← Quay lại trang sách

Bốn mươi -

Bear dẫn tôi về phía Bắc, dọc theo con phố đầy những ngôi nhà ống hẹp, những căn nhà dài mà lối đi bên trong thẳng hàng tới mức bạn có thể bắn một phát súng xuyên từ cửa trước tới cửa sau mà không chạm phải bức tường nào. Dĩ nhiên, tôi không hiểu sao người ta lại muốn làm như vậy, nhưng không phải chuyện gì ở Atlanta cũng có thể giải thích được.

Sau khi cuốc bộ một dặm, nhà cửa thưa dần và quang cảnh trở nên lộn xộn, những bụi cây nhô lên trên nền trời. Tiếng nước chảy róc rách xen kẽ tiếng ngỗng trời bay qua. Tôi bắt đầu tự hỏi liệu Bear có biết cô nàng đang đi đâu không, hay chỉ đang sung sướng vì được đi thơ thẩn. “Nathan đâu, hả Bear? Tao hy vọng chúng ta đang đi tới Avalon vì ngón chân cái của tao sắp tấy lên rồi.”

Ngay khi tôi định chấm dứt cuộc tìm kiếm, cô nàng chui vào một tấm màn cây bụi dày đặc đến nỗi tôi không thể ném giày vào đó mà chiếc giày không bật trở lại. Tôi gạt bụi cây sang bên và phát hiện ra nó nhường đường dễ dàng hơn tưởng tượng. Tôi theo gót Bear lên con dốc nhỏ. Phía dưới, dòng suối lởm chởm đá dài khoảng bốn mươi foot lộ ra làn nước trong vắt. Một tảng đá phẳng có hình chiếc mũ của em bé giao báo chặn giữa dòng. Nathan đang ngồi trên mép chiếc mũ ấy, chân đu đưa trên mặt nước, một cuốn sách mở rộng đặt trong lòng anh.

Gâu!

Nathan trông lên, chiếc mũ Homburg xoay từ bên này sang bên kia. Anh gấp sách lại rồi đứng dậy. Bear nhảy chồm xuống dòng suối rồi đi ngoằn ngoèo qua hàng dãy đá để tới chỗ anh.

“Xin chào,” tôi gọi với qua dòng nước. “Vậy, đây là Avalon.” Với hàng cây che khuất con đường và núi đồi xa xa, thật khó nhận ra đây là một phần của Atlanta. Lá dương xỉ như dải đăng ten quét vào mặt tôi, không khí mát lạnh tràn ngập mùi ngọt ngào và đầy sức sống.

Nathan ôm lấy nàng chó, xoa xoa cổ nó. “Tôi không biết nên ấn tượng hay là…”

“Thất vọng.”

Một nụ cười bất đắc dĩ hé ra dưới bóng chiếc mũ của anh.

Tôi nhấc váy rồi nhảy lên tảng đá đầu tiên.

“Không, đứng yên đó, để tôi qua…”

Tảng đá thứ hai chỉ là một đụn cỡ nắm tay, nên tôi mau chóng nhảy tới tảng thứ ba, thứ tư, và rồi…

“Không, không phải tảng đó!”

Tảng đá cuối cùng lắc lư, giày tôi trượt xuống, nhưng tôi nhảy phắt lên tảng đá chỗ Nathan. Bật ra một tiếng nguyền rủa, Nathan bắt được cánh tay tôi.

“Tôi không dễ ngã vậy đâu,” tôi bảo anh.

Anh không buông tay tôi ra, nên trái tim tôi bắt đầu rơi phịch xuống như con cá tiếp đất. “Tôi cũng không ngã dễ dàng đâu,” anh nhẹ nhàng nói.

Bao lạc to choáng váng, đột nhiên, tôi không cảm thấy vững vàng chút nào.

Anh buông tay, nhưng hơi ấm của anh vẫn khiến cánh tay tôi râm ran.

“Chỗ này không hoành tráng lắm.” Anh vung cánh tay tới rìa bên kia tảng đá. “Cô thấy đấy, cây táo ma thuật còn chưa vào mùa. Muốn ngồi lên trường kỷ của tôi không?”

Tôi cẩn thận ngồi xuống rìa tảng đá hình chiếc mũ của em bé giao báo. “Thảm thêu kỳ lân này dễ chịu đấy.”

“Cảm ơn cô. Tôi tự trang trí đấy.” Anh chỉ vào chỗ đất lún cách chúng tôi chừng vài foot. “Kia là nơi rèn Excalibur. À, đó là một thanh kiếm.”

“Tôi biết. Cha anh đã dùng thanh Excalibur xử tử gã kỵ sĩ không đầu dưới gầm giường của anh. Thế anh mới chịu tới xưởng in mỗi tối.” Tôi mỉm cười trước ký ức ấy, nhưng một biểu cảm trên khuôn mặt kinh ngạc của Nathan xua mất nụ cười tôi. “Tôi xin lỗi.”

“Đừng như vậy. Tôi nghĩ mình đã dần quen với ý nghĩ rằng cô đã hiểu tôi rồi.”

Chân chúng tôi cùng đung đưa trên mặt nước, còn nước vỡ thành muôn bọt bong bóng quanh tảng đá chúng tôi ngồi. Bear trở lại từ chỗ cô nàng chuồn đi để giải tỏa cơn khát, rồi ngồi xuống cạnh Nathan. Vòng tay ôm Bear, anh ngắm nhìn dòng suối với vẻ điềm tĩnh như khi anh ngắm nhìn thế giới, hấp thu rất nhiều, nhưng bộc lộ đôi chút.

Anh bám những ngón tay dài quanh rìa tảng đá, duỗi thẳng lưng. Dòng suối róc rách, rì rào. “Xem nào, giờ đây cô biết rất nhiều bí mật của tôi rồi, liệu cô có thể kể cho tôi nghe một vài bí mật của cô không?” Đôi mắt anh mở to đôi chút.

“Toàn bộ đời tôi là một bí mật.”

“Không nhất định phải như thế đâu.”

Ánh nắng ban ngày họa nên anh với những đường nét rõ ràng. Suốt ngần ấy năm, khuôn mặt anh không khác gì một hình ảnh mờ mịt, bất chấp sự tồn tại của anh thân quen như chiếc áo choàng không tay của chính tôi. Có thể nào nhận cuộc đời mà gia đình anh dành tặng cho tôi không? Không chỉ làm việc với họ, mà còn sống với họ, trong không gian công khai không? Hôn nhân liên chủng tộc là bất hợp pháp, nhưng chẳng ai có thể lập luật lệ trên gia đình, tình bạn, hoặc tình yêu.

Không thấy tôi đáp lời, anh hướng về tôi nụ cười mờ nhạt. “Tôi thực lòng chỉ muốn biết, vì cô là thợ làm mũ có kinh nghiệm, cô nghĩ sao về chiếc mũ Homburg của tôi?” Tháo mũ, anh xoay xoay nó trước mặt.

“Ý anh là chiếc kẹo cứng đơ* của anh hả? Trông như cái nhíu mày vĩ đại trên mặt quốc vương.”

Nguyên tác là “humbug”. Ở đây, tác giả chơi chữ “humbug” và “Homburg”.

“Thế thì tôi sẽ tiếp tục đội nó với niềm tự hào.”

“Ít nhất cũng cắm cọng lông vũ vào. Lizzie sẽ đánh giá cao đấy.”

Anh đội lại mũ, vành mũ sụp xuống cặp mày nhíu chặt. “Tôi không thích gây ấn tượng với Lizzie.”

Bàn tay bỗng trở nên bồn chồn của tôi nhặt cuốn sách của anh lên. Dòng chữ màu bạc nhàn nhạt trên tấm bìa da viết Đua ngựa hiện đại. “Anh kiếm được nó ở đâu thế?”

“Tiệm sách cũ cuối phố.”

“Anh đang đọc vì cô ấy ư?”

“Phải, tôi đang đọc… vì cô ấy. Không phải Lizzie.” Quai hàm vốn siết lại của anh giãn ra, rồi cổ họng anh nhấp nhô. “Jo, em đã biết anh suốt cuộc đời rồi. Em có nghĩ,” anh nuốt xuống, “em có nghĩ rằng em có thể để tâm đến một người như anh không?”

Da tôi ngứa ran lên, tiếng nhịp tim vang vọng trong tai. Khi dõi mắt nhìn hàng mi của anh hạ xuống, cả bộ bài cảm xúc hỗn loạn trong tôi đang tự sắp xếp để lộ ra một quân trái tim. Tôi nhận ra mình đang nín thở. “Say đắm.”

“Say đắm?”

“Từ yêu thích của em. Em đã nói dối, lúc trước ấy.”

Giọng nói tôi đã nghe suốt cuộc đời đang thì thầm ngay bên tai tôi. “Jo.” Và tôi không còn phải tự hỏi, cảm giác sẽ thế nào khi hôn anh nữa.