← Quay lại trang sách

Ba -

Quý bà Anh Quốc thả hai đồng Nữ thần Tự Do vào lòng bàn tay tôi rồi đóng sập máy tính tiền.

Những ngón tay mệt mỏi của tôi khum lại quanh đồng xu. “Cảm ơn bà. Thưa bà, bà không nghĩ lại ư?” Tôi co rúm trước nỗi tuyệt vọng trong giọng mình, nhưng tôi đã trông mong rằng, nghề làm mũ chứa đựng triển vọng rất lớn dành cho mình. Làm mũ, bạn có thể đưa ra tuyên ngôn mà chẳng cần thốt lên một tiếng. Vả lại, thợ làm mũ có thể tự trang trải cho mình mà chẳng cần cưới xin. Một cô vợ người Hoa tiêu chuẩn được kỳ vọng phải nấu nướng, sinh con trai và sẵn sàng “ngậm đắng nuốt cay”. Ngay lúc này, tôi đã có quá đủ cay đắng ấy rồi.

“Tôi sẽ làm việc chăm chỉ gấp đôi, cố không nêu nhiều ý kiến và…”

“Jo, cô hoàn toàn không có giá trị kinh tế.” Bà ta vỗ nhẹ chiếc khăn tay lau hơi ẩm trên cổ, rồi lau khoảng trống giữa hai chúng tôi, như thể muốn chùi sạch hình ảnh về tôi. Tôi nhớ tới cái từ ghê gớm bắt đầu bằng chữ G đi kèm lần sa thải trước đó của mình. Nhưng thay vì đi đi, quý bà Anh Quốc bảo, “Chúc may mắn.”

Nỗi chán chường trĩu nặng như chiếc hộp đựng đầy khuôn mũ đè lên trái tim tôi. Cằm tôi run run, nhưng tôi che khuất đi dưới vành mũ khi vội vã hướng về sân ga Thống Nhất, một công trình bằng gạch với cổng tò vò hình quạt. Về tới nhà càng sớm, tôi càng có thể mau chóng nghe trộm được bà Bell để xác định xem chuyến ghé thăm của bà có phải trùng hợp hay không.

Tuyến đường sắt Tây Phương & Đại Tây Dương là tuyến đầu tiên trong nhiều cung đường chia chiếc bánh Atlanta ra thành sáu khu. Chúng tôi sống gần trung tâm chiếc bánh. Một người đàn ông mặc đồng phục dồn cả đám đông nhốn nháo nào xe ngựa, xe kéo và khách bộ hành băng qua đoạn giao cắt đường tàu. Tôi hối hả đi qua trước khi rào chắn đóng lại. Một người phụ nữ giơ khăn tay bịt mũi rồi lùi bước tránh xa tôi, mà tôi thừa biết rằng không phải bà ta lo ngại muội than.

Chân tôi bồn chồn khi bước qua đường ray, tôi phóng tầm mắt về xứ sở của người Yankee. Phía Bắc ranh giới chia cắt Mason-Dixon*, đến cả lũ chó cũng được đến trường học cách cư xử; còn ở New York, nữ giới rất thời trang, họ thay đổi loại mũ nhiều lần một ngày. Tôi đáng lẽ có thể mở tiệm làm mũ của riêng mình ở quảng trường Madison, nếu được đào tạo tử tế.

Ranh giới chia cắt Mason-Dixon, hay đường chia cắt Mason và Dixon, được Charles Mason và Jeremiah Dixon tiến hành khảo sát vào năm 1763-1767. Về sau, tuyến đường này được ngầm coi là ranh giới chia tách miền Bắc và miền Nam Hoa Kỳ.

Xấc láo, tôi khịt mũi. Lizzie nói mười từ, tôi hiếm khi mới thốt nổi một từ, mà thế là tôi đã tán gẫu rôm rả nhất cả ngày rồi. Người Trung Quốc không thể là kẻ xấc láo, đặc biệt những ai đang cố sống kín tiếng.

“Ôi!” Rảo bước qua đường ray, tôi suýt va phải một ông cụ đang ngồi trên chiếc giỏ thưa. Ông giật mình, khiến chiếc mũ bằng giấy báo tuột khỏi mái đầu. “Cháu xin lỗi.” Tôi nhặt chiếc mũ bằng giấy báo lên, nhưng ông không hề động đậy tỏ vẻ muốn lấy lại.

“Cha, cha ổn chứ?” Một phụ nữ trẻ với làn da cháy nắng giật lấy chiếc mũ giấy báo.

Cặp mắt vàng ệch của ông lão bám riết lấy tôi như vết keo dán. Tôi đột nhiên nhận ra, từ chiếc ba lô há ngoác và móng tay bẩn thỉu của họ, hai người này có lẽ vô gia cư. Người phụ nữ uốn chiếc mũ thành nếp rồi nhẹ nhàng đặt lên đầu cha cô.

Thình lình, tôi như thấy Già Gin và chính mình trong hai người họ, túng quẫn đến mức phải ăn xin, không có nổi chiếc mũ ra hồn mà che mưa che nắng. Làm ơn đừng để đến mức ấy, tôi khẩn nài thánh thần Cơ Đốc giáo và cả tổ tiên của chúng tôi. Trời cao lạnh lùng trông xuống tôi. Chẳng như hôm qua, hoàng hôn không có lấy một vệt chuyển màu hay một áng mây mượt mà. Có đụn mây mỏng trông từa tựa cái lưỡi thè ra. Tôi cảm thấy một thôi thúc mãnh liệt xui khiến liều lĩnh chạy thẳng lên bầu trời rồi chùi sạch vẻ mặt tự mãn của nó.

Như kẻ móc túi thô tục, tôi len lỏi dọc các con ngõ, cố thu mình sao cho thật nhỏ bé và không gây chú ý. Có một lùm cây nằm cách phố One Luckie, khu xưởng in và nhà ở của gia đình bà Bell, năm mươi thước. Kiểm tra kỹ không có ai trông thấy, tôi vội bước tới giữa lùm cây, nơi tấm màn tuyết tùng Virginia nặng nề che kín cửa sập. Cánh cửa không rên một tiếng khi tôi mở ra - chúng tôi luôn bôi dầu trơn cho nó. Rồi đoạn cầu thang gồ ghề dẫn tới một trong hai đường hầm vòng tới tầng hầm phía dưới phố One Luckie.

Già Gin đang ngồi, nom tựa chú chim, bên chiếc bàn tròn, về sớm hơn thường lệ. Kế hoạch nghe trộm đành phải tạm hoãn. Dù sao thì, nhà Bell có khi đang ở trong phòng bếp ăn tối, chứ không phải trong xưởng in, nơi tôi có thể nghe trộm họ.

“Chào buổi tối, thưa cha.” Dạo này, trang phục của Già Gin đã bắt đầu dão ra, chiếc quần dài tối sẫm và áo sơ mi mà sắc màu nguyên bản khó lòng nhớ nổi. Ông vẫn kiên trì cố gắng viết những ký tự tiếng Trung cho tôi chép lại. Chúng tôi, và các chú bác quá cố, đều nói tiếng Anh; nhưng ông muốn tôi học hiểu tiếng mẹ đẻ vì người chồng mà ông hy vọng sẽ có ngày tôi kiếm được.

Đôi lông mày xơ xác của ông nhíu lại. Ngay cả với âm lượng chỉ vừa đủ nghe mà chúng tôi sử dụng dưới lòng đất này, ông vẫn có thể biết được tôi đang cáu kỉnh. Không thể chửi rủa tình cảnh bất công của mình ở mức âm lượng tương xứng càng khiến tôi thấy tệ hại hơn. Tôi rửa mặt và hai tay vào xô nước mạnh quá mức cần thiết, làm ống tay áo ướt đẫm. Sau đó, tôi ngồi phịch xuống chậu hoa úp ngược mà tôi dùng làm ghế, đầu gối đập vào bàn.

Già Gin xếp lên đĩa của tôi hai lát giăm bông, một góc phô mai, một ổ bánh vừng và một đĩa mứt đào nhỏ. Vợ Robby, Noemi, đầu bếp nhà Payne, lúc nào cũng cho Già Gin mang về nhà thêm chút đỉnh. Chúng tôi ăn uống giản đơn, tránh những thực phẩm có thể tỏa mùi hương gây nghi ngờ trong hoàn cảnh này.

“Để dành cơn giận đến mai thì tốt hơn, hử?”

Tôi thở dài. Già Gin rất biết cách nhấn van xả hơi nước. “Quý bà Anh Quốc sa thải con.”

Trong khi tôi trút cạn câu chuyện của mình, ông nhấp từng ngụm trà lúa mạch nóng hổi, xen vào giữa mỗi khoảng ngập ngừng của tôi một tiếng hử nhẹ nhàng khiến giọng tôi dịu đi và xua tan cơn phẫn nộ. Tiếng hử xuất hiện thường xuyên đến nỗi tôi quên hẳn sự hiện diện của nó. Tôi nghĩ, nó bắt nguồn từ việc dành rất nhiều thời gian với loài ngựa. “Hử?” là cách ông cho chúng biết rằng, ông coi trọng ý muốn của chúng.

“Chắc nhà máy sợi mới dành cho con,” tôi lẩm bẩm. Mấy nhà máy ấy sẽ thuê bất cứ ai sẵn sàng xe sợi hoặc cuốn chỉ hàng giờ liền. Đương nhiên, cái giá phải trả là một ngón tay, hoặc tệ hơn, cả mạng sống; đó là lý do tại sao những nơi ấy bị gọi là “lò sinh quả phụ”.

Tiếng thở hổn hển khiếp sợ của Già Gin châm ngòi một trận ho mới, làm tôi lập tức thấy hối hận vì lời mình nói. Cứ như thể ai đó tóm chặt lấy đôi vai gầy guộc của ông và đang rung lắc để tìm mấy xu lẻ. Chắc chắn là do ẩm thấp. Góc tường cũ của ông mỗi khi mưa nhiều đều mốc meo.

Tôi rảo hai bước tới “gian bếp” để xách ấm đun nước ra khỏi bếp than. Bếp này chung ống khói với lò sưởi trong xưởng in phía trên, tức là chúng tôi chỉ được dùng bếp khi người ta đốt lò sưởi. May sao, vợ người chủ xưởng in, vì mắc chứng viêm khớp, rất ưa những căn phòng ấm áp.

Tôi rót thêm trà lúa mạch. Già Gin gật đầu cảm ơn, khuôn mặt hình trái sồi của ông đỏ bừng và nhăn lại. Từng cơn co thắt khiến mái tóc bạc vốn được chải gọn gàng của ông rối bù.

“Robby nói, thêm vài khoản chi mới sẽ trị ho khá hiệu quả.”

“Khoản chi hữu hiệu nhất là thời gian.” Ông chằm chằm liếc nhìn đôi giày ống lao động xếp gọn cạnh tường, nơi chúng tôi giấu tiền. Hai chúng tôi lúc nào cũng căn cơ; nhưng dạo gần đây, Già Gin bỗng trở nên chặt chẽ như người ta đang thủ thế để chuẩn bị tung một cú đấm. Tháng trước, tôi làm mất đồng hai mươi lăm xu vì túi thủng, khiến ông chẳng thể ngủ ngon suốt một tuần. “Ta phải dành dụm cho tương lai của con.”

“Tương lai của chúng ta.” Già Gin không phải cha ruột của tôi, nhưng tôi không tưởng tượng nổi một thế giới thiếu ông bên mình. Bất kể cha mẹ tôi là ai, họ hẳn phải biết ông là người Trung Quốc độc thân đáng tin cậy nhất Atlanta này khi để tôi lại cho ông. Từng là thầy giáo ở Trung Quốc, Già Gin đã dạy tôi mọi điều ông biết. Một vài “chú bác” mà Già Gin cho phép sống cùng chúng tôi - người làm đồng, thợ đào mương và thợ đục đá - thay nhau trông chừng tôi thời còn ẵm ngửa, nhưng Già Gin mới là người trả tiền cho mẹ Robby chăm nom tôi. Cũng chỉ có Già Gin là người ở lại khi bao kẻ khác rời đi.

Ông nhấp trà, lồng ngực lại nguôi dần. “Ừ, tương lai của chúng ta.” Ông chậm chạp hít một hơi rồi đặt chén trà xuống. “Con thấy thế nào nếu lại làm việc cho nhà Payne?”

Tôi khịt mũi quá lớn, nhưng vẻ mặt ông không thay đổi. “Cha nghiêm túc đấy ư?”

Già Gin gật đầu. “Con có thể gặp Noemi hằng ngày.”

“Thế thật tốt, nhưng…”

“Con có thể cưỡi con Khoai Lang.”

Khuôn mặt đen như than của con ngựa cái hiện ra trong tâm trí tôi. Già Gin đã van nài ông Payne đừng để gã trưởng nhóm giữ ngựa, Jed Crycks, bắn nó lúc còn non, sau khi nó bị ngựa mẹ hắt hủi vì một cái chân tập tễnh. Ông Payne đồng ý, trao nó cho Già Gin và thậm chí còn để ông nuôi nó ở khu dinh thự, miễn sao Già Gin trả tiền trông giữ nó.

“Cô nàng đã lớn lên thành một con ngựa khỏe mạnh,” ông bổ sung. “Và nhanh trí, như con.”

Ngoài nỗi hổ thẹn khi bị sa thải, công việc ở dinh thự Payne chẳng có gì để chê bai cả, với cảnh trí xa hoa, thức ăn phong phú, và một bà chủ, dẫu lạnh nhạt, nhưng ít khi thiên vị. Đương nhiên, con gái bà Payne, Caroline, lại là một vấn đề hoàn toàn khác, nhưng cô ta đang đi học tại trường dạy lễ nghi cho giới thượng lưu.

Già Gin xoay xoay chiếc chén, chăm chú nhìn nước trà bên trong.

Bà Payne thực sự sẽ nhận lại tôi ư? “Trứng ung, nếu đã bị vứt đi, chẳng mấy khi được nhặt lại vào giỏ.”

Già Gin hạ ánh mắt điểm tĩnh lên ngọn đèn dầu phía trên chúng tôi, cứ như thể từng lời tôi nói đang xếp hàng sau một dòng suy tưởng khác. Sau một thoáng, ông cất tiếng, “Con không bao giờ là cái trứng ung.” Ông sụt sịt, như thể đang xác nhận lời tuyên bố của mình. Tiếng sụt sịt khơi mào một trận run rẩy trong lồng ngực ông, nhưng ông ngậm chặt miệng không cho cơn ho bật ra. Ông nhấc mình khỏi ghế đẩu, dành ra giây lát cất nó vào đúng chỗ. Thay vì chúc ngủ ngon, ông chỉ gật đầu, rồi bước từng bước kẽo kẹt về “ổ” của mình.

Vội dọn dẹp sạch sẽ xong, tôi chui qua tấm rèm cửa mà Già Gin thêu hình ngựa, chuồn về góc của mình ở bên dưới xưởng in. Khi các chú bác rời đi, ông có bảo tôi chuyển tới khu vực ít ồn ào hơn, nằm ở bên dưới nhà chính chỗ ông ở; nhưng tôi yêu cái tổ của mình, nơi tôi trải tấm thảm dày bện từ vải dạ cũ. Chưa kể đến, tôi từ chối chia lìa ống loa, thứ duy nhất để nghe trộm chuyện nhà Bell.

Sau khi tròng vào bộ váy ngủ và xỏ tất dày, tôi duỗi người lên cái bệ nhô cao làm giường. Từ lỗ hổng phía trên gối, tôi tháo cái nút bằng len cản âm thanh truyền tới đầu ống nghe chỗ mình.

Một vệt sáng từ trên truyền xuống, ánh lửa trong chiếc đèn dầu kê trên thùng thưa làm bàn đầu giường lung lay. Ba nhịp bước chân của ông Bell vọng xuống tai tôi. Dù tôi không biết số liệu toán học chính xác, nhưng Già Gin tin rằng, vùng không gian “nghe được” nằm trọn trong khu vực quanh bàn làm việc của nhà Bell, đại để là ngay chỗ tôi.

Họ dang tranh cãi. Tôi thầm cầu mong tình huống này không liên quan gì tới chuyện phát hiện ra mấy con chuột lẩn dưới tầng hầm.

“Một ngàn sáu trăm người đặt báo, trong khi tờ báo lá cải chỉ đáng đem ra làm giấy bọc cá như Trumpeter lại vọt tới ba ngàn. Đều vì tư vấn lố lăng của dì Edna đáng nguyền rủa,” ông chủ tờ báo quát ầm ầm. “Thật tệ hại.” Giọng ông chỉ có hai cấp độ: lớn tiếng và lớn tiếng hơn nữa. Tôi có thể tưởng tượng khuôn mặt bừng bừng của ông, cùng bọng mắt đỏ và ánh mắt sáng lên phẫn nộ.

Tôi thở hắt ra. Nghe được ông Bell đang lo lắng khiến tôi thấy buồn, nhưng ít nhất cũng không phải vì Già Gin và tôi.

Lượng phát hành của tờ Focus dạo này đang lao dốc, sau bài xã luận táo bạo tập trung phê phán đề xuất phân biệt đối xử trên xe điện ở Atlanta của Nathan; trong khi đó, tờ Trumpeter cùng khổ lại tăng vọt, nhờ chuyên mục tư vấn tâm sự mới tinh, chú chó chăn cừu nhà Bell, Bear, viết tắt của từ “nhẫn nại”, sủa một tiếng gâu hào hứng, đuôi nó bắt đầu vẫy mạnh. Không như hầu hết những chú chó chăn cừu khác, đuôi của Bear chưa từng bị cắt ngắn. Tôi thích tưởng tượng rằng, Đức Chúa vĩ đại đã gắn nhịp đập trái tim vào đuôi nó và muốn nó bảo toàn nguyên vẹn.

“Chúng ta nên bổ sung nhiều hình ảnh,” Nathan lên tiếng, phát âm từ cuối cùng là ảnhhh. Khác với cha mẹ đều đến từ Tân Anh, nhiều từ anh nói thường bị kéo dài ra một chút. Già Gin bảo, ngữ điệu Georgia kiểu ấy cũng ảnh hưởng tới tôi. “Tờ Trumpeter có ít nhất hai hình mỗi trang.”

“Lãng phí không gian. Tranh ảnh chỉ dành cho con nít.”

Căn phòng chìm vào im lặng. Đến cả đuôi con Bear cũng ngừng vẫy. Tôi gần như có thể cảm nhận được nhiệt độ cơ thể Nathan đang dâng cao, và trái tim tôi đồng cảm với anh. Nathan là người bạn lâu năm nhất của tôi, dù anh không hề biết điều ấy. Chúng tôi có nhiều điểm chung, như đam mê ăn lạc (Nathan gọi là đậu phộng), chán ghét cải củ Turnip và khao khát được lắng nghe.

Tiếng gỗ cọ sột soạt vào nền nhà, có lẽ Nathan vừa thả mình xuống ghế làm việc. Tôi tưởng tượng cảnh anh đang phác họa nỗi thất vọng của mình thành một trong nhiều bức biếm họa chính trị, những tấm hình dễ dàng được đăng trên tạp chí Puck.

“Bài viết của con về nấm cây mại châu đến đâu rồi?” Ông Bell hỏi oang oang. “Người ta muốn biết tại sao cây của họ lại còi cọc.”

“Con đang chờ nó ăn sâu vào người con,” Nathan làu bàu. Nếu một ngày nào đó lấy chồng, tôi hy vọng người ấy cũng hài hước và nhanh trí, như Nathan, trừ tính cau có của anh.

“Nếu đúng là thứ ký sinh mà cha truy tìm,” anh bổ sung, “để con viết bài vạch trần Billy Riggs. Tờ Constitution quá hèn nhát đến nỗi không viết nổi một bài báo chân thực.”

Tờ Constitution gọi Billy là “chuyên gia tin tức hiện trường”, nhưng nhà Bell tin rằng, Billy buôn bán những bí mật đen tối. Năm ngoái, người thừa kế một gia tài rượu whiskey ngô đã treo cổ tự tử sau khi bị một đối thủ bóc trần việc anh ta thích quan hệ đồng giới. Nhà Bell hoài nghi tin tức này do chính Billy Riggs mua đi rồi bán lại.

Ông Bell xì thật to. “Cái kết có lẽ cận kề rồi, nhưng tôi sẽ không để bị tổn hại khi đánh liều với vụ bê bối ấy đâu!”

“Đúng, đúng,” bà Bell dịu giọng. Tai tôi vểnh lên. Đôi khi, thật khó khẳng định bà có ở trong phòng hay không, vì bà bước nhẹ như muỗi. “Nào, nếu ông lỡ chuyến tàu sớm mới thật là bê bối đấy. Giờ nên đi ngủ thôi.”

Ông Bell mùa xuân nào cũng lên đường tới New York để gặp mặt các nhà tài trợ của tờ Focus. Tiếng bước chân nối tiếp giọng làu bàu khi ông chủ tờ báo rời đi.

Nghe trộm đúng là một thói quen hèn hạ. Nhưng tôi đã nghe trộm nhà Bell kể từ khi biết nghe, mà tôi không chắc bây giờ mình có thể sửa được. Từng lời của họ giúp tôi khuây khỏa trong biết bao đêm cô độc, và khiến tôi cảm thấy mình là một phần trong gia đình. Những người theo chủ nghĩa bãi nô xây dựng nên nơi này đã khéo léo ngụy trang đầu ống loa tầng trên sao cho giống lỗ thông hơi. Nhưng họ chẳng bao giờ ngờ được có người như tôi sẽ nghe trộm. Ai mà đoán được rằng, khi dân nô lệ được tự do, người Trung Hoa sẽ theo tàu tới, không chỉ thay thế họ làm việc ở đồn điền, mà còn giúp tái thiết miền Nam cơ chứ?

Cây chổi loẹt quẹt trên sàn nhà khi bà Bell tiến hành cuộc chiến chống lại muội than hằng đêm. Tôi hình dung ra cảnh bó sợi rơm ấy luồn xuống gầm bàn làm việc, máy ép đạp chân và hộp đựng chữ in. Con Bear vừa đuổi theo cái chổi, vừa sủa vang.

“Để con làm cho.”

“Mẹ thích quét dọn. Thôi nào, cứ chiều lòng cha con đi. Nếu ở New York không được suôn sẻ, thì chúng ta viết gì cũng chẳng là vấn đề nữa rồi.”

“Mẹ nói ‘nếu không được suôn sẻ’ là sao?”

Tôi nín thở, ngón tay xoắn vào váy ngủ bằng dạ.

“Đa phần các nhà tài trợ ở miền Bắc của chúng ta đã ngừng tài trợ cho một tờ báo dưới này. Nếu tới tháng Tư mà không lên được hai ngàn người đặt báo, thì chúng ta xong đời.”

“Nhưng chỉ còn bốn tuần nữa là tới tháng Tư. Mỗi tuần chúng ta cần tới một trăm người đặt mua mới. Bất khả thi.”

“Có lẽ đã tới lúc nhà mình chuyển tới chỗ dì Susannah…”

“Chúng ta đâu phải nông dân trồng cỏ linh lăng. Con thậm chí còn chẳng thích cỏ linh lăng. Chỉ là trò chơi chữ thôi mà. Sắp xếp lại chữ cái và thế là a-la-la.* Mấy nhà tài trợ ấy phải cho chúng ta thêm thời gian.”

Tác giả chơi chữ “alfalfa” (cỏ linh lăng) và “a-laf-laf” (a-la-la).

Tôi ngọ nguậy cái lỗ trên mũi tất. Chưa bao giờ tôi nghĩ rằng nhà Bell sẽ chuyển đi. Chẳng lẽ đó là lý do bà ấy đến tiệm của quý bà Anh Quốc ư? Để gửi cho tôi một lời tạm biệt ngấm ngầm ư?

“Tờ Trumpeter có gì mà chúng ta thiếu?” Nathan hỏi.

Bà Bell khụt khịt. “Mục tư vấn của dì Edna.” Cây chổi của bà chà xát mạnh hơn. “Xem nào, chắc chúng ta sẽ có thêm người đặt mua ở kỳ đua ngựa tới.”

Kỳ đua ngựa khởi động mùa ra mắt của các thiếu nữ thượng lưu, nên ai ở tầng cao cũng muốn được lộ diện. Những kẻ tầng thấp chúng tôi buộc phải hài lòng với việc ngắm nhìn ngựa, thế mà vé cũng tốn hai đô một người.

“Mẹ nói gì cơ?”

Tôi áp phía mặt bên phải vào ống loa.

“Mẹ bảo, chắc chúng ta sẽ có thêm…”

“Không, trước đó. Mục tư vấn của dì Edna. Nếu mở mục tư vấn tâm sự, chúng ta có thể cải thiện lượng độc giả. Phụ nữ, ờm, thích gì nhỉ? Mẹo giặt là à?” Anh bật ra nửa tiếng càu nhàu. Chắc mẹ anh vừa nhéo anh một cái.

“Thỉnh thoảng con cũng khờ như cha con ấy.” Bear phụ họa một tiếng gâu!“Phụ nữ đã có quá đủ tư vấn nội trợ từ dì Edna rồi. Người ta phải viết về những chủ đề thú vị hơn. Chẳng hạn làm thế nào để nốt viêm tấy ở ngón chân cái của đức ông chồng chịu nghe lời bạn. Hoặc làm gì khi người bán thịt gạt bạn xoay mòng mòng vì miếng thịt hỏng.”

Mòng mòng. Đúng là một từ tuyệt hay, dù tôi không chắc lũ mòng biển sẽ thích gắn tên mình với ngón nghề bịp bợm. Tôi sẽ bổ sung cả cụm vào những từ bắt đầu bằng chữ G mà tôi lấy phấn viết lên tường, ông Payne cho Già Gin cuốn từ điển, còn nguyên vẹn, chỉ thiếu mục chữ G; nên tôi dành cho những từ ấy một chỗ ở đây.

“Sao mẹ không viết?” Nathan hỏi.

“Mẹ sẽ phải viết cùng với cha con.”

Nathan rên lên. “Quên những gì con vừa nói đi.”

Tầng trệt chìm vào im lặng, nên tôi nhét nút chặn ống nghe vào. Chúng tôi phải cẩn thận không bao giờ được để ngỏ ống loa mà không chú ý.

Nếu nhà Bell đóng cửa, họ sẽ chuyển đi, mà họ giống như gia đình của tôi vậy. Già Gin có khi sẽ quyết định, đã đến lúc kiếm cho tôi một người chồng “mũi to”, một đặc điểm được cho là tích tụ tài lộc. Đàn ông Trung Quốc độc thân khát cầu tìm vợ đến nỗi tiêu tốn hàng trăm đô đi kiếm vợ ở Trung Quốc, nhiều cô còn nhỏ hơn cái tuổi mười bảy của tôi. Tôi có thể chọn bất cứ cái mũi nào cùng toàn bộ đắng cay mà tôi có thể tiêu hóa.