Chương 4 Kẹo mút tẩm Morphine
CẢ MỘT RỪNG DÁT VÀNG đông đúc láo nháo lóe lên trong luồng sáng chiếu xiên qua những ô cửa bụi xù: những thần tình yêu dát vàng, những tủ com mốt và chúc đài dát vàng, và lẩn bên dưới mùi gỗ cũ, có mùi dầu nhựa thông, sơn dầu và véc-ni hăng hăng. Tôi đi theo người kia qua xưởng theo lối đi quét sạch giữa đám mùn cưa, qua những bảng treo đồ và đủ thứ dụng cụ, những chiếc ghế bị tháo tung, những chiếc bàn úp ngược huơ chân móng trên không. Rất to con, nhưng ông có dáng đi rất thanh thoát, “như trôi” theo cách mẹ thường nhận xét, di chuyển như đang lướt đi êm ru. Mắt dán vào đôi gót chân xỏ dép lê của ông, tôi đi theo ông lên một đợt cầu thang hẹp, vào căn phòng mờ tối trải thảm dày, có những bình tro đen đặt trên bệ và màn tua rua kéo lại ngăn ánh mặt trời.
Cảnh im lặng làm tim tôi chùng xuống. Hoa đã héo, rữa ra trong các bình lọ Trung Hoa khổng lồ, cảm giác nặng nề ngột ngạt đè trĩu căn phòng: không khí có mùi chua ôi đến không thở nổi, đích xác là cảm giác ngạt thở trong căn hộ nhà tôi khi bà Barbour đưa tôi về lại Sutton Place lấy mấy thứ đồ dùng. Cái lặng lẽ ấy tôi quá biết: đấy là ngôi nhà khép mình lại khi có ai đó qua đời.
Ngay lập tức tôi ước giá gì mình không đến. Nhưng người kia - Hobie - xem chừng cảm thấy nỗi nghi hoặc trong lòng tôi, ông ta vẫn mang gương mặt có dáng dấp trẻ thơ: đôi mắt màu xanh ngây thơ rất trong trẻo và thảng thốt.
“Sao thế?” Ông hỏi, rồi thì: “Cháu có sao không?”
Sự quan tâm ấy làm tôi xấu hổ. Tôi lúng túng đứng trong cảnh tối ám đặc quánh, giữa một rừng cổ vật, không biết nên nói gì.
Có vẻ ông ta cũng không biết nên nói gì: ông mở miệng rồi lại ngậm miệng, rồi lắc đầu như để suy nghĩ cho rõ hơn. Ông ta chừng năm mươi, sáu mươi tuổi, râu không cạo, khuôn mặt hiền dịu và rụt rè với những nét rõ ràng, không thể gọi là điển trai mà cũng không xấu - người này hầu như ở đâu cũng sẽ là người to con nhất phòng, dù ông cũng có vẻ bệnh tật, có vẻ dấp dính khó gọi tên nào đấy, với cặp mắt quầng thâm và nước da tái nhợt khiến tôi nhớ đến những nhà tử đạo dòng Tên nhìn thấy trong các bích họa nhà thờ khi trường tổ chức cho học sinh tới Montreal: những người châu Âu lớn xác, giỏi giắn, trắng nhợt như xác chết, bị trói chân tay hay buộc vào cọc trong các trại của người bộ tộc Huron.
“Xin lỗi nhé, tôi đang hơi bấn...” Ông ta nhìn quanh, dáng vẻ lo lắng nhưng lãng đãng không xác định, như mẹ vẫn hay nhìn khi không tìm thấy thứ gì. Giọng ông thô nhưng có vẻ được học hành, giống thấy O’Shea dạy Sử sinh ra lớn lên ở một quận chợ trời Boston nhưng lại đi học Harvard.
“Cháu quay lại sau cũng được. Nếu như thế tốt hơn.”
Đến đây ông ta liếc nhìn tôi hơi hoảng hốt, “Không, không.”, ông nói - khuy tay áo đứt, ống tay dính bẩn lật phật quanh cổ tay - “cho tôi một phút bình tĩnh đã, xin lỗi cháu - đây rồi.” ông lơ đãng nổi và quệt mớ tóc xám vướng trên mặt, “tìm thấy rồi.”
Ông ta dẫn tôi ra cái xô pha tay cuốn hẹp, có vẻ cứng, lưng chạm trổ. Nhưng trên đó đã vứt đấy các loại gối chăn, và hình như cả hai chúng tôi đã nhận ra cùng một lúc rằng ngồi giữa đống đồ đạc này rất thiếu thoải mái.
“À, xin lỗi!” ông lẩm bẩm và lùi lại nhanh đến nỗỉ suýt đâm sầm vào tôi, “tôi đã dọn lên đây rồi, như cháu thấy đấy, không phải là giải pháp tốt lành gì cho cam nhưng phải đành thôi vì tôi không nghe được rõ với bao nhiêu chuyện như vậy... ”
Quay ngoắt đi (khiến tôi không nghe hết câu nói dở), ông bước vòng qua một cuốn sách đáng úp mặt xuống thảm cùng một chén trà còn rõ vành nước nâu trong lòng chén, dẫn tôi sang một cái ghế bành khác rất cầu kỳ, có đệm, khâu chần và dún, có cả diềm phủ và mặt ghế may nút rất phức tạp - ghế bành kiểu Thổ, như sau này tôi học được; ông là một trong số ít người ở New York còn biết cách làm đệm cho loại ghế này.
Tượng đồng có cánh, hộp trang sức bạc. Lông đà điểu xám bết bụi cắm trong bình bạc. Tôi băn khoăn ngồi ghé xuống mép ghế, nhìn quanh. Tôi muốn đứng hơn, như thế sẽ dễ bỏ đi hơn.
Ông cúi người tới trước, hai tay đan vào nhau bỏ trong lòng. Nhưng không nói gì mà chỉ nhìn tôi chờ đợi.
“Cháu là Theo.” tôi hối hả nói sau khi thấy đã im lặng quá lâu. Mặt tôi đỏ bừng, cảm giác sắp bốc hỏa. “Theodore Decker. Mọi người gọi cháu là Theo. Cháu sống trên kia” tôi ngờ vực nói thêm.
“Ờ, tôi là James Hobart, nhưng mọi người đều gọi tôi là Hobie.” Ánh mắt ông rất trống trải và thành thực “Tôi sống dưới này.”
Tôi không biết nói gì, nhìn đi chỗ khác, không hiểu có phải ông đang đùa không.
“Xin lỗi.” Ông nhắm mắt một lúc, rồi lại mở. “Bỏ quá cho tôi. Mồ ma Welty... ” - ông nhìn xuống cái nhẫn trong tay - “là người đồng sự của tôi.”
Mồ ma ư? Cái đồng hồ mặt trăng - đung đưa đủ bộ bánh răng, dây xích, quả lắc, một cỗ máy đúng kiểu “Thuyền trưởng Nemo” - kêu rừ rừ rỗ to trong cảnh im lặng rồi gõ chuông điểm phút thứ mười lăm.
“Ôi!” tôi thốt lên. “Cháu chỉ... Cháu tưởng...”
“Không. Tôi xin lỗi. cháu chưa biết à?” Ông nói thêm, nhìn kỹ tôi.
Tôi nhìn chỗ khác. Tôi không ngờ mình đã mong gặp lại ông già đến mức ấy. Dù tôi đã thấy - đã biết như vậy - không hiếu sao trong lòng tôi vẫn ấp ủ nỗi hy vọng thơ trẻ rằng ông đã qua khỏi một cách thần kỳ, như là nạn nhân án mạng trên phim, sau quảng cáo lại hóa ra vẫn còn sống nguyên, đang lặng lẽ dưỡng thương trong bệnh viện.
“Thế làm sao cháu lại có thứ này?”
“Gì ạ?” Tôi giật mình đáp. Tôi vừa nhận rằng cái đồng hồ chỉ sai giờ: dù là mười giờ sáng hay mười giờ tối, thì cũng cách quá xa giờ đúng,.
“Cháu bảo là ông ấy đưa cho cháu à?”
Tôi ngọ nguậy trên ghế. “Vâng. Cháu…” Nỗi kinh động từ cái chết của ông cứ như vừa giáng xuống, như thể tôi đã lại phụ lòng ông lần nữa, và tất cả diễn ra lại từ đầu, từ một góc độ khác.
“Ông vẫn còn tỉnh à? Ông đã nói chuyện với cháu?”
“Vâng”, tôi mở đầu, rồi lại im. Thôi thấy thật khổ sở. Ở trong thế giới của ông già, giữa những đồ vật của ông, đã khiến cảm giác về ông trở lại thật mạnh mẽ: khung cảnh mơ ảo như dưới nước trong căn phòng, những lớp nhung màu đỏ đục, cảm giác phóng túc, cái lặng lờ.
“Tôi thật mừng là ông không ở một mình” Hobie nói. “Nếu không ông sẽ buồn lắm.” Cái nhẫn nằm gọn trong bàn tay nắm chặt, ông đưa tay lên miệng và nhìn tôi.
“Ôi trời. Cháu chỉ là một cậu nhóc con thôi mà, phải không?” Ông ta nói.
Tôi mỉm cười gượng gạo, không biết nên đáp lại thế nào.
“Xin lỗi” ông nói bằng giọng khách quan hơn, tôi hiểu đấy là để trấn an tôi. “Chẳng qua là... Tôi biết là phải tệ lắm. Tôi có thấy. Thi thể ông…” - ông ta có vẻ khó khăn lắm mới tìm được từ - “trước khi gọi vào, người ta đã lau rửa hết sức và đã nói trước là sẽ không dễ dàng đâu, tất nhiên ta biết vậy nhưng... Không có cách nào chuẩn bị tinh thần chứng kiến một thứ như thế. Chúng tôi có nhập về một lô ảnh cùa Mathew Brady[46] mấy năm trước - từ thời Nội chiến, trông kinh sợ đến mức mãi mớỉ bán đi được.”
Tôi không đáp. Tôi chưa có thói quen tham gia vào chuyện trò với người lớn, chỉ “vâng” hoặc “không” khi nào bị ép lắm, nhưng mặt khác tôi vẫn bị hút vào câu chuyện. Mark, bạn của mẹ và là bác sĩ, đã vào nhân dạng thi thể mẹ và chẳng ai nói lại gì mấy với tôi.
“Tôi có nhớ một câu chuyên từng đọc, có một người lính, không biết có phải ở Shiloh không?” Ông đang nói chuyện với tôi, nhưng không chú tâm hoàn toàn. “Hay Gettysburg? một người lính bị sốc nặng đến mức lên cơn tâm thần, đi chôn từng con chim và sóc trên chiến trường. Ở đó cũng có rất nhiều con vật nhỏ bị chết, dưới hỏa lực hai bên, những con thú bé xíu. Hàng trăm nấm mộ tí hon.”
“24 nghìn người chết ở Shiloh trong vòng hai ngày.” tôi buột miệng.
Mắt ông hoảng hốt nhìn lên tôi.
“Ở Gettysburg là 50 nghìn. Đấy là do vũ khí mới. Đạn Minié[47] và súng liên thanh. Đấy là lý do số thương vong tăng vọt. Người Mỹ chúng ta đã đánh nhau trong chiến hào từ trước Thế chiến thứ nhất rất lâu. Không mấy người biết điều đó.”
Tôi thấy ông cũng không hiểu phải nghĩ gì trước thông tin này.
“Cháu quan tâm đến Nội chiến à?” Ông ta hỏi sau khi đã ngưng một lúc.
“À... vâng” tôi nói nhanh. “Hơi hơi ạ.” Tôi biết rất nhiều về hỏa pháo của phe Liên minh, bởi từng làm bài về đề tài đó, một bài lắm thông tin và quá sâu về kỹ thuật đến mức thầy bắt tôi viết lại; và tôi cũng biết số ảnh chụp người chết ở trận Antietam của Brady; tôi đã xem ảnh trên mạng, những thiếu niên mắt lõ trào máu đen ở mũi mồm. “Lớp cháu đi Lincoln sáu tuần.”
“Brady có hiệu ảnh không xa đây lắm. Cháu đã đến bao giờ chưa?”
“Chưa ạ.” Có một ý nghĩ bị giam hãm đang chực thoát ra, một cái gì đó rất quan thiết mà không thốt lên nổi, vừa được giải phóng khi nhắc đến những binh sĩ vẻ mặt trống tuênh kia. Giờ thì nó đã biến mất, chỉ hình ảnh là ở lại: những thiếu niên đã chết, tay chân dang ra, nhìn lên trời.
Tiếp đó là một khoảng lặng thật không chịu nổi. Cả hai chúng tôi đều không biết tiếp tục câu chuyện ra sao. Cuối cùng thì Hobie cũng vát tréo chân lại. “Tôi định nói là... tôi xin lỗi. Đã ép cháu nói” ông ta ấp úng thêm.
Tôi nhăn mặt. Khi vào trung tâm tôi đã tò mò đến độ không hề nghĩ rằng có thể chính mình cũng sẽ phải đưa ra vài câu trả lời.
“Tôi biết chắc nói về nó khó lắm. Chỉ là... tôi không nghĩ...”
Giầy của tôi. Lạ thay, tôi chưa bao giờ nhìn kỹ giày mình. Những vết trầy trên mũi. Dây giày đã tòe. Thứ Bảy mình đi Bloomingdale mua cho con đôi mới nhé! Thêm một điều không bao giờ xảy ra.
“Tôi không muốn ép uổng cháu đâu. Nhưng… ông biết chứ?”
“Vâng. Một chút. Ý cháu là…” Khuôn mặt chăm chú lo âu của ông khiến một phần xa xám nào đó trong tôi chỉ chực trào kể lể đủ mọi thứ ông không cần biết, không nên biết, những ruột gan tung tóe, những vệt hồi cố lặp đi lặp lại đáng ghét thường xuyên cắt ngang dòng ý nghĩ của tôi, cả khi đang thức.
Những chân dung đen đúa, những tượng chó tai rù trên bệ lò sưởi, quả lắc vàng đung đưa, tích tắc tích tắc tích tắc.
“Cháu nghe tiếng ông gọi.” Tôi dụi mắt. “Khi tỉnh lại.” Cử như tìm cách giải thích giấc mơ. Không ai có thể giải thích giấc mơ. "Thế là cháu đi lại chỗ ông rồi ở cạnh ông rồi thì… không quá tệ đâu. ít nhất thì cũng không tệ đến như bác nghĩ đâu.” tôi nói thêm, vì nhận ra câu ấy nghe như một lời nói dối, dù đúng là thế.
“Ông nói với cháu à?”
Nuốt ực một cái, tôi gật đầu. Gỗ dái ngựa thẫm, cọ trồng chậu.
“Ổng tỉnh hả?”
Tôi lại gật. Vị chua chua trong miệng. Đấy không phải thứ có thể tóm tắt được, đấy là thứ không có ý nghĩa và vì thế không có lịch sử, bụi đất và tiếng còi rú, tay ông cầm tay tôi, cả một đời người trôi qua chỉ có hai chúng tôi, những câu nói lẫn lộn, những cái tên những thành phố những con người tôi chưa bao giờ nghe đến. Dây điện đứt nổ lốp đốp.
Mắt ông vẫn dán vào tôi. Cổ họng khô khốc, tôi thấy hơi nôn nao. Giây phút này không dời qua giây phút khác như lẽ vẫn thế và tôi cứ đợi hoài xem ông có hỏi gì nữa không, gì cũng được, nhưng ông không hỏi.
Cuối cùng ông cũng lắc đầu như muốn sắp xếp lại suy nghĩ. “Chuyện này...” Có vẻ ông cũng bối rối như tôi; món tóc bạc tuột ra khiến ông trông như một vị vua mất vương miện trong vở kịch giả trang của tụi trẻ.
“Tôi xin lỗi!” ông nói và lại lắc đầu. “Chuyện này còn mới quá.” “Là sao ạ?”
“À, cháu hiểu không, chỉ là...” ông cúi người tới, chớp mắt rất nhanh và kích động, “điều này rất khác so với tôi được kể. Người ta bảo là ông chết ngay tức khắc. Người ta nhấn đi nhấn lại điều đó.”
“Nhưng mà...” Tôi tròn mắt kinh ngạc. Vậy ông nghĩ là tôi bịa ra ư?
“Không, không.” ông vội vã nói và giơ tay lên trấn an tôi. “Chỉ là... Tôi nghĩ chắc họ nói vậy với tất cả mọi người. ‘Chết ngay tức khắc’?” Ông nói thêm, giọng vô âm sắc, khi thấy tôi vẫn nhìn ông. “‘Không đau đớn chút nào’? ‘Không hề biết bị cái gì giáng trúng’?”
Rồi, đùng một cái, tôi hiểu, ý nghĩa đằng sau câu đó xuyên thấu vào tôi lạnh ngắt. Cả mẹ cũng đã “chết tức khắc”. Và mẹ “không hể gặp đau đớn gì”. Mấy người nhân viên xã hội đã ca đi ca lại bài đó, khiến tôi chẳng hề nghĩ xem tại sao họ lại biết chắc chắn như vậy.
“Mặc dù tôi phải nói là, rất khó hình dung ông ra đi cách đó.” Hobie thêm khi sự yên lặng lại đột ngột trở lại. “Chớp nháng lên, gục xuống không hay biết. Tôi có cảm giác, thỉnh thoảng vẫn vậy đấy, là chuyện không giống như người ta kể, cháu hiểu không?”
“Sao cơ ạ?” Tôi hỏi và ngước lên, còn đang choáng váng vì khả năng mới, tệ hại hơn, vừa mở ra trước mặt mình.
“Vẫy tay chào lần cuối.” Hobie đáp. Dường như ông đang tư lự nói chuyện một mình. “Ông thì sẽ muốn như thế. Cái nhìn cuối cùng, bài haiku chia tay - ông không muốn ra đi mà không được đứng lại chào ái trên đường đâu. ‘Giữa đào hoa, trà quán / trên đường xuống hoàng tuyền.”’
Giờ thì tôi không hiểu ông nói gì. Trong căn phòng bóng tối, một mảnh nắng duy nhất xuyên vào giữa hai lá màn, cắt ngang phòng rồi mắc lại sáng bừng lên trong một khay đựng những lọ thủy tinh họa tiết, đổ những cầu vồng bảy sắc rập rờn lung linh trên nóc tường như lũ trùng đế giày dưới kính hiển vi. Mùi khói củi rất nồng nhưng lò sưởi đã tắt ngúm, đen thẫm, tro bám đặc vỉ lò, như lâu lắm rồi không đốt.
“Cô bé!” tôi rụt rè nói.
Ông nhìn trở lại tôi.
“Có một cô bé nữa.”
Trong một phút ông dường như không hiểu. Rồi ông ngồi lại trên ghế, chớp mắt lia lịa như vừa bị nước té vào mặt.
“Sao ạ?” Tôi hỏi và giật mình. “Cô ấy ở đâu ạ? Cô ấy vẫn ổn chứ?”
“Không…” day day sống mũi “không.”
“Nhưng cô ấy vẫn còn sống chứ?” Tôi hầu như không tin nổi.
Ông nhướng mày, theo cách tôi nghĩ là “có”.' “Nó gặp may.” Nhưng giọng điệu và dáng vẻ ông lại nói lên điều ngược lại.
“Có ấy có ở đây không?”
“Ờ…”
“Cô ấy ở đâu? Cháu gặp được không?”
Ông thở dài, vẻ như cam chịu. “Nó được dặn phải yên tĩnh, không được gặp người.” ông nói và lục lọi trong túi. “Nó không bình thường - không biết nó sẽ phản ứng lại sao nữa.”
“Nhưng cô ấy sẽ khỏe lại chứ?”
“À, chỉ có thể hy vọng thôi. Nhưng giờ thì nó vẫn chưa qua chặng nguy ngập. Đấy là cách nói mà đám bác sĩ cứ nhất định phải dùng.” Ông đã lấy thuốc lá trong túi áo choàng tắm ra. Bàn tay run rẩy, ông châm một điếu, rồi khoát tay ném bao thuốc lên cái bàn sơn kiểu Nhật giữa hai người.
“Hử?” Ông hỏi và phẩy khói trước mặt, thấy tôi nhìn đăm đăm gói thuốc bị bóp nát, thuốc Pháp như người ta vẫn hút trong phim ngày xưa. “Đừng nói là cháu cũng muốn hút đấy.”
“Không, cảm ơn bác.” tôi nói sau một hồi im lặng khó chịu. Tôi khá chắc là ông nói đùa, dù cũng không hoàn toàn chắc.
Còn ông thì đang chớp mắt nhìn tôi rất dữ qua làn khói mờ, vẻ mặt đăm chiêu như vừa nhận ra thứ gì đó hết sức cốt tử.
“Chính là cháu phải không?” Đột ngột ông nói.
“Sao ạ?”
“Cháu là cậu ấy, phải không? Cậu bé có mẹ chết ở đó?”
Tôi choáng váng một lúc lâu không đáp lại được.
“Sao...” Ý tôi định nói sao bác biết, nhưng không nói hết lời được.
Luống cuống, ông dụi một bên mắt rồi thình lình ngồi thẳng dậy, quýnh quáng như vừa đánh đổ thứ gì ra bàn. “Xin lỗi cháu. Tôi không định… tôi chỉ định... câu đó nghe rất dở. Ôi trời… Tôi thật…” Ông ta làm dấu tay mơ hồ như muốn bảo tôi đã mệt lả rồi, đầu óc không nghĩ được bình thường nữa.
Tôi đánh mắt đi chỗ khác, không được lịch sự lắm - đột ngột táp vào người một đợt sóng xúc cảm mới rất ngột ngạt khó chịu. Từ hồi mẹ mất, tôi hầu như không khóc, và chắc chắn là không khóc trước mặt ai - cả lễ tang cũng không, trong khi những người không quen biết gì mẹ (cùng một hai kẻ đã biến đời mẹ thành Địa Ngục như Mathilde chẳng hạn) thì đang khóc mùi mẫn khắp xung quanh.
Ông nhận ra tôi đang bức xúc, liền định nói gì rồi lại thôi.
“Cháu ăn gì chưa?” Ông đột ngột hỏi.
Tôi quá đỗi kinh ngạc, không đáp lời nổi. Giờ thì thức ăn là thứ xa vời nhất trong suy nghĩ của tôi.
“À, tôi biết ngay là chưa mà.”.ông nói và khó khăn đứng dậy trên đôi chân lớn. “Ta đi kiếm thứ gì thôi.”
“Cháu không đói” tôi nói xẵng, đến mức chợt thấy hối hận. Từ khi mẹ chết, hình như ai cũng chỉ nghĩ đến một việc là nhét thức ăn vào họng tôi.
“Không đói, tất nhiên rồi.” Bàn tay bỏ không của ông lại xua đi một đám khói lớn. “Nhưng cứ đi với tôi. Cho tôi vui lòng. Cháu không ăn chay chứ?”
“Không!” Tôi bực tức đáp. “Sao bác lại nghĩ thế được?”
Ông cười lớn - tiếng cười gắt, cụt ngủn. “Đơn giản thôi! Rất nhiều bạn của cô ấy ăn chay, cả chính cô ấy nữa.”
“Ồ!” tôi nói khẽ, và ông nhìn xuống tôi với vẻ thích thú linh động nhưng thong thả.
“À, nói cho cháu biết, tôi cũng không ăn chay đâu.” ông nói. “Tôi thì ăn đủ thứ kỳ quái trên đời. Nên chắc là chúng ta sẽ ăn ý với nhau thôi.”
Ông đẩy một cánh cửa mở, tôi đi theo qua một hành lang chật chội, hai bên toàn những gương đã mờ xỉn và tranh cũ. Dù ông đi đằng trước rất nhanh, tôi vẫn háo hức muốn nán lại xem: những ảnh chụp gia đình, những cột trắng, những hàng hiên, những cây cọ. Một sân quần vợt, một thảm Ba Tư trải rộng trên cỏ. Người hầu nam mặc đồ pyjama trắng long trọng đứng sắp hàng. Mắt tôi đậu lại trên chính ông Blackwell: cái mũi khoằm khoằm, vẻ mặt thân thiện, mặc vét trắng rất sang, lưng đã gù gù từ thời trai trẻ. Ông đang ngả người bên tường chắn biển ở một xứ sở lắm dừa nào đấy, còn bên ông - đứng trên tường, tay đặt trên vai ông, cao vượt lên một đầu - là Pippa ở tuổi mẫu giáo đang nhoẻn cười. Còn bé tí như thế nhưng trông cô đã giống ông lắm rồi: màu da, cặp mắt, cái đầu nghiêng nghiêng cùng một góc, mái tóc cũng đỏ chẳng kém tóc ông.
“Đây chính là cô ấy phải không?” Tôi hỏi - và đồng thời nhận ra không thể thế được. Tấm ảnh này đã ngả màu, quần áo trong hình đã lỗi mốt, hẳn là chụp từ rất lâu trước khi tôi ra đời.
Hobie ngoảnh lại và tới nhìn. “Không” ông nhỏ nhẹ đáp, tay chắp sau lưng. “Đấy là Juliet. Mẹ của Pippa.”
“Bác ấy đâu rồi ạ?”
“Juliet à?... Chết rồi. Ung thư. Tới tháng Năm vừa rồi là sáu năm.” Và rồi có lẽ nhận ra mình quá cộc lốc: “Welty là anh Juliet. Anh cùng cha khác mẹ thì đúng hơn. Cách nhau ba mươi tuổi. Nhưng ông dạy dỗ và nuôi lớn cô ấy như con ruột mình.”
Tôi bước gần lại cho nhìn rõ hơn. Cô bé trong hình tựa vào ông, má áp vào tay áo khoác ông rất dịu dàng.
Bobie hắng giọng. “Khi cô ấy sinh ra thì ông bố đã quá sáu mươi.” ông nói nhỏ nhẹ. “Ở tuổi ấy ông không còn để tâm được đến một đứa bé nữa, nhất là vốn từ đầu ông đã chẳng mê gì trẻ con.”
Đầu kia hành lang có một cánh cửa mở hé, ông đẩy ra, đứng nhìn vào bóng tối bên trong. Tôi kiễng chân cố nhòm vào trong, nhưng gần như lập tức ông lùi lại và đóng chặt cửa.
“Cô ấy trong đó ạ?” Dù quá tối không đủ nhìn, tôi cũng gặp ánh lóe lên dữ tợn từ đôi mắt con vật nào đó, ánh xanh xanh rợn người ở đầu kia phòng.
“Bây giờ chưa được.” Giọng ông khẽ khàng đến mức khó lắm tôi mới nghe thấy.
“Có gì ở trong với cô ấy?” Tôi thì thào - vẫn nán lại bên cửa không muốn rời đi. “Con mèo ạ?”
“Chó. Y tá không đồng ý, nhưng nó muốn để con chó nằm cùng giường và thực tình là tôi cũng không bắt nó ở ngoài được - nó cứ cào cửa rên rỉ - đây, phía này.”
Với bước chân chậm chạp, khó khăn, thân ngả về phía trước kiểu người già, ông đẩy cửa vào một căn bếp chật chội, trên trần có giếng trời, với một bếp lò chân cong kiểu cổ: đỏ chót như cà chua với những đường lượn duyên dáng như một cỗ tàu vũ trụ thập niên 1950. Sách chất đống trên sàn: sách, nấu ăn, từ điển, tiếu thuyết cũ, bách khoa toàn thư; các giá để chen chúc đồ sứ cổ, có chừng nửa tá mẫu vẽ. Gần cửa sổ, bên lối thoát hiểm, một ông thánh bằng gỗ đã phai màu giơ bàn tay ngửa lên ban phước; trên tủ búp phê trên bộ trà cụ bạc, những con vật sơn màu xếp rải rác hàng đội đi lên tàu Nô-ê. Nhưng trong bồn rửa đấy bát đĩa, còn trên mặt bếp và bệ cửa sổ đầy những lọ thuốc, tách bẩn, hàng chồng ngất nghểu thư chưa bóc, cây con từ cửa hàng hoa gửi đến đã khô quắt trong chậu.
Ông nói tôi ngồi bên bàn, gạt những hóa đơn tiền điện và tạp chí Cổ vật cũ sang một bên. “Trà” ông nói, như thể vữa nhớ ra một món cần thêm vào danh sách đi chợ.
Trong lúc ông loay hoay bên bếp thì tôi nhìn những vòng cà phê nâu nâu trên khăn trải bàn. Bứt rứt, tôi ngồi lùi lại trong ghế và nhìn quanh.
“Vâng…”Tôi mở lời.
“Sao?”
“Sau cháu có được gặp bạn ấy không ạ?”
“Có thể.” ông nói, lưng vẫn xoay về phía tôi. Thìa khuấy đập vào bát sứ xanh: cạch cạch cạch. “Nếu nó thức. Nó bị đau ghê lắm, uống thuốc thì lại buồn ngủ.”
“Bạn ấy bị sao thế?”
“À...” Giọng ông vừa nhanh gọn vừa trầm lắng, và tôi nhận ra ngay vì đấy hầu như cũng chính là giọng tôi vẫn dùng khi có ai hỏi đến mẹ. “Nó bị nứt trên đầu rất ghê, sọ bị rạn, nói thật với cháu là nó còn hôn mê một thời gian, chân trái bị gãy nhiều chỗ đến nỗi suýt phải cưa mất. ‘Bít tất đựng bi’” ông nói và bật cười không vui: “Ông bắc sĩ đã nói vậy khi nhìn phim chụp X-quang. Mười hai chỗ gãy. Năm lần mổ. Mới tuần trước.” ông hơi xoay người về phía tôi, “nó được tháo đinh, rồi nó nài nỉ được về nhà đến nỗi người ta phải chấp thuận. Miễn là có y tá đến chăm sóc thường xuyên.”
“Bạn ấy đi lại được chưa?”
“Ôi trời, chưa đâu.” ông nói và đưa thuốc lên miệng rít; không hiểu làm sao ông vẫn vừa nấu một tay, vừa cầm thuốc tay kia được, như một gã thuyền trưởng tàu lai dắt hoặc đầu bếp trại đốn gỗ trong phim cổ. “Nó ngồi dậy quá nửa tiếng còn chưa được nữa là.”
“Nhưng bạn ấy sẽ khỏe lại.”
“À, mọi người đều hy vọng thế.” ông nói, tuy giọng có vẻ chẳng hy vọng cho lắm. “Cháu biết không?” ông nói và lại nhìn về phía tôi, “nếu cháu cũng ở trong đó, thì cháu không sao thật là điều lạ đấy.”
“À.” Tôi vẫn chưa nghĩ ra cách đáp lại khi mọi người nhận xét (liên tục) rằng tôi “không sao”.
Hobie ho hắng rồi dập thuốc. “À.” Tôi nhận ra qua vẻ mặt rằng ông biết mình đã làm tôi chạnh lòng và thấy hối hận. “Chắc họ cũng gặp cháu nữa chứ? Toán điều tra viên ấy?”
Tôi nhìn xuống khăn bàn, “Có.” Càng ít nói về chuyện đó có lẽ càng tốt hơn.
“À, không biết cháu thì sao chứ tôi thấy họ khá tử tế - khá hiểu biết. Có một người Ireland - ông ta đã chứng kiến đủ chuyện như vậy rồi, kể cho tôi vụ đánh bom vali ở Anh và ở phi trường Paris, cái gì đổ ở quán cà phê vỉa hè tại Tangier, cháu hiểu đấy, hàng chục người chết mà cái người đứng ngay cạnh quả bom lại chẳng làm sao. Ông ta kể có nhiều hiệu ứng khá kỳ lạ, cháu hiểu đấy, nhất là trong các nhà cổ. Những không gian kín, hoặc bề mặt lồi lõm, chất liệu phản quang - chẳng biết được sẽ ra sao. Cũng y như âm học ấy mà, ông ta bảo thế. Sóng xung chấn cũng giống như sóng âm, chúng bị dội lại, phản xạ trên bề mặt. Nhiều khi cửa sổ các nhà cách đó hàng dặm lại vỡ. Hoặc có khi…” ông ta giơ cổ tay gạt tóc khỏi mặt, “thỉnh thoảng ở ngay cạnh đó, lại diễn ra cái ông ta gọi là hiệu ứng che. Những thứ đứng rất gần tâm nổ lại còn nguyên vẹn - chén trà đứng yên trong cản nhà tan tành của phiến quân Ireland, kiểu đó. Người ta chết nhiều nhất lại là do các mảnh vỡ bay cháu hiểu không, co khí ở rất xa. Với tốc độ đó thì một viên sỏi hay mảnh thủy tinh vỡ cũng không khác nào viên đạn.”
Tôi lần ngón cái theo mẫu họa tiết hoa trên khăn bàn. ‘‘Cháu...”
“Xin lỗi. Có lẽ không nên nói mấy chuyện này.”
“Không không.’’ tôi vội vã đáp; thực tế, đúng là nhẹ cả người khi nghe ông nói chuyện thẳng thắn và hiểu biết như thế về một điều phần lớn mọi người khác rón rén hết sức tránh đề cập đến. “Không phải thế. Chỉ là…”
“Sao?”
“Cháu chỉ đang nghĩ: Làm sao bạn ấy ra khỏi đó được?”
“À, đúng là gặp may thôi. Nó bị kẹt rất sâu dưới đống đổ nát - lính cứu hỏa chắc không tìm ra đâu, nếu không phải có một con trong bầy chó báo động. Họ bới được một chút, rồi bẩy cái xà lên - nghĩ xem, thực khó tin, nó vẫn tỉnh, nói chuyện với họ từ đầu chí cuối, dù bây giờ nó chẳng nhớ được chút nào. Điều kỳ diệu là họ đưa được nó ra trước khi có lệnh sơ tán - cháu bảo cháu bị ngất bao lâu nhỉ?”
"Cháu không nhớ nữa.”
“Ờ, cháu gặp may đấy. Nếu họ phải chạy đi, bỏ mặc nó ở đấy, kẹt dưới đống gạch đá - mà theo tôi hiểu thì có người đã bị vậy.... À đây, xong rồi.” ông nói khi cái ấm lên tiếng véo von.
Đĩa thức ăn ông đặt trước mặt tôi trông chẳng ngon lành gì – chỉ là thứ gì đó vàng vàng phồng phồng quết trên bánh mì. Nhưng mùi rất thơm. Tôi thận trọng nếm thử. Đấy là phô mai đun chảy, bỏ thêm cà chua thái nhỏ, ớt và vài thứ nữa tôi không đoán ra, nhưng trần đời không có gì ngon hơn.
“Xin lỗi bác, cái này gọi là gì ạ?” Tôi hỏi và lại cẩn trọng cắn thêm miếng nữa.
Trông ông có vẻ ngượng ngùng. “À, món này không có tên.”
"Ngon lắm ạ!” tôi nói và hơi ngạc nhiên khi nhận ra mình đói đến mức nào. Mẹ vẫn làm bánh mì nướng phô mai hơi giống thế này, thỉnh thoảng nhà tôi ăn vào các tối Chủ nhật mùa đông.
“Cháu thích phô mai à? Lẽ ra tôi phải hỏi trước”
Tôi gật đầu, mồm đấy thức ăn không nói được. Dù bà Barbour lúc nào cũng ép tôi ăn kem hay kẹo, thì cảm giác vẫn như tôi chưa từng ăn một bữa bình thường từ hồi mẹ mất - ít nhất là những bữa bình thường theo tiêu chuẩn chúng tôi, trứng bác hoặc trứng rán hoặc macaroni trộn phô mai ăn liền, trong lúc tôi ngồi trên thang gập trong bếp, kể cho mẹ những chuyện xảy ra trong ngày.
Trong lúc tôi ăn, ông ngồi bên kia bàn, kê cằm lên đôi tay lớn trắng bóc. “Cháu có giỏi gì không?” Đột ngột ông ta hỏi. “Thể thao chẳng hạn?”
“Dạ?”
“Cháu có thích chơi gì không? Kiểu thế?”
“Chơi à… cháu chơi điện tử. Age of Conquest? Yakuza Freakout?”
Trông ông có vẻ bối rối. “Thế ở trường thì sao? Thích môn gì nhất?”
“Chắc là Lịch sử ạ. Ngữ văn nữa.” tôi thêm khi thấy ông không nói gì. “Nhưng sắp tới Ngữ văn, sẽ chán lắm, suốt sáu tuần bọn cháu sẽ thôi không học văn học mà quay lại làm ngữ pháp, bây giờ thì đang phải phân tích câu.”
“Văn học à? Anh hay Mỹ?,
“Mỹ. Bây giờ ạ. À, tức là lúc trước. Cả Lịch sử Mỹ nữa, năm nay. Mặc dù dạo gần đây thì chán lắm. Chúng cháu vừa qua Đại suy thoái, nhưng lại sắp hay rồi, sắp đến Thế chiến thứ hai.”
Đấy là cuộc nói chuyện khiến tôi thích nhất từ rất lâu nay trở lại. Ông hỏi tôi đủ thứ câu hỏi hay ho, như là tôi đã đọc ai khi học văn, và trường cấp hai khác cấp một như thế nào, môn gì tôi thấy khó nhằn nhất (tiếng Tây Ban Nha), thời kỳ lịch sử tôi thích nhất là gì (tôi cũng không biết, gì cũng được miễn là không phải Eugene Debs và Lịch sử Công đảng, cái đó thật mất quá nhiều thời gian), và tôi muốn làm nghề gì sau này? (bó tay) - những thứ bình thường thôi, nhưng thật là nhẹ người khi được nói chuyện với một người lớn có vẻ quan tâm đến tôi chứ không phải đến vận rủi của tôi, không moi móc thông tin hoặc kỹ càng bám lấy bản hướng dẫn Nói Gì Với Trẻ Mắc Nạn.
Chúng tôi đã chuyển sang đề tài các nhà văn - từ T. H. White và Tolkien đến Edgar Allan Poe, thêm một người tôi thích. “Bố cháu bảo Poe chỉ là nhà văn hạng hai” tôi kể. “Bảo ông ấy là Vincent Price[48] trong Văn chương Mỹ. Nhưng cháu nghĩ nói thế thì quá đáng.”
“Đúng thế!”; Hobie nghiêm trang đáp và cũng rót trà cho mình. “Ngay cả nếu không ưa Poe đi nữa, ông vẫn là người đã nghĩ ra thể loại trinh thám. Khoa học viễn tưởng nữa. Về bản chất là ông đã sáng tạo ra một phần lớn của thế kỷ 20. Bác muốn nói là... thực tế giờ bác không ưa thích ông như hồi còn nhỏ nữa, nhưng nếu không thích thì cũng không thể coi ông là người tầm thường được.”
“Bố cháu nghĩ thế đấy. Có hồi suốt ngày đọc Annabel Lee bằng giọng dở hơi không chịu được, cố tình chọc cho cháu tức. Vì biết cháu thích bài đó mà.”
“Vậy bố cháu cũng là nhà văn à?”
“Không.” Tôi không hiểu sao ông lại nghĩ thế. “Là diễn viên. Hồi xưa.” Trước khi tôi ra đời ông đã diễn vai phụ trong vài bộ phim truyền hình dài tập, không bao giờ là nam chính, chỉ là gã bạn thân đàng điếm của nam chính, hoặc đối tác làm ăn bất lương và rốt cục sẽ bị thủ tiêu.
“Không hiểu bác đã nghe đến bố cháu bao giờ chưa?”
“Không đâu. Sau đó bố cháu chuyển sang làm văn phòng rồi. Hồi trước.”
“Thế bây giờ thì sao?” Ông hỏi. Ông đã lồng nhẫn vào ngón út, và thỉnh thoảng lại xoay xoay bằng ngón trỏ và ngón cái tay kia, như để cho chắc nó vẫn ở đó.
“Ai biết được? Bố bỏ mẹ con cháu rồi.”
Thật lạ là ông lại bật cười. “May quá hả?”
“À...” tôi nhún vai. “Chẳng biết nữa ạ. Có lúc bố cũng được. Chúng cháu ngồi xem thể thao và phim điều tra, bố cháu sẽ kể xem người ta làm hiệu ứng máu miếc các kiểu thế nào. Nhưng mà, nhiều khi... Cháu chả biết nữa. Nhiều khi bố cháu đến đón cháu ở trường mà say khướt ấy?” Tôi chưa bao giờ kể mấy chuyện này với tay bác sĩ tâm thần Dave hay bà Swanson hay ai cả. “Cháu sợ không dám kể với mẹ, nhưng mẹ một đứa khác mách lại. Lại còn...” Câu chuyện dài quá, tôi đang thấy ngượng, tôi chỉ muốn cắt bớt đi, “bố bị gãy tay trong quán bar, bố đánh nhau với ai đấy trong quán, có một quán bar ngày nào bố cũng đi nhưng mẹ con cháu không biết là bố ở đấy vì bố bảo phải làm thêm giờ, và bố có một đám bạn bè mà mẹ con cháu chẳng hề biết rồi họ gửi bưu thiếp cho bố khi đi nghỉ mát ở mấy nơi như quần đảo Virgin? gửi đến nhà cháu luôn? vì thế mẹ con cháu mới biết? và mẹ cháu định bắt bố cháu đi cai rượu nhưng bố không chịu. Thỉnh thoảng các chú bảo vệ đến đứng ở hành lang ngoài cửa nhà cháu, làm ầm ĩ lên để bố cháu nghe thấy - để bố cháu biết có các chú ấy ở đó, bác hiểu không? Để bố cháu không làm gì quá đáng.”
“Làm gì quá đáng là làm gì?”
“Cãi cọ các thứ nhiều lắm. Chủ yếu là quát tháo. Nhưng…” bực bội nhận ra rằng mình đang nói nhiều điều không muốn nói - “chủ yếu là bố cháu làm ồn thôi. Như là... cháu không biết nữa, như là những lúc bố cháu phải trông cháu cho mẹ đi làm ấy? Lúc nào bố cũng cáu kỉnh. Cháu không được nói chuyện khi bố đang xem thời sự hay thể thao, đấy là luật ở nhà cháu. Ý cháu là...” Tôi rầu rĩ dừng lại, cảm thấy mình đã tự dồn mình vào đường cùng. “Nhưng dù sao thì cũng lâu lắm rồi.”
Ông ngả người trong ghế nhìn tôi: một người to con, điềm đạm và cẩn mật, dù có đôi mắt xanh trong lo âu như của cậu thiếu niên.
“Còn bây giờ thì sao?” Ông hỏi. “Cháu có thích những người đang ở cùng không?”
“Ờm…” Tôi ngưng lại, mồm đầy thức ăn, băn khoăn không biết nên miêu tả nhà Barbour thế nào. “Họ cũng tốt, cháu nghĩ thế.”
“Bác mừng lắm. Ý là, bác không rõ mình có hiểu Samantha Barbour không, dù bác cũng từng làm vài việc cho nhà họ ngày xưa. Bà ấy có con mắt tinh đời.”
Đến đó thì tôi khựng lại. “Bác quen nhà Barbour à?”
“Ông chồng thì không. Quen bà vợ thôi. Dù mẹ ông ấy cũng sưu tập đáng nể lắm - nhưng chắc là tất cả về tay cậu em rồi, do mâu thuẫn trong nội bộ gia đình gì đấy. Giá có Welty thì sẽ kể cho cháu rõ hơn. Dù cũng không phải ông hay đưa chuyện đâu.” ông vội vàng thêm, “Welty rất kín tiếng, kiệm lời vô cùng, nhưng người ta hay tâm sự với ông, ông thuộc loại người ấy, cháu hiểu không? Người lạ cũng đến kể lể với ông, cả khách hàng, những người ông hầu như không quen, ông là loại người thường khiến người ta đến gửi gắm nỗi buồn của họ.
“Nhưng mà phải.” ông đan tay vào nhau. “Mọi nhà buôn nghệ thuật và cổ vật ở New York đều biết Samantha Barbour. Trước khi kết hôn, bà là con gái nhà Van der Pleyn. Không mạnh tay mua lắm, dù Welty thỉnh thoảng cũng thấy bà ở các điểm đấu giá, và rõ là bà cũng có vài thứ đẹp.”
“Ai bảo với bác là cháu ở với nhà Barbour?”
Ông chớp mắt liên tục. “Trên báo có ghi.” ông đáp. “Cháu không xem à?”
“Báo à?”
“New York Times. Cháu không đọc à? Không hả?”
“Báo có viết về cháu à?”
“À không.” ông vội nói. “Không phải viết về cháu. Mà về những đứa trẻ mất người thân ở bảo tàng. Phần lớn đều là khách du lịch. Có một cô bé... một đứa trẻ sơ sinh thì đúng hơn... con của nhà ngoại giao nào đó người Nam Mỹ…”
“Báo viết gì về cháu?”
Ông nhăn mặt. “À, cảnh ngộ một cậu bé mồ côi... phu nhân có lòng từ thiện giúp đỡ... đại khái thế. Cháu hình dung được mà.”
Tôi nhìn xuống đĩa, hổ thẹn vô cùng. Mồ côi ư? Từ thiện ư?
“Bài viết tử tế lắm. Bác hiểu là cháu đã bênh vực con trai của bà ta khỏi bị bắt nạt à?” Ông nói và cúi cái đầu lớn tóc bạc xuống nhìn vào mắt tôi. “Ở trường à? Một trong hai đứa trẻ năng khiếu được nhảy lớp?”
Tôi lắc đầu. “Gì cơ?”
“Con trai Samantha ấy? Được cháu bảo vệ khỏi một đám trẻ lớn hơn ở trường? Chịu đòn thay nó - đại khái thế?”
Lần nữa tôi lắc đầu, cực kỳ hoang mang.
Ông cười lớn. “Khiếm tốn thế! Cái đó không nên xấu hổ.”
“Nhưng... đâu phải như thế.” tôi đáp, cực kỳ rối trí. “Cả hai bọn cháu đều bị chọc ghẹo và đánh đập mà. Ngày nào chả vậy.”
“Bài báo có nói vậy. Vì thế việc cháu bênh vực bạn càng đáng quý hơn. Cả chai vỡ nữa?” Ông nói khi thấy tôi không đáp. “Có kẻ cầm chai vỡ định làm bị thương con trai Samantha Barbour, và cháu...”
“À, cái đó hả.” tôi ngượng ngập đáp. “Có gì đâu.”
“Cháu cũng bị thương. Vì tìm cách giúp bạn.”
“Chuyện không phải như thế! Cavanaugh tấn công cả hai bọn cháu! Có một mảnh chai vỡ trên hè đường.”
Ông lại bật cười - tiếng cười của người to con, trầm vang và thô nháp, trái hẳn với giọng nói được rèn luyện của ông. “Ồ, dù chuyện là thế nào nữa.” ông nói, “thì rõ ràng cháu đã rơi vào một gia đình rất mực thú vị.” Ông đứng lên, đi ra tủ chè, lấy trong đó chai uýt-ki rồi đổ chừng hai đốt tay vào cái cốc không sạch lắm.
“Samantha Barbour không có vẻ là loại người ấm áp và thân thiện - ít ra thì cảm giác bề ngoài là thế.” ông nói. “Nhưng dường như bà ấy làm được rất nhiều điều có ích cho thế giới nhờ các quỹ và hoạt động gây quỹ của mình, cháu nghĩ thế không?”
Tôi im lặng trong khi ông cất lại cái chai vào tủ. Trên đầu, qua giếng trời, ánh sáng lọt vào đùng đục đa sắc: một màn mưa mỏng đập lách tách vào mặt kính.
“Bác có định mở lại cửa hiệu không?” Tôi hỏi.
“À...” ông thở dài. “Vốn Welty lo mặt đó - khách hàng và buôn bán. Bác thì, bác chỉ là người đẽo gọt, không phải nhà kinh doanh. Kẻ dưới xưởng và kẻ trên hiệu. Không mấy khi đặt chân lên đó - bác lúc nào cũng ở dưới này đánh ráp bôi xi. Giờ thì ông đã ra đi - chà, thật còn quá mới mẻ. Người ta gọi đến, hỏi những thứ ông đã bán, đồ đạc vẫn chuyển tới mà bác không hề biết ông đã mua, không biết giấy tờ để đâu, không biết cái nào là cho người nào... có cả triệu việc cần hỏi ông, giá có cách gì nói chuyện được với ông chỉ năm phút thôi. Nhất là... à, nhất là về Pippa. Chạy chữa cho nó, rồi thì…”
“Vâng” tôi đáp, biết giọng mình nghe vụng về đến thế nào. Chúng tôi đã lại bước vào địa hạt khó khăn là đám tang mẹ, những khoảng trống kéo dài, những nụ cười không đúng chỗ, địa hạt nơi không có chỗ cho lời.
“Ông là một người rất đáng yêu. Không có nhiều người như ông. Hiền từ, khiến người ta yêu mến. Ai cũng thấy thương ông vì cái lưng, nhưng bác chưa bao giờ gặp ai có bản tính vui tươi tự nhiên như thế, và tất nhiên mọi khách hàng đều yêu quý ông... rất năng động, rất giỏi giao tiếp, lúc nào cũng thế... ‘thế giới không chịu đến với tôi,’ ông hay nói vậy, ‘nên tôi phải đến với nó’... ”
Bất thình lình chiếc iPhone của Andy reo: có tin nhắn.
Hobie đang đưa cốc dở chừng lên miệng, giật bắn mình. “Cái gì thế?”
“Đợi cháu một chút.” tôi nói và thọc tay vào túi. Người gửi là Phil Lefkow, một đứa trong lớp tiếng Nhật của Andy: Hey Theo, Andy đây, ok chứ? Tôi vội tắt máy, nhét trả vào túi.
“Cháu xin lỗi!” tôi nói. “Bác đang nói gì nhỉ?”
“Quên rồi.” Ông ngồi nhìn xa xăm một hai giây, rồi lắc đầu. “Bác chẳng hề mong sẽ được thấy nó lần nữa.” ông nói và nhìn xuống cái nhẫn. “Thật đúng là ông, lại yêu cầu cháu mang đến đây - đặt nó vào tay bác. Bác thì... ờ, bác không nhắc đến nhưng cứ chắc mẩm đã có ai đó ở nhà xác bỏ túi nó rồi.
Lần nữa cái điện thoại lại réo lên eo éo rất đáng ghét. “Trời ạ, cháu xin lỗi!” Tôi nói và vội vã lục tìm. Andy nhắn:
Chỉ muốn biết là cậu chưa bị giết thôi!!!
“Xin lỗi ạ.” tôi nói và nhấn phím hồi lâu cho chắc, “lần này thì tắt hẳn rồi.”
Nhưng ông chỉ mỉm cười, nhìn vào cốc. Mưa gõ lên vòm giếng trời rồi lăn xuống, hắt những cái bóng ướt nước chảy dài trên tường. Quá ngại ngùng không biết nói thêm gì nữa, tôi chờ ông bắt lại câu chuyện - và khi ông vẫn im, chúng tôi chỉ ngồi đó thanh thản, trong lúc tôi nhấp món trà đã nguội (trà Vũ Di Phúc Kiến, có vị khói là lạ) và cảm thấy đời mình thật lạ lùng, và ở đây cũng thật lạ lùng.
Tôi đẩy cái đĩa ra. “Cảm ơn bác” tôi ngoan ngoãn nói, mắt đảo quanh phòng, “đồ ăn rất ngon ạ” - đấy là nói (như đã thành thói quen gần đây) cho mẹ nghe, để nhỡ may mẹ có đang nghe.
“Lịch sự quá!” Ông nói và cười - cười tôi, nhưng không có ác ý, có vẻ thân thiện là khác. “Cậu thích không?”
“Thích gì ạ?”
“Con tàu Nô-ê của bác. Ông gật đầu về phía tủ búp phê. “Lúc nãy cháu vừa nhìn rất chăm chú, bác nghĩ thế.” Những con thú bằng gỗ đã mòn (voi, hổ, bò, ngựa vằn, cho đến cả một cặp chuột tí xíu) kiên nhẫn sắp hàng chờ đến lượt lên.
“Của bạn ấy à?” Tôi hỏi sau khi say mê ngắm một lúc lâu, bởi mấy con vật được xếp đặt thật tỉ mỉ (lũ hổ tảng lờ nhau, con công trống không nhìn công mái mà ngoảnh sang ngắm bóng mình trong máy nướng bánh), tôi hoàn toàn có thể hình dung cô bé bỏ hàng giờ sắp xếp, tìm cách chọn chỗ thích hợp nhất cho mỗi con.
“Không....” Tay ông lại đan vào nhau trên bàn, “đấy là một trong những món đầu tiên bác mua, ba chục năm trước. Trong một buổi đấu giá Hàng dân gian Hoa Kỳ. Bác không thật thích các thứ nghệ thuật dân gian, chưa bao giờ cả - món này cũng không phải là hàng cao cấp lắm, chẳng ăn nhập gì với bất kỳ thứ gì bác có, nhưng chẳng phải chính thứ không đúng đắn, thứ không hẳn khớp vào chỗ bao giờ cũng lại là thứ khiến người ta thấy thân thương nhất hay sao?”
Tôi ngả người vào ghế, không tài nào giữ chân yên được. “Giờ cháu được gặp bạn ấy chưa ạ?”
“Nếu nó tỉnh rồi...” - ông trề môi - “ờ, chắc là chẳng sao đâu. Những chỉ một phút thôi nhé.” Khi đứng dậy, vóc dáng khổng lồ vai khòng của ông lại làm tôi bất ngờ lần nữa. “Nhưng phải báo trước với cháu nó hơi mơ mơ hồ hồ đấy. À...” đến giữa cửa ông ngoảnh lại - “và nếu được thì tốt nhất đừng nhắc đến Welty.”
“Bạn ấy không biết à?”
“Biết chứ..- ông nói nhanh - “nó biết, nhưng đôi luc khi nghe đến chuyện đó nó lại buồn rầu trở lại. Rồi hỏi chuyện xảy ra khi nào, và tại sao không ai nói với nó hết.”
IIKHI ÔNG MỞ CỬA, rèm đã kéo, mất một lúc mắt tôi mới điều chỉnh được với bóng tối ngát mùi hương và mùi nước hoa, dù lẩn quất vẫn có mùi thuốc, mùi bệnh tật. Trên đầu giường treo một tấm áp phích phim Phù thủy xứ Oz lồng khung. Cây nến thơm đang cháy nốt trong chiếc cốc đỏ, đặt giữa những món trang sức lặt vặt và tràng hạt, bản nhạc, hoa gấp bằng giấy ăn, những thiếp trái tim cũ - cùng với cả trăm tấm thiếp chúc sức khỏe thắt trên ruy băng và một chùm bóng bay bạc lơ lửng rờn rợn trên trần nhà, những sợi dây màu kim loại rủ xuống lòng thòng như tua sứa.
“Có người đến thăm cháu này, Pip.” Hobie nói lớn, giọng vui tươi.
Tôi thấy tấm chăn mỏng khẽ động. Một cái khuỷu tay giơ lên. “Ừm?” một giọng ngái ngủ đáp.
“Trong này tối quá, cháu à. Không chịu cho bác mở rèm ư?”
“Không, bác đừng mở, ánh sáng làm cháu đau mắt.”
Cô bé nhỏ nhắn hơn tôi nhớ, còn mặt cô - một vệt mờ mờ trong bóng tối - thì trắng toát. Đầu đã cạo nhẵn, chỉ còn một chỏm tóc trước trán. Tiến lại gần có phần hãi sợ, tôi nhìn thấy ánh kim loại thoáng lóe trên thái dương cô - chắc là cặp tóc gì đấy, tôi nghĩ trước khi nhận ra ghim phẫu thuật bằng thép vạch một đường cong hiểm độc bên trên vành tai cô.
“Cháu nghe thấy hai người ở hành lang.” cô nói nhỏ, khàn khàn, nhìn từ tôi qua Hobie.
“Nghe thấy gì cơ, bồ câu?” Hobie hỏi.
“Nghe hai người nói chuyện. Cosmo cũng nghe thấy.”
Ban đầu tôi chưa nhìn thấy nó, nhưng rồi cũng thấy - một con chó sục nằm cuộn tròn bên cô, khuất giữa đám gối và thú bông. Khi nó ngẩng đầu, tôi nhìn thấy khuôn mặt lông bạc và đôi mắt kéo màng cho biết nó đã già lắm rồi.
“Bác cứ tưởng cháu đang ngủ, bồ câu à.” Hobie nói và đưa tay qua gãi cằm con chó.
“Bác toàn nói thế, nhưng cháu có ngủ bao giờ đâu. Chào cậu.” cô nói và nhìn tôi.
“Chào cậu.”
“Cậu là ai thế?”
“Tớ tên là Theo.”
“Cậu thích nghe nhạc gì nhất?”
“Tớ chả biết.” tôi đáp, rồi để không có vẻ ngớ ngẩn quá: “Beethoven.”
“Tuyệt quá. Trông cậu đúng là một người thích Beethoven.”
“Thế à?” Tôi hỏi, cảm thấy nghèn nghẹn.
“Ý tớ là khen đấy. Tớ không nghe nhạc được. Tại đầu tớ, đấy. Kinh khủng lắm cơ. Đừng bác.” cô nói với Hobie đang dọn dẹp đống sách vở bông băng và gói khăn giấy trên ghế cạnh giường, lấy chỗ cho tôi ngồi, “cứ để bạn ấy ngồi đây. Cậu ngồi đây đi.” cô nói với tôi và dịch người ra một chút trên giường.
Liếc sang Hobie để được ông đồng ý, tôi ngồi xuống khẽ khàng, chỉ ghé một bên, cẩn thận không làm động đến con chó lúc này đang ngẩng đầu soi mói nhìn.
“Đừng sợ, nó không cắn đâu. Ừm thì, thỉnh thoảng cũng cắn.” Cô nhìn tôi, cặp mắt ngái ngủ. “Tớ biết cậu.”
“Cậu nhớ tớ à?”
“Chúng mình có phải bạn nhau không?”
“Có” tôi đáp liền không nghĩ, rồi lại nhìn sang Hobie, ngượng ngập vì đã nói dối.
“Tớ quên tên cậu rồi, xin lỗi. Nhưng tớ vẫn nhớ mặt cậu.” Rồi, vừa xoa đầu con chó, cô vừa nói: “Tớ còn không nhớ được phòng mình khi về nhà. Tớ vẫn nhớ giường và mọi thứ đồ khác, nhưng căn phòng thì lạ.”
Giờ mắt tôi đã làm quen với bóng tối, đủ để thấy cái xe lăn trong góc phòng và những lọ thuốc trên bàn đầu giường.
“Beethoven cậu thích bài gì nhất?”
“Ờ...” Tôi đang nhìn tay cô đặt trên tấm chăn, lớp da mịn màng mặt trong khuỷu tay có dán một miếng băng cá nhân.
Cô đang nhổm ngồi dậy trên giường, nhìn qua tôi tới nơi Hobie chỉ là một cái bóng bên ngưỡng cửa sáng. “Cháu không được phép nói chuyện quá nhiều phải không?” Cô hỏi.
“Không được, bồ câu à.”
“Cháu có thấy mệt lắm đâu. Nhưng cũng không biết được. Cậu có mệt ban ngày bao giờ không?” Cô hỏi tôi.
“Cũng thỉnh thoảng.” Sau khi mẹ mất, tôi có thói quen ngủ gật giữa lớp hay thỉu đi trong phòng Andy sau giờ học. “Ngày xưa thì không bao giờ.”
“Tớ cũng thế. Giờ thì lúc nào tớ cũng thấy buồn ngủ. Không biết tại sao nhỉ? Tớ thấy thật là chán.”
Hobie - tôi nhận ra khi nhìn lại ô cửa sáng - đã bước ra ngoài một lúc. Không hiểu vì lý do kỳ quái gì, và rất khác với tôi mọi khi, từ nãy đến giờ tôi đã sốt ruột muốn với lấy nắm tay cô; giờ thì ông đi rồi, tôi bèn làm vậy.
“Cậu không ngại chứ?” tôi hỏi. Mọi thứ đều diễn ra rất chậm, như thể tôi đang bơi qua làn nước sâu. Thật lạ lùng khi nắm tay ai đó - nắm tay một cô gái - nhưng cũng thật bình thường đến lạ. Trước đây tôi chưa làm vậy bao giờ.
“Không. Tớ thấy rất vui.” Rồi ngưng một khắc - khiến tôi nghe tiếng con chó ngáy khẽ - có nói: “Cậu không phiền nếu tớ nhắm mắt vài giây chứ?"
“Không” tôi đáp và đưa ngón cái mân mê những khớp ngón tay cô, lần theo các đốt xương.
“Tớ biết là bất lịch sự lắm, nhưng tớ không thể nén được.”
Tôi nhìn xuống đôi mí mắt dưới bóng mi, đôi môi nứt nẻ, sắc tái và những vết bầm tím, những đường chéo kim loại xấu xí trên vành tai. Những điều hấp dẫn nơi cô và những điều đáng ra không thể coi là hấp dẫn, tạo thành một kết hợp lạ lùng, khiến đầu tôi vảng vất và bối rối.
Áy náy, tôi nhìn trở lại, thấy Hobie đang đứng bên cửa. Sau khi rón rén ra khỏi phòng, tôi đóng cửa thật nhẹ sau lưng và mừng thầm rằng hành lang thật tối.
Chúng tôi cùng quay trở lại phòng khách. “Cháu thấy nó thế nào?”ông hỏi khẽ đến mức tôi gần như không nghe thấy.
Tôi biết đáp lại thế nào bây giờ? “Cháu nghĩ là ổn ạ.”
“Nó không còn là chính mình nữa.” Ông ngừng lại âu sầu, hai tay thọc sâu vào túi áo choàng tắm. “Nghĩa là... nó vừa là nó, vừa không phải là nó. Nó không nhận ra rất nhiều người thân thiết với nó, và nói chuyện với họ rất khách khí, nhưng nhiều khi nó lại cởi mở quá mức với người lạ, nói năng thoải mái luôn miệng, với những người nó chưa gặp bao giờ, cứ như là bạn cũ. Người ta bảo đấy cũng là chuyện thường gặp.”
“Sao bạn ấy lại không được nghe nhạc ạ?”
Ông nhướng mày. “Ồ, nó thỉnh thoảng vẫn nghe chứ. Nhưng nhiều lúc, nhất là vào chiều tối, nghe nhạc làm nó phiền lòng - nó nghĩ mình phải tập đàn, phải luyện một bài cho trường, nó trở nên rất bức bối. Rất khó chịu. Còn về chuyện chơi nhạc ở mức nghiệp dư nào đó thì hoàn toàn có thể vào một ngày nào đó, ấy là người ta bảo vậy...”
Bất thình lình chuông cửa reo khiến chúng tôi giật bắn mình.
“A...” Hobie thốt lên, vẻ mặt sầu não, liếc vào đồng hồ đeo tay (tôi thấy rất cổ và cực kỳ tinh xảo), “chắc y tá đến rồi.”
Chúng tôi nhìn nhau; Chuyện giữa chúng tôi còn chưa xong, còn biết bao điều cần nói.
Chuông lại reo. Đầu kia hành lang, con chó đang sủa. “Hôm nay cô ta đến sớm.” Hobie hối hả đi ra cửa, trông vẻ rất thất vọng.
“Cháu quay lại sau được không? Thăm bạn ấy?”
Ông dừng lại. Ông có vẻ thất kinh là tôi lại còn phải hỏi. “Tất nhiên là cháu quay lại được rồi” ông đáp. “Xin cháu hãy quay lại...”
Lại chuông.
“Lúc nào cũng được” Hobie nói. “Xin cháu đấy. Bác và nó lúc nào cũng vui mừng chào đón cháu.”
III
“THẾ LÀ CÓ CHUYỆN GÌ ở đằng đó?” Andy hỏi khi chúng tôi mặc đồ dạ tiệc. “Có kỳ lắm không?” Platt đã đi cho kịp tàu về trường, bà Barbour thì ăn tối với ban quản lý dự án từ thiện nào đó, nên ông Barbour đưa cả đám còn lại đi ăn tối ở câu lạc bộ du thuyền (là nơi chúng tôi chỉ đi khi nào bà Barbour có việc bận).
“Cái ông ở đấy biết mẹ cậu.”
Andy thắt nút cà vạt và nhăn mặt kiểu: ai cũng biết mẹ cậu ta cả.
“Cũng hơi kỳ.” tôi nói. “Nhưng thật may là tớ đã đi. Trả này.” tôi nói và lục trong túi, “cảm ơn đã cho tớ mượn.”
Andy xem có tin nhắn không, rồi tắt đi nhét lại vào túi. Ngưng giữa chừng, tay còn bỏ trong túi, cậu ta ngước lên tuy không nhìn thẳng vào tôi.
“Tớ biết là mọi thứ tệ lắm.” cậu ta bỗng dưng nói. “Tớ rất xin lỗi là cậu lại rơi vào cảnh khốn nạn như thế này.”
Giọng cậu ta - vô cảm như giọng máy trả lời điện thoại tự động - khiến một phút sau tôi mới hiểu ý cậu ta là gì.
“Cô dễ thương kinh khủng.” cậu ta nói mà vẫn chưa n