngọn đèn đường rọi vào phòng. Tôi đưa mắt nhìn June, ngắm những ánh đèn mờ điểm màu sắc trên dáng hình cô. Lần này, tôi không đưa tay chạm vào cô.

Tôi không biết mình ngồi gập người như vậy trong bao lâu, hít một hơi không khí đầy phổi sau đó lại là một lần hít thở khác đến khi hơi thở ổn định lại. Đủ lâu để mò hôi trên cả cơ thể khô đi. Mắt tôi lơ đễnh nhìn ra ban công. Tôi nhìn chằm chằm vào đó một lát, không thể quay đi, rồi rón rén trườn khỏi giường mà không gây tiếng động, khoác vội quần áo và đi giày. Tôi cột chặt tóc và đội chiếc mũ vừa khít lên đầu. June hơi trở mình. Tôi ngừng di chuyển. Đến khi cô nằm yên, tôi đã cài xong cúc áo và đi về phía cánh cửa kính ở ban công. Nơi góc giường, chú chó của June nghiêng đầu nhìn tôi tò mò. Nhưng nó không kêu. Tôi thầm nói cảm ơn rồi mở cửa ban công. Cánh cửa mở ra rồi khép lại sau lưng tôi không một tiếng động.

Tôi nặng nề nhấc người lên thành lan can ban công, ngồi vắt vẻo ở đó như một con mèo và thám thính xung quanh. Khu Ruby, một khu vực đá quý hoàn toàn khác với nơi tôi sống. Tôi trở về LA nhưng không nhận ra nó. Những con phố được sửa sang, sạch sẽ, những màn hình khổng lồ mới, sáng bóng, vỉa hè không có vết nứt hay ổ gà, không có những tuần cảnh kéo đám trẻ mồ côi khóc lóc khỏi quầy tạp hóa. Theo bản năng, tôi hướng sự chú ý về vị trí của khu Lake trong thành phố. Từ phía này tòa nhà, tôi không thể nhìn thấy trung tâm thành phố LA nhưng tôi cảm thấy nó ở hướng đấy, ký ức làm tôi thức tỉnh và thì thầm bảo tôi quay về. Chiếc nhẫn kẹp giấy nặng trĩu trên ngón tay. Một tâm trạng u ám, tồi tệ len lỏi vào đầu tôi sau cơn ác mộng đó, thứ mà tôi không thể rũ bỏ. Tôi nhảy ra ngoài ban công rồi trèo xuống gờ tường thấp hơn. Tôi lặng lẽ bước đi, từng tầng một, đến khi chân chạm vỉa hè, tôi hòa mình vào bóng đêm. Hơi thở tôi trở nên rời rạc.

Ngay cả ở đây, trong khu đá quý, giờ vẫn có những đội tuần cảnh, họ rút sẵn súng phòng khi quân Thuộc địa tấn công bất ngờ. Tôi lựa hướng đi không có họ để tránh bị tra hỏi, và quay về với thói quen cũ trên đường phố, tìm đường đi qua những mê cung ngõ hậu và bóng những tòa nhà cho đến khi tới một sân ga nơi có những chiếc xe jeep xếp hàng, đợi lên đường. Tôi lờ đi những chiếc xe jeep, tôi không có tâm trạng tán gẫu với mấy gã tài xế để rồi họ nhận ra tôi là Day và sáng hôm sau nghe những lời đồn đại khắp thành phố về bất cứ việc gì họ nghĩ rằng tôi đang làm. Thay vào đó, tôi đi thẳng vào sân ga, đợi chuyến tàu tự động đến và đưa tôi đến ga Union ở trung tâm thành phố.

Nửa giờ sau, tôi bước ra từ ga trung tâm và lặng lẽ đi qua các con phố đến gần ngôi nhà cũ của mẹ. Những vết nứt trên tất cả đường sá ở khu ổ chuột đều có ích cho một việc, đây đó tôi nhìn thấy những đóa hoa cúc biển mọc dại, những điểm màu ngọc lam, màu xanh lục nhỏ tương phản trên màu đường xám xịt. Theo bản năng, tôi cúi xuống hái lấy một nắm hoa. Loài hoa ưa thích của mẹ.

“Cậu kia. Này cậu nhóc.”

Tôi quay ra nhìn xem ai đang gọi. Thực ra, mất vài giây tôi mới nhìn thấy người đó, vì bà quá nhỏ bé. Một bà già khom lưng ngồi dựa vào tường bên hông của một tòa nhà bị đóng ván kín mít, run rấy trong không khí ban đêm. Bà gần như gập đôi người, khuôn mặt đầy những nếp nhăn và quần áo rách rưới đến mức tôi không biết đâu là đầu, đâu là đuôi, trông giống như một miếng giẻ lớn, rách nát. Bà có một chiếc ca vỡ đặt gần đôi bàn chân trần, nhưng điều thực sự làm tôi ngừng lại là đôi bàn tay quấn lớp băng dày. Giống như mẹ tôi. Khi thấy tôi chú ý, đôi mắt bà sáng lên một tia hy vọng mong manh. Tôi không chắc bà có nhận ra tôi không, và cũng không chắc mắt bà có thể nhìn rõ thế nào. “Có đồng bạc lẻ nào không chàng trai nhỏ?” Bà rên rỉ.

Tôi thọc tay tìm quanh túi rồi lôi ra một nắm tiền. Tám trăm đồng bạc cộng hòa. Không lâu trước, tôi còn mạo hiểm mạng sống để đặt tay lên số tiền này. Tôi khuỵu gối xuống bên bà cụ, rồi ấn số tiền này vào bàn tay đang run rẩy và nắm chặt đôi tay băng bó của bà.

“Bà hãy giấu đi. Đừng nói cho ai biết.” Khi bà tiếp tục nhìn tôi với đôi mắt mở to, miệng há ra kinh ngạc, tôi đứng dậy đi dọc phố. Tôi nghĩ bà có gọi nhưng tôi không buồn quay lại. Không muốn nhìn lại đôi bàn tay băng bó đấy nữa.

Vài phút sau, tôi đến ngã tư giữa phố Watson và Figueroa. Căn nhà cũ của tôi.

Đường phố không thay đổi nhiều so với tôi nhớ, nhưng lần này nhà của tôi đã bị đóng ván và bỏ hoang, giống như nhiều căn nhà khác trong khu ổ chuột. Tôi không biết liệu có kẻ vô gia cư nào trong nhà, đang nằm lì trên giường hay ngủ trên sàn bếp không. Không có ánh sáng trong nhà. Tôi vừa bước chậm về phía đó, vừa tự hỏi liệu có phải mình vẫn đang lạc trong cơn mê. Có khi tôi vẫn chưa ngủ dậy. Không còn lớp băng dính cách ly con phố nữa, không còn đội tuần tra dịch bệnh lảng vảng quanh nhà. Khi đi về hướng căn nhà, tôi nhận ra một vết máu cũ vẫn còn đó, dù đã mờ, trên mặt đường bê tông vỡ dẫn đến ngôi nhà. Bây giờ vết máu màu nâu đã mờ đi, rất khác với những gì tôi nhớ. Tôi nhìn trân trối vào vết máu, tê dại và không cảm xúc, rồi tôi bước qua bên cạnh nó, tiếp tục đi. Tay tôi giữ chặt lấy bó hoa cúc biển to vừa hái.

Khi bước đến cứa vào, tôi nhìn thấy chữ X màu đỏ quen thuộc vẫn còn đó, dù nay đã bị mờ và sứt mẻ, cùng vài tấm ván gỗ mục nát được đóng bắt chéo trên khung cửa. Tôi đứng đó một lát, rờ tay lên vệt sơn im lìm. Vài phút sau, tôi chợt tỉnh cơn mê rồi đi lang thang ra phía sau nhà. Nửa hàng rào nhà chúng tôi đã sập, để lộ khoáng sân nhỏ xíu, có thể nhìn thấy từ khu bên cạnh, cửa sau cũng có những tấm gỗ mục bắt chéo trên đó, nhưng chúng quá mục và giòn đến mức tất cả những gì tôi phải làm chỉ là tác động một lực nhỏ và chúng vỡ răng rắc thành những mảnh vụn.

Tôi phá cửa rồi bước vào trong nhà. Tôi cởi mũ khi đi vào, để tóc xõa sau lưng. Mẹ luôn dặn chúng tôi phải cởi mũ ra khi ở trong nhà.

Mắt tôi điều chỉnh trong bóng tối. Tôi bước khẽ vài bước rồi đi vào căn phòng khách nhỏ xíu. Có lẽ họ đã đóng ván kín ngôi nhà như một phần của thủ tục tiêu chuẩn, nhưng đồ đạc trong nhà chưa bị đụng chạm, chỉ khác là tất cả đều phủ một lớp bụi. Những thứ thuộc về gia đình tôi vẫn ở đây, nguyên trạng y như lần cuối tôi nhìn thấy chúng. Bức chân dung của cố Cử tri treo trên bức tường phía xa, nổi bật ở chính giữa, bàn ăn nhỏ bằng gỗ vẫn có một lớp bìa các tông dày buộc vào chân bàn để giữ cho chiếc bàn đứng được. Một chiếc ghế nằm trên sàn, như đã có người đứng dậy vội vã ở đây. Đó chính là John, giờ thì tôi nhớ rồi. Tôi nhớ lại chúng tôi đã tiến vào phòng ngủ để bế Eden đi ra sao, cố gắng đưa cậu em trai của chúng tôi đi trước khi đội tuần tra dịch bệnh đến bắt nó.

Phòng ngủ. Tôi hướng mũi giày về phía cánh cửa hẹp của phòng ngủ. Chỉ vài bước là tới nơi. Đúng rồi, mọi thứ cũng giống hệt như cũ, có thêm thì chỉ là vài tấm mạng nhện. Cái cây Eden từng mang về nhà vẫn nằm trong góc, nhưng giờ đã chết, lá và dây leo màu đen héo rũ. Tôi đứng đó một lát, nhìn đăm đăm vào nó rồi bước trở lại phòng khách. Tôi đi quanh bàn ăn. Rồi ngôi vào chiếc ghế cũ của mình. Nó vẫn kêu cọt kẹt như mọi khi.

Tôi cẩn thận đặt bó hoa cúc biển lên đầu bàn. Chiếc đèn lồng của chúng tôi nằm giữa bàn, không thắp sáng và không được dùng đến. Thông thường, lịch sinh hoạt sẽ như thế này: mỗi ngày mẹ tôi sẽ về nhà vào khoảng sáu giờ, vài tiếng sau tôi trở về từ trường tiểu học, còn anh John sẽ về nhà lúc chín hoặc mười giờ. Mẹ tôi sẽ cố trì hoãn việc thắp đèn lồng cho đến khi anh John trở về, và khi tôi cùng Eden đã quen với việc mong ngóng “ánh đèn lồng” thì cũng là lúc anh John bước qua cánh cửa. Và rồi chúng tôi ngồi vào bàn ăn tối.

Tôi không biết tại sao mình lại ngồi đây, cảm thấy niềm trông mong quen thuộc xưa cũ rằng mẹ sẽ đi từ bếp ra và thắp sáng đèn lồng. Tôi không biết tại sao mình lại cảm thấy niềm vui trong tim, nghĩ rằng John đang ở nhà, rằng bữa tối đã được dọn ra. Những thói quen xưa cũ ngớ ngẩn. Nhưng, mắt tôi vẫn mong chờ nhìn vào cửa chính. Niềm hy vọng dâng trào.

Nhưng ngọn đèn vẫn không được thắp lên. John vẫn ở ngoài kia. Mẹ không có nhà.

Tôi nặng nhọc tì tay lên bàn và dụi mắt. “Cứu con với,” Tôi thì thầm tuyệt vọng trong căn phòng trống. “Con không thể làm được điều này.” Con khao khát cô ấy, con yêu cô ấy nhưng con không thể chịu đựng được điều đó. Đã gần một năm rồi. Chuyện gì xảy ra với con đây? Tại sao con không thể sống tiếp?

Họng tôi nghẹn lại. Nước mắt cứ thế tuôn rơi. Tôi chẳng màng kìm nén vì tôi biết điều đó là không thể. Tôi nức nở không kiềm chế nổi, tôi không thể ngừng khóc, tôi không thể thở, không thể nhìn được gì. Tôi không thể nhìn thấy gia đình mình vì họ không ở đây. Không có họ, tất cả đồ đạc không là gì, những bông hoa cúc biển đặt trên bàn cũng vô nghĩa, chiếc đèn lồng cũng chỉ là mảnh rác đen sì, cũ kỹ. Những hình ảnh trong ác mộng cứ kéo dài, ám ảnh tôi. Dù cho cố gắng đến đâu, tôi cũng không thể xua chúng đi.

Thời gian làm lành vết thương. Nhưng không phải vết thương này. Vẫn chưa thể.