← Quay lại trang sách

PHẦN 2- Chương 5 - Badr al-Dine

Khi chúng ta hùng mạnh - Ai là kẻ thoái lui?

Ta cuồng hóng - Ai khiến người cười cợt?

Khi chúng ta hằn học - Họ có thể làm gì ta?[62]

— ARTHUR RIMBAUD —

5

Badr al-Dine I

DÙ ĐÃ QUYẾT ĐỊNH cứ để vali trong phòng giữ đồ nhà cũ, Jose và chú Vàng nhất định sẽ trông nom, nhưng tôi vẫn càng lúc càng âu lo khi ngày chuyển nhà tới gần, và cuối cùng ngay trước lúc đi, tôi quyết định quay lại vì một lý do mà giờ nghĩ lại khá ngớ ngẩn: trong lúc vội vàng tìm cách sơ tán bức tranh khỏi căn hộ, tôi đã vứt cả một đống thứ linh tinh vào cái túi đựng tranh, hầu hết quân áo mùa hè đều ở trong đó. Vậy là, một ngày trước hôm bố hẹn tới nhà Barbour đón, tôi hối hả lộn về Phố 57 toan mở vali, lôi ra một hai cái áo đẹp bỏ trên cùng.

Jose không có ở đó, chỉ có một người mới vai bè bè (biển tên viết Marco V) ra trước mặt tôi, chặn đường bằng dáng vẻ đồ sộ và ương ngạnh, ít giống người bảo vệ mà giống nhân viên an ninh hơn. “Tôi giúp gì được cậu?”

Tôi giải thích vụ cái vali. Nhưng sau khi tham cứu quyển sổ, ngón tay mập ú dò theo cột ngày tháng, anh ta chả tỏ vẻ gì là sắp đi vào lấy trên giá xuống cho tôi. “Sao cậu bỏ lại đây chớ?” Anh ta ngờ vực nói, gãi gãi mũi.

“Jose nói cháu bỏ được mà.”

“Cậu có biên nhận chớ?”

"Không,” tôi nói sau một lúc ngơ ngác.

"À. Tôi không giúp cậu được. không có ai ghi lại. Mới lại, chúng tôi không giữ đồ cho người ngoài."

Tôi đã sống ở đây quá lâu để biết rằng không phải thế, nhưng không định tranh luận vụ này. “Nghe này, cháu từng sống ở đây. Cháu quen chú Vàng với Carlos với mọi người nữa. Kìa, giúp cháu đi," tôi nói sau một hồi lâu im lặng lạnh tanh và anh ta có vẻ đã nghĩ sang chuyện khác. “Chú chỉ cần cho cháu vào đấy, cháu chỉ cho ngay mà.”

"Rất tiếc. Chỉ có nhân viên và người sống ở đây được vào trong thôi.”

“Vali bằng vải tay cầm thắt nơ. Có ghi cả tên cháu nữa, thấy không? Decker?” Tôi đang chỉ cái nhãn tên vẫn còn trên hộp thư cũ làm bằng chứng, thì chú Vàng đã hết giờ nghỉ rảo bước vào.

“Ai chà! xem ai nại về đây! Chú nhóc này nà cháu tớ,” chú nói với Marco V “Tớ quen từ hồi chú nùn một mẩu thế này này. Nâu nay cháu ra sao rồi Theo?”

“Không sao ạ. Ờ... bọn cháu sắp rời thành phố.”

“Ai dà? Đã đi Vegas dồi à?” chú Vàng nói. Nghe giọng chú, có bàn tay chủ đặt trên vai tôi, mọi việc đều trở nên dễ dàng, đơn giản. “Sống ở đó kỳ lắm, phải không hả?”

“Cháu nghĩ thế,” tôi băn khoăn đáp. Ai cũng bảo tôi đến Vegas sẽ gặp lắm chuyện quái dị lắm, dù tôi chẳng hiểu vì sao, đâu có phải tôi sẽ lê la sòng bạc hay hộp đêm chứ.

“Cháu nghĩ thế à?” Chú Vàng đảo mắt, lắc đầu, nhè miệng, một kiểu mẹ rất thích bắt chước khi cao hứng muốn đùa cợt. “Ối chà, nói cháu biết nhá. Cái thành phố đó? Mấy công đoàn của nó... nói cháu nghe, nàm nhà hàng khách sạn ấy... kiếm tiền dễ cực, quay đâu cũng ra tiền. Thời tiết nữa? Nắng ra nắng, quanh năm nuôn. Ở đó cháu sẽ thích mê tơi nà chắc. Cháu nói bao giờ thì đi hả?”

“Ừm, hôm nay. À, tức là mai ạ. Thế nên cháu muốn...”

“À, cháu đến nấy túi hả? Tất nhiên rồi’’ Chú Vàng gắt gỏng gì đó bằng tiếng Tây Ban Nha với Marco V, anh này chỉ ơ hờ nhún vai rồi quay lại phòng giữ đồ.

“Cậu đó ổn, Marco ấy,” chú Vàng nhỏ giọng bảo tôi. “Nhưng không biết vụ cái túi vì chú với Jose không ghi sổ, cháu hiểu không?”

Tôi hiểu. Mọi đồ gửi đều phải ghi lại khi đi vào hay ra khỏi tòa nhà. Không đánh dấu tên vali hay ghi lại trong sổ sách chính thức, là họ đang cố bảo vệ tôi khỏi bị ai đó xuất hiện, tìm cách đòi lấy nó.

“À,” tôi lúng búng nói, “cảm ơn các chú đã giúp cháu..’’

“Có gì đâu,” chú Vàng đáp. "Cảm ơn nhá,” chú nói lớn với Marco khi đón lấy cái túi. “Đang nói dở,” chủ tiếp tục, nhỏ giọng, tôi phải đi sát đằng sau mới nghe được, “Marco tốt lắm, nhưng dạo này người thuê nhà cũng phàn nàn nuôn vì thiếu người nàm cái hồi... cháu biết mà.”

Chú ném cho tôi cái nhìn ý nghĩa. “Ý chú nà, hôm nọ Carlos không tới trực được, cũng chả phải nỗi của ông ấy cơ, mà họ cũng đuổi béng.”

“Carlos á?” Carlos là người lớn tuổi nhất, ít nói nhất trong số bảo vệ, như một thần tượng màn bạc Mexico về già với hàng ria con kiến, tóc ở thái dương đã ngả bạc, đôi giày đen lúc nào cũng đánh bóng lộn, còn găng tay thì trắng hơn ai hết. “Họ đuổi Carlos á?”

“Đấy, không tin nổi, hả? Ba mươi tư năm, thế mà...” Chú Vàng giật ngón cái ra sau vai. “Xoẹt. Và giờ thì ban quản lú rùm beng lên, an ninh này an ninh nọ, người mới, luật mới, ra ký sổ vào ký sổ...

“Mà này,” chú nói khi đi lùi vào cửa trước, đẩy nó mở ra. “Để chú gọi taxi cho nhá. Cháu đi thẳng ra sân bay hả?”

“Không ạ...” Tôi nói và giơ tay định ngăn chú lại - tôi mải mê suy nghĩ quá không kịp nhận ra chú đang làm gì, nhưng chú đã gạt tôi qua một bên, “xùy”.

“Không, không,” chú nói khi vác vali ra vỉa hè, “không sao đâu, chú nàm được mà,” và tôi thất chí nhận ra chú tưởng tôi định ngăn chú vác túi ra ngoài vì không có tiền bo.

“Chú Vàng, đợi đã,” tôi nói, nhưng đúng lúc đó chú đã huýt sáo rồi lao bổ ra đường vẫy tay. “Đây! Taxi!” Chú hét.

Tôi đứng sững giữa cửa, phiền lòng, khi cỗ xe lượn sát vào bên cạnh. “Xong!” Chú Vàng nói và kéo cửa sau. “Căn giờ chuẩn hả?” Trước khi kịp nghĩ ra cách ngăn chú lại mà không tỏ ra vô lễ, tôi đã bị đẩy vào ghế sau, cái vali thì lẳng vào thùng xe, còn chú Vàng đã đập bồm bộp lên mui thân thiện như mọi lần.

‘‘Đi an toàn nhá, Amigol[63]’’chú nói và nhìn tôi, rồi nhìn lên trời. “Sưởi nắng thay phần chú nhá. Cháu biết chú mê nắng mà - chú nà con chim nhiệt đới, hiểu không? Chú chỉ mong được về nhà ở Puerto Rico nói chuyện với lũ ong. Ưmmm...” chú ngân nga, nhắm mắt và nghiêng đầu một bên. “Chị chú có cả trại ong, chú hay hát ru chúng nó ngủ. Ở Vegas có ong không?”'

“Cháu không biết,” tôi nói và khẽ sờ trong túi áng chừng xem còn bao nhiêu tiền.

“Ờ, nếu thấy con ong nào, thì gửi nời chào của ông chú già này nhá. Bảo là chú sẽ đến thăm.”

“¡Hey! ¡EsperaP[64]” Đấy là Jose đang giơ một tay lên, vẫn mặc nguyên bộ đồ bóng đá, từ sân bóng trong công viên đi thẳng đến đây, đang đung đưa tiến lại gần tôi, vẫn cái dáng đi nhấp nhô, nhanh nhẹn ấy.

“Ê manito cháu đi đấy à?” Chú hỏi, cúi xuống thò đầu vào cửa xe. “Nhớ gửi ảnh để dán dưới hầm nhé!” Dưới hầm nơi các chú bảo vệ thay đồng phục, có một bức tường dán đầy bưu thiếp và ảnh chụp lấy liền từ Miami và Cancun, Puerto Rico và Bồ Đào Nha mà người thuê nhà cũng như bảo vệ đã gửi về Phố 57 Đông qua nhiều năm.

“Đúng đấy!” Chú Vàng kêu lên. “Nhớ gửi ảnh nhá! Đừng quên nhá!”

“Cháu... ” Cháu sẽ nhớ các chú lắm; nhưng nói ra miệng vậy có vẻ kỳ cục quá. Nên tôi chỉ nói: “Vâng. Bình an nhé.”

“Cháu cũng thế nhé,” Jose nói và lùi lại, tay vẫn giơ. “Tránh xa mấy cái bàn bài bạc ra nhé.”

“Này cậu nhỏ,” người lái xe nói, “tóm lại là cậu có muốn đi đâu không?”

“Nào, nào, ông cứ bình tĩnh, đâu có đó,” chú Vàng bảo ông ta. Rồi quay sang tôi chú nói: “Cháu sẽ ổn thôi, Theo.” Chú vỗ một cái cuối cùng lên xe. “Chúc may mắn nhá. Hy vọng còn gặp nại. Cầu Chúa trông nom cháu.”

II

“ĐỪNG CÓ BẢO LÀ,” bố tôi nói khi đi taxi đến nhà Barbour đón tôi sáng hôm sau, “con định tha cả mớ đó lên máy bay chứ.” Bởi tôi còn một vali nữa ngoài cái đựng bức tranh, là cái ban đầu định mang.

“Tôi nghĩ cháu sẽ bị quá cân mất thôi,” Xandra rú rít. Giữa cái nóng chết người trên vỉa hè, tôi ngửi thấy mùi nước xịt tóc của cô ta từ tận đây. “Chỉ được mang có một lượng nhất định thôi.”

Bà Barbour đã đi cùng tôi xuống nhà, ngọt nhạt nói: “Ồ, có hai cái này thì không sao. Tôi bị quá cân suốt.”

“Phải, nhưng sẽ mất tiền.”

“Thật ra, anh sẽ thấy là khá vừa phải,” bà Barbour đáp. Dù hãy còn sớm, và bà không mang trang sức cũng không trang điểm, nhưng không hiểu sao chỉ với váy vải và xăng đan bà vẫn toát ra vẻ phục sức chỉnh tề không chê vào đâu được. “Có thể sẽ phải trả hai chục đô ở quầy thủ tục, nhưng vậy cũng đâu có sao, phải không?”

Bà với bố tôi gườm gườm nhìn nhau như một cặp mèo. Rồi bố tôi đánh mắt đi trước. Tôi vẫn còn hơi xấu hổ vì cái áo vét xấu xí bố mặc, nó khiến tôi nghĩ đến những người bị đăng ảnh trên tờ Daily News vì nghi án gian lận.

“Con phải nói trước là có hai vali chứ,” bố hầm hừ nói sau quãng lặng (khiến tối rất biết ơn) tiếp theo nhận xét rất có lợi của bà. “Không biết từng ấy thứ có cho nổi vào thùng không nữa.”

Đứng bên vỉa hè, thùng xe taxi để mở, tôi suýt nữa đã để lại cái vali cho bà Barbour và sau này sẽ gọi điện nói cho bà biết có gì ở trong. Nhưng chưa kịp quyết định gì hết, người lái gốc Nga có đôi vai rộng đã bỏ đồ của Xandra khỏi thùng xe, nâng bổng cái vali thứ hai của tôi nhét vào, và sau khi dọn dẹp đụng độ tí chút đã nhồi được kín kẽ.

“Đấy, có nặng lắm đâu!” Ông ta nói, dập mạnh nắp thùng xuống và lau trán. “Vải mà!”

“Nhưng còn cái vali con của tôi!” Xandra hốt hoảng.

“Không sao cả thưa ma-đam. Nó có thể ngồi ghế trước với tôi. Hoặc ghế sau với bà nếu bà muốn.”

“Vậy là xong cả,” bà Barbour nói và ghé lại gần hôn phớt lên má tôi, lần đầu tiên kể từ khi tôi đến, cái hôn gió kiểu chào xã giao có mùi bạc hà và hoa dành dành. “Chúc cả nhà thuận buồm xuôi gió,” bà nói. “Chúc chuyến đi tốt lành.” Andy và tôi đã chia tay nhau từ hôm qua; dù biết cậu ta rất buồn khi tôi đi nhưng tôi vẫn ấm ức vì cậu không ở lại tiễn mình, mà đi cùng cả nhà lên căn nhà ở Maine luôn miệng kêu ghét. Còn bà Barbour, bà cũng không có vẻ quá rầu rĩ khi đưa chân tôi, dù nói thật là tôi chỉ muốn phát khóc vì không được ở lại.

Cặp mắt xám của bà nhìn mắt tôi, sáng rõ lạnh lùng. “Cảm ơn bác nhiều lắm, bác Barbour,” tôi nói. “Vì mọi thứ. Cho cháu gửi lời chào Andy.”

“Tất nhiên,” bà nói. “Có cháu làm khách rất vui, Theo ạ.” Giữa sức nóng mờ mịt ban trưa ở Đại lộ Công viên, tôi cố nắm tay bà lâu hơn một chút, lòng còn hy vọng bà sẽ bảo hãy liên lạc với bà nếu cần gì đó - nhưng bà chỉ nói, “Thượng lộ bình an,” đặt thêm một cái hôn phớt lạnh lẽo trên má tôi rồi đi.

III

TÔI VẴN CÒN CHƯA THẤM ĐƯỢC rằng mình đang rời New York. Cả đời tôi chưa bao giờ đi khỏi thành phố quá tám ngày.

Trên đường ra sân bay, nhìn ra cửa sổ ngắm những biển quảng cáo câu lạc bộ thoát y hay luật sư về thương tổn cá nhân mà chắc còn lâu nữa mới được thấy lại, một ý nghĩ lạnh gáy đến với tôi. Thế còn cửa kiểm tra an ninh? Tôi chưa có kinh nghiệm bay mấy (chỉ có hai lần, một lần tận hồi mẫu giáo), và tôi còn không biết người ta làm gì ở cửa kiểm tra an ninh nữa: soi X-quang? hay lục đồ đạc?

“Ở sân bay người ta có mở tung các thứ ra không?” tôi rụt rè hỏi, rồi nhắc lại lần nữa, vì xem ra chả ai nghe thấy tôi. Tôi đang ngồi ở ghế trước, để bố với Xandra được riêng tư mà tình tứ với nhau.

“À, dĩ nhiên,” tài xế đáp. Đấy là một tay Nga Xô vạm vỡ vai lớn, nét mặt thô tháp, má đỏ ửng ướt mồ hôi, như một cựu đô vật phát phì. “Còn nếu không mở sẽ soi tia X.”

“Kể cả với đồ gửi ạ?”

“À, tất nhiên,” ông ta có vẻ muốn trấn an tôi. “Tất cả đều được quét tìm chất nổ, gì cũng vậy. An toàn lắm.”

“Nhưng mà...” Tôi cố nghĩ xem có cách nào nêu được thắc mắc của mình mà không lộ ra điều cần giấu, nhưng nghĩ không ra.

“Không lo đâu,” ông tài nói. “Sân bay nhiều cảnh sát. Lại còn ba bốn ngày trước ấy à? Chắn đường.”

“Hừ, chỉ biết một điều là mình đang thèm được cút xéo ra khỏi đây chết đi được.” Xandra cất giọng khào khào nói. Trong một phút ngỡ ngàng tôi tưởng cô ta đang nói với mình, nhưng nhìn lại thì thấy cô ta đang quay về phía bố.

Bố đang đặt tay trên đầu gối cô ta, nói gì đó quá nhỏ không nghe được. Ông đeo kính râm, dựa người và ngật đầu trên băng ghế sau, cái giọng đều đều lại có vẻ gì đó rất phóng túng trẻ trung, điều bí mật nào đó đã đi qua giữa họ khi ông bóp đùi Xandra. Tôi ngoảnh đi, nhìn ra cảnh quạnh hiu đang vùn vụt trước mắt: những căn nhà dài và thấp, hàng rượu và phụ tùng ô tô, những bãi để xe rung rinh trong sức nóng buổi sớm.

“Đấy, em chẳng lo có 7 trong số hiệu chuyến bay,” Xandra đang lặng lẽ nói. “8 mới làm em hoảng.”

“Ừ, nhưng ở Trung Quốc 8 là số phúc đấy. Cứ xem bảng chuyến bay quốc tế khi nào đậu xuống McCarran. Tất cả các chuyến từ Trung Quốc đến? Ba con 8.”

“Cái mớ trí tuệ Trung Hoa ba lăng nhăng nhà anh.”

“Mô hình các số. Vấn đề là năng lượng thôi. Thiên địa gặp gỡ.” “Thiên với chả địa. Anh làm như ma thuật không bằng.”

“Thật.”

“Thế cơ đấy.”

Hai bên đang thì thào. Trong gương chiếu hậu là hai khuôn mặt phởn phơ kề sát nhau; khi nhận ra họ sắp hôn nhau (không hiểu sao vẫn làm tôi giật mình, dù đã chứng kiến liên tục), tôi quay người nhìn thẳng phía trước. Tôi vừa nhận ra rằng nếu không phải mình đã biết nguyên nhân mẹ chết, thì chẳng có gì trên trái đất này thuyết phục được tôi rằng không phải hai kẻ kia vừa bày kế hãm hại mẹ.

IV

TRONG LÚC ĐỢI LẤY THẺ lên máy bay tôi cứng đơ người vì sợ, chỉ chực thấy nhân viên an ninh mở toang vali rồi phát hiện ra bức tranh ngay trong hàng xếp đợi làm thủ tục. Nhưng bà nhân viên quạu quọ có kiểu tóc đánh rối mà khuôn mặt tôi còn nhớ đến giờ (tôi đã liên tục cầu khấn đừng là bà ta khi đến lượt mình) nhấc bổng vali lên băng chuyền mà chẳng liếc lấy một cái.

Trong lúc nhìn cái vali lục khục trôi về phía những nhân viên và thủ tục còn chưa được tận tường, tôi cảm thấy bị vây hãm, sợ điếng người vì cơn sóng người lạ bát nháo xung quanh, đồng thời thấy mình nổi bần bật giữa đám đông như thể ai cũng đang dồn mắt vào mình. Tôi chưa từng lọt vào giữa đám đông dày đặc như thế, chứng kiến nhiều cảnh sát ở một nơi như thế bao giờ từ hôm mẹ mất. Vệ binh Quốc gia đeo súng trường đứng cạnh máy dò kim loại, đứng nghiêm trong bộ áo rằn ri, cặp mắt sắc lạnh đảo khắp đám người.

Ba-lô, cặp táp, túi dết, xe lôi, nhìn hết sảnh đi chỉ thấy những đầu là đầu. Khi đi trong hàng chờ soi tôi nghe tiếng thét - ai đó gọi tôi, tôi nghĩ thế. Tôi cứng người.

“Đi đi, đi đi,” bố tôi giục, nhảy lò cò sau lưng tôi tìm cách tháo giày và thọc tay vào lưng tôi, “đừng có đứng đơ ra đó, con làm tắc mẹ nó cả hàng rồi...”

Qua máy dò kim loại, tôi cắm mắt xuống thảm - người cứng đờ vì sợ, chờ một bàn tay rơi xuống vai bất cứ lúc nào. Trẻ sơ sinh khóc mếu. Người già ro ro lướt qua trong những xe đẩy có động cơ. Họ sẽ làm gì tôi? Tôi có cách nào thuyết phục họ là chuyện không phải như vẻ ngoài hay không? Tôi mường tượng những phòng tường xi măng như trong phim, cửa đóng sầm, cảnh sát mặc sơ mi giận dữ, quên đi, mày sẽ không ra khỏi chốn này được đâu nhóc con ạ.

Khi đã qua cổng an ninh rồi, vào đến hành lang âm vang, tôi nghe những tiếng chân bước quả quyết theo sát sau lưng mình. Lần nữa tôi khựng lại.

“Đừng có bảo là con để quên thứ gì nhé,” bố tôi quay lại, đảo mắt khó chịu.

“Không có,” tôi nhìn quanh. “Con chỉ...” Sau lưng tôi không có ai. Khách đi ào qua tôi cả hai phía.

“Oài, thằng bé trắng bệch như ma ấy,” Xandra nói. Quay sang bố tôi, cô ta hỏi: “Nó không sao chứ?”

“Ồ, nó chẳng sao đâu,” bố tôi nói và lại quay mình đi tiếp. “Lên máy bay là ổn thôi. Tuần vừa qua thật khổ cho tất cả.”

“Hừm, nếu là nó em cũng sẽ hoảng vía không muốn lên máy bay, ’ Xandra nói sỗ. “Sau những gì nó đã phải trải qua.”

Bố tôi đang kéo cái vali nhỏ có bánh xe theo sau, một món quà sinh nhật của mẹ từ vài năm trước, chợt dừng lại.

“Khổ thân nhóc,” ông nói và tôi bất ngờ trước ánh mắt nhân từ ấy. “Con không sợ chứ hả?”

“Không,” tôi bật ra quá nhanh. Tôi chẳng hề muốn người khác chú ý đến mình, không muốn tỏ ra dù chỉ một phần nhỏ cảm giác lộn lạo trong bụng.

Ông nhíu mày nhìn tôi rồi quay đi. “Xandra?” Ông hỏi cô ta và hất hàm. “Có khi em nên cho thằng bé một ít, cái đấy ấy.”

“Hiểu rồi,” Xandra nhanh nhảu đáp, dừng lại lúi húi trong ví rồi lôi ra hai viên thuốc trắng lớn hình viên đạn. Một viên cô thả vào bàn tay chìa ra của bố, viên kia cho tôi.

“Cảm ơn,” bố nói rồi bỏ vào túi áo khoác. “Ta kiếm cái gì ực nó xuống cái nhỉ? Cất đi,” ông nói khi thấy tôi cầm ngón cái và ngón trỏ giơ lên, ngạc nhiên vì viên thuốc quá lớn.

“Nó không cần uống cả đâu,” Xandra nói và tóm chặt tay bố tôi, nghiêng người một bên sửa dây buộc đôi xăng đan đế thuyền.

“Được rồi,” bố đáp. Ông lấy lại viên thuốc của tôi rồi bẻ làm đôi rất điệu nghệ, một nửa bỏ vào túi áo vét rồi cùng Xandra lướt lên phía trước, đồ đạc kéo đằng sau.

V

VIÊN THUỐC KHÔNG ĐỦ MẠNH cho tôi ngất, nhưng cũng khiến tôi khá phê và phấn khởi, hẫng chân rơi vào rồi lại vọt lên khỏi những giấc mơ lành lạnh của điều hòa. Hành khách bay cùng đang thì thào khắp bốn bề, giọng nói thoát xác của cô tiếp viên nào đó đọc kết quả cuộc xổ số giữa chuyến bay, giải là bữa tối có rượu dành cho hai người tại Đảo Giấu Vàng. Lời hứa hẹn thì thầm của cô đưa tôi vào giấc mơ, khiến tôi bơi dưới đáy làn nước màu xanh đen giữa ánh đuốc, một cuộc thi gì đó với tụi trẻ con Nhật Bản lặn tìm vỏ gối đựng đầy ngọc trai hồng. Trong khi đó thì máy bay vẫn gầm rú, sáng chói, trắng toát và thường trực như biển, dù đến một thời điểm kỳ bí nào đó - quấn chặt trong cái chăn màu xanh lam hoàng tộc, mơ màng nơi đâu đó tít cao trên sa mạc - hình như các động cơ đã tắt, im phắc khiến tôi thấy mình đang nằm ngửa, lơ lửng bay lên giữa chân không tuy vẫn ngồi trong ghế thắt dây an toàn, bản thân cái ghế dường như đã tách rời các ghế khác, tự do trôi khắp khoang máy bay.

Tôi giật mình rơi bộp trở lại vào thân xác khi máy bay chạm đường băng rồi nảy lên và phanh gấp dừng lại.

“Và... chào mừng đến Nghĩa Địa Tiền Lương[65], Nevada,” giọng người phi công đang phát ra trên loa. “Giờ địa phương ở Thành Phố Tội Lỗi[66] đang là 11 giờ 47 phút sáng.”

Lóa mắt vì ánh đèn, tường kính và các bề mặt phản quang, tôi lót tót đi theo bố và Xandra qua nhà ga, điếc tai vì tiếng xoành xoạch và ánh lóa từ các máy đánh bạc tự động và tiếng nhạc gào thét rất không thích hợp với buổi sáng. Sân bay này giống như Quảng trường Thời đại cỡ trung tâm thương mại: những cây cọ lừng lững, màn hình điện tử chiếu pháo hoa và thuyền gondola và gái nhảy và ca sĩ và người nhào lộn.

Mãi mới thấy cái vali thứ hai của tôi hiện ra trên băng chuyền. Tôi vừa cắn móng tay vừa nhìn chằm chằm cái biển vẽ hình con rồng komodo cười nhăn nhở, quảng cáo cho món kỳ thú nào đó ở sòng bạc: “Hơn 2.000 bò sát đang chờ quý khách.” Đám đông lòe loẹt chờ hành lý trông như một đám khách muộn tụ tập trước một hộp đêm hạng ba nào đấy: cháy nắng, áo lòe loẹt, những cô nàng người Á loắt choắt đeo đầy hạt xoàn với những cặp kính râm hàng hiệu đại tướng. Cái băng chuyền cứ chạy vòng hầu như rỗng không, còn bố tôi (thấy rõ là đang thèm thuốc lá) đã bắt đầu đi đi lại lại, duỗi chân duỗi cẳng và cọ mu bàn tay vào má như mỗi lần sắp uống rượu thì nó đến, cái cuối cùng, vải kaki, nhãn đỏ, cái nơ đủ màu mẹ đã thắt trên tay cầm.

Bố tôi sải một bước dài, lao tới chộp lấy nó trước khi tôi tóm kịp. “Cũng đúng lúc,” ông vui vẻ nói và lẳng nó lên xe đẩy hàng. “Nào chuồn gấp khỏi đây thôi.”

Chúng tôi lượn qua cửa tự động, lao thẳng vào một bức tường hơi nóng ngạt thở. Hàng dặm xe trong bãi trải ra khắp các hướng xung quanh, im lìm dưới mái che. Tôi ưỡn người nhìn thẳng phía trước - những lưỡi dao crom lóe lên, đường chân trời rung rinh như thủy tinh rợn sóng - như sợ nếu ngập ngừng hay ngoảnh lại, sẽ có kẻ mặc đồng phục nào đó bước lên trước mặt chúng tôi. Nhưng chẳng ai tóm cổ tôi hay quát thét bắt dừng lại cả. Thậm chí còn chẳng ai liếc nhìn.

Ánh sáng làm tôi quáng mắt đến nỗi khi bố tôi dừng lại trước một con xe Lexus bạc mới coóng bảo, “Okay, đây rồi,” tôi bị vấp và suýt ngã nhào xuống vệ đường.

“Xe của hai người đây ư?” Tôi hỏi, nhìn bâng quơ giữa cả hai.

“Sao?” Xandra điệu đà hỏi và lộp bộp gõ giày qua phía ghế phụ, trong lúc bố tôi bấm khóa mở. “Con không thích hả?”

Lexus ư? Mỗi ngày tôi lại choáng ngợp vì đủ thứ chuyện cả to lẫn nhỏ cần phải kể với mẹ ngay tức khắc, và trong khi ngẩn ra nhìn bố tôi bỏ vali vào thùng xe, ý nghĩ đầu tiên trong đầu tôi là: Uầy, mẹ sẽ ngạc nhiên lắm đây. Thảo nào bố chẳng hề có ý định gửi tiền về.

Bố tôi khoát tay vứt điếu Viceroy hút dở. “Được rồi,” ông nói, “mời chú.” Không khí sa mạc làm ông hoạt bát hẳn lên. Ở New York, trông ông cỏ vẻ nhàu nhĩ, đáng ngờ, nhưng trong cái nóng tỏa sóng này cái áo vét trắng phớ và cặp kính mát trùm băng đảng lại có vẻ rất đúng chỗ.

Cái xe - khởi động ngay khi bấm nút -chạy êm đến nỗi thoạt đầu tôi không nhận ra đang chạy. Xe lướt đi trên đường, hòa vào không gian vô đáy. Đã quen nảy tưng tưng dưới ghế sau taxi rồi, sự êm ru mát rượi này mang vẻ hơi ghê rợn như tách hẳn với cuộc sống: cát nâu, ánh lóa độc địa, im như ru, lặng như tờ, rác bẩn bay phần phật trên hàng rào xích. Tôi vẫn còn hơi lâng lâng tê mụ vì viên thuốc, và những mặt tiền nhà cùng kiến trúc điên rồ dọc Dải Las Vegas, khúc đường trung tâm thành phố, cùng ánh lấp lánh xói vào mắt nơi những ụ cát tiếp giáp bầu trời khiến tôi cảm giác mình vừa hạ cánh xuống một hành tinh lạ.

Xandra và bố tôi nãy giờ rầm rì nói chuyện ở ghế trước. Giờ thì cô ta quay sang tôi, nổ bong bóng cao su lách tách, phấn khởi và tươi tắn, trang sức lóe sáng trong ánh nắng chói. “Sao, chú bé nghĩ sao?” Cô ta hỏi và phả ra một hơi đậm mùi Juicy Fruit.

“Choáng thật,” tôi nói, nhìn ra cửa xe nơi một kim tự tháp rồi một tòa Eiffel vừa lướt qua, quá sững sờ chưa tiêu hóa được mọi thứ.

“Mới thế con đã thấy choáng rồi sao?” Bố tôi hỏi và gõ gõ móng tay lên bánh lái, trong trí nhớ tôi cái kiểu đó vẫn gắn liền với sự căng thẳng hay những cuộc cãi cọ nửa đêm sau khi ông đi làm về. “Hãy đợi tới đêm khi tất cả sáng bừng lên.”

“Đằng kia, kìa,” Xandra nói và đưa tay chỉ qua cửa sổ đằng bố tôi. “Núi lửa đấy. Chạy được hẳn hoi đấy.”

“Thực ra là bố nghĩ người ta đang tân tạo lại. Nhưng về lý thuyết thì chạy được. Dung nham nóng. Mỗi giờ một lần, lúc giờ đúng.”

“Rẽ trái khỏi đường cao tốc sau hai dặm nữa,” giọng nữ trong máy nói.

Những màu sắc lễ hội hóa trang, những đầu chú hề cao bằng nhà, những tấm biển XXX: không khí lạ lẫm làm tôi phấn khởi, và cũng sợ hãi chút đỉnh. Ở New York, cái gì cũng khiến tôi nghĩ tới mẹ - từng chiếc taxi, từng góc phố, từng đám mây bay ngang mặt trời - nhưng ở xứ khoáng hoang vu nóng nực này, thật cứ như mẹ chưa hề tồn tại; tôi còn chẳng hình dung được mẹ đang từ trên trời cao nhìn xuống nữa. Mọi dấu vết của mẹ dường như đã bị đốt mất tăm tích trong bầu không khí loãng sa mạc.

Trong lúc đi, đường chân trời quái lạ dần thu lại thành một rừng lộn xộn những bãi để xe và cửa hàng đồ hiệu, những lượt trung tâm thương mại vô thân thế nối đuôi nhau, Circuit City, Toys “R” Us, siêu thị, tiệm thuốc, Mở Cửa Hai Tư Giờ, không biết đâu là điểm kết thúc hay bắt đầu. Bầu trời rộng không nếp hằn, như bầu trời trên biển. Trong lúc nỗ lực cố không ngủ thiếp đi - mắt chớp chớp tránh nắng - tôi đang ngẫm nghĩ trong cơn mơ màng về cái mùi da thuộc đắt tiền bốc ra từ nội thất ô tô và nhớ lại một câu chuyện thường nghe mẹ kể: rằng hồi bố mẹ còn đang tìm hiểu, bố vẫn tới đón mẹ bằng một chiếc Porsche mượn của bạn để gây ấn tượng. Mãi đến lúc lấy nhau rồi mẹ mới biết không phải xe của bố. Lúc ấy hình như mẹ nghĩ thế là buồn cười lắm - dù xét theo cả những việc khác ít thú vị hơn mà sau đám cưới mới tôi ra (như tiền sử bị bắt hồi vị thành niên không rõ tội danh gì), tôi không hiểu sao mẹ lại thấy chuyện ấy có gì hay ho cho được.

“Ừm, bố có xe này bao lâu rồi?” Tôi lớn giọng hỏi, ngắt giữa câu chuyện ở băng trước.

“Ờm... thì... đến giờ đã hơn một năm rồi, phải không Xan?”

Một năm ư? Tôi vẫn còn đang xử lý thông tin này - thế nghĩa là bố tôi đã vớ được chiếc xe (và Xandra) từ trước cả khi biến mất - thì ngẩng lên thấy những khu mua sắm đã nhường chỗ cho một bàn cờ dường như vô tận toàn những nhà trát vữa trắng nhỏ. Bất chấp vẻ đồng phục vuông vức trắng bợt - hàng dãy kề nhau như những tấm bia mộ - thì có vài nhà lại sơn màu nhạt trông rất hội hè (màu xanh bạc hà, màu hồng nông trang, màu lam sa mạc pha trắng sữa), và những cái bóng đậm nét trên mặt đất cùng đủ thứ cây sa mạc tua tủa gai toát ra vẻ gì đó xa lạ cực kỳ thu hút. Lớn lên ở thành phố nơi không gian chẳng bao giờ đủ, tôi thật lấy làm ngạc nhiên một cách hài lòng. Được sống trong nhà có sân vườn là một điều mới mẻ, dù vườn chỉ toàn đá nâu và xương rồng.

“Đây vẫn là Las Vegas ư?” Tôi đã bày trò chơi cố tìm xem có điểm gì khác nhau giữa các nhà: nhà này có cửa hình vòm, nhà kia có bể bơi hay cây cọ.

“Giờ con đang thấy một nơi hoàn toàn khác rồi,” bố tôi nói, thở hắt ra và dụi tắt điếu Viceroy thứ ba. “Đây là phần mà khách du lịch không bao giờ biết.”

Dù đã đi được một hồi lâu nhưng tôi chưa hề thấy gì có thể đánh dấu đường hết, thật khó mà biết chúng tôi đang đi đâu, thậm chí đi về phía nào. Đường chân trời mãi không thay đổi, cứ đều đều như thế, và tôi đang sợ rồi sẽ lại đi qua hết khu nhà màu nhạt này đến bãi hoang tàn đá sỏi sau đó, rẽ vào một bãi nhà lưu động chết nắng như trong phim. Nhưng trái lại, tôi ngạc nhiên thấy nhà cửa dần lớn hơn: giờ là nhà hai tầng, với những vườn xương rồng, với hàng rào, bể bơi, ga-ra để được vài xe.

“Okay, đến nơi rồi,” bố tôi nói và ngoặt vào con đường có tấm biển đá hoa lừng lững khắc kiểu chữ viết tay bay bướm: Trang Trại Dưới Bóng Vực.

“Bố sống ở đây á?” Tôi trầm trồ hỏi. “Có cả vực cơ à?”

“Không, họ chỉ đặt tên thế thôi,” Xandra đáp.

“Họ có cả đống dự án phát triển nhà khác nhau ở đây, hiểu không.” bố nói và bóp sống mũi. Nghe giọng ông, cái giọng ngàn ngạt thèm rượu khi xưa của ông, tôi nhận ra ông đang mệt và không hứng thú chuyện trò.

“Gọi là các cộng đồng trang trại.” Xandra nói.

“Ừ. Sao cũng được. Thôi câm mồm đi,” bố tôi quặc và thò tay vặn nhỏ tiếng phần mềm dẫn đường lại vừa véo von chỉ dẫn.

“Có đủ mọi phong cách khác nhau,” Xandra nói và chấm chấm son bóng bằng mặt ngón út. “Gió Làng Mọi này, Sống Núi Ma, Biệt Thự Hươu Múa. Cờ Hồn, là cộng đồng chơi gôn? Còn Encantada[67] là chỗ hoành tráng nhất, cả đống công ty đầu tư... Này, cưng ơi, rẽ đây,” cô ta nói và vịn lấy tay ông.

Bố tôi cứ thế đi thẳng, chẳng trả lời.

“Mẹ kiếp!” Xandra xoay cả người lại, nhìn lối đường lùi xa sau lưng. “Sao lúc nào anh cũng phải đi đường vòng thế?”

“Không có đường tắt đường tiếc gì hết. Em thật chả hơn gì con mụ Lexus.”

“Ừ, nhưng đường đấy nhanh hơn. Tận mười lăm phút cơ. Giờ thì chúng mình lại phải đi vòng qua Hươu Múa.”

Bố tôi thở hắt ra bực bội. “Này.

“Sao anh không thể rẽ ra đằng Lối mòn Di Gan rồi rẽ trái hai lần rẽ phải một lần? Vì tất cả chỉ có thế. Nếu anh đâm ra Desatoya...”

“Này. Em muốn lái xe không? Hay muốn để yên cho thằng này lái?”

Tôi đã quá biết đừng bao giờ tranh cãi khi bố tôi nói bằng giọng đó, và rõ là Xandra cũng vậy. Cô ta nhấp nhổm vặn vẹo trên ghế rồi, rất chậm rãi, như để cố tình chọc tức, vặn radio lên thật lớn rồi dò qua các kênh quảng cáo và tiếng nhiễu.

Dàn âm thanh ồn đến nỗi tôi thấy cả cái lưng ghế da trắng cũng rung lên bần bật. Đi nghỉ, tôi chẳng muốn gì ngoài đi nghỉ... Ánh sáng mọc lên rồi bùng ra giữa những đám mây sa mạc lộn xộn - bầu trời không điểm dừng, xanh găn gắt, như trong trò chơi điện tử hay trong ảo giác của một phi công tập lái.

“Kênh Vegas 99, nhạc thập niên 80 và 90,” cái giọng liến thoắng phấn khích trên đài nói. “Và tiếp theo mời quý vị nghe Pat Benatar, trong giờ ban trưa pa Những Năm Tám Mươi Múa Cột.”

Ở khu Biệt Thự Trại Desatoya, tại 6219 Phố Cuối Sa mạc, nơi gỗ chất đống trong vài sân nhà còn cát bay tung ngoài mọi con phố, chúng tôi rẽ vào lối xe lên của một tòa nhà khá lớn kiểu cách Tây Ban Nha - hay kiểu Moor cũng nên, vữa trắng sơn be, có cửa chớp, đầu hồi hình vòm, mái lợp ngói thành nhiều góc nghiêng vút. Tôi thật ấn tượng trước cái vẻ bò lan vô hướng của căn nhà này, những cột nhà và mũ cột, những cửa sắt uốn tinh xảo mang hơi hướng sân khấu, như loại nhà trong bộ phim truyền hình dài tập kênh Telemundo các chú bảo vệ bật cả ngày trong phòng giữ đồ.

Chúng tôi ra khỏi xe, đang lôi vali vòng qua cửa ga-ra thì tôi nghe một âm thanh ảo não rợn gáy: không rõ là tiếng hét hay tiếng khóc thoát ra từ trong nhà.

“Ối, cái gì thế?” Tôi đánh rơi cả vali, rùng mình hỏi.

Xandra đang nghiêng người lục tìm chìa khóa, hơi loạng choạng trên đôi giày, và lẩm bẩm, “Ôi im đi, im đi, im đi con khỉ nợ.” Trước khi cô ta kịp mở rộng cửa thì một nắm lông cứng quèo điên dại đã vọt ra ngoài rú rít, rồi bắt đầu nhảy tâng tâng loạn xị ngậu khắp quanh ba người chúng tôi.

“Ngồi!” Xandra quát. Qua cánh cửa hé, nhạc sàn châu Phi (tiếng voi rống, tiếng khỉ réo) bật lớn đến mức từ nãy trong ga-ra tôi đã nghe thấy.

“Ôi,” tôi thốt lên và ngó vào trong. Bên trong không khí có vẻ vừa nực vừa chua: mùi thuốc lá để lâu, mùi thảm mới, và mùi cứt chó không lẫn vào đâu được.

“Với những người coi thú, các loài thú lớn họ nhà mèo lại khiến nảy sinh những khó khăn không giống bất cứ loài gì khác,” giọng trên tivi ông ổng. “Chúng ta hãy cùng theo Andrea và các đồng nghiệp của cô đi một vòng vào buổi sáng.”

“Này,” tôi nói và giữ vali, đứng bên cửa, “hai người quên tắt tivi rồi.”

“Ừ,” Xandra nói và đi lướt qua tôi, “Thế giới động vật đấy, tôi để bật cho Popper. Tao bảo ngồi xuống cơ mà!” Cô ta vặc con chó đang cào cào lên đầu gối, rồi khập khễnh đi vào trên đôi giày cao gót để tắt tivi.

“Nó ở nhà một mình ư?” Tôi nói giữa tiếng rít của con chó. Đấy là loại chó lông dài rất yểu điệu mà nếu sạch, hẳn sẽ xù lông trắng trẻo lắm.

“Ồi, nó đã có vòi nước uống hiệu Petco rồi,” Xandra nói và đưa mu bàn tay lau trán khi bước qua người con chó. “Với mấy cái nhả đồ ăn to to nữa?”

“Giống gì thế ạ?”

“Maltese. Thuần chủng đấy. Tôi thắng xổ số được. Ừ, đúng là nó lâu không tắm thật, mấy con này chăm phiền kinh, ừ, ừ, xem mày làm gì quần tao rồi đây này,” cô ta nói với con chó. “Quần trắng cơ đấy.”

Chúng tôi đứng giữa một phòng lớn rộng rãi, trần cao, có cầu thang chạy lên một thứ phòng lửng có rào chắn nằm một bên - căn phòng to gần bằng cái căn hộ tuổi thơ tôi. Nhưng khi mắt đã quen với ánh sáng chói lóa, tôi mới nhận ra căn phòng gần như trống trơn. Tường trắng phếch. Lò sưởi đá, tạo cảm giác đang trong một chòi săn. Xô pha trông như gỡ ra từ phòng chờ bệnh viện. Trọn bức tường từ cửa kính dẫn ra hiên là một tủ âm nhiều ngăn, hầu như chẳng xếp đặt gì.

Bố tôi khệ nệ đi vào, buông mấy cái vali xuống thảm. “Giời ạ, Xan, trong này toàn mùi cứt chó.”

Xandra cúi người đặt cái ví xuống, nhăn mặt khi con chó lại nhảy tưng tưng, cuống cuồng vồ lên người cô ta. “À, Janet đã hứa qua thả ra ngoài,” cô ta nói át tiếng rít cuồng loạn của con chó. “Nó có chìa khóa rồi cơ mà. Trời ạ, Popper,” cô ta nhăn mũi và ngoảnh đi, “mày thối quá.”

Vẻ trống trải của căn nhà làm tôi sững người. Cho tới lúc đó tôi chưa hề băn khoăn việc tại sao phải bán hết sách vở, thảm hay đồ cổ của mẹ đi, còn các thứ khác phải tống khứ cho từ thiện hay ra bãi rác. Tôi đã lớn lên trong một căn hộ bốn phòng, tủ nào tủ nấy lèn ứ đồ đến mức muốn tràn ra ngoài, giường nào cũng ngự trên một đống hộp, nồi chảo treo lên trần nhà vì tủ đã hết chỗ. Nhưng... có khó gì đâu nếu mang vài món đồ của mẹ về đây, như cái hộp bạc của bà ngoại, hay bức tranh con ngựa cái màu hạt dẻ trông như tranh của Stubbs[68], hay thậm chí là cuốn Ngựa ô yêu dấu[69] mẹ từng đọc hồi còn nhỏ! Đặt vài bức tranh đẹp hay vài món đồ gỗ quý thừa hưởng của bà ngoại vào đây chẳng phải thích hợp sao. Bố vứt hết đồ của mẹ đi chỉ bởi vì bố ghét mẹ.

“Chúa ơi,” bố tức giận cao giọng, cố át tiếng sủa rin rít. “Con chó này đã phá nát cả cái nhà rồi. Chính thế.”

“Ờ, em không biết... em biết là kinh lắm nhưng Janet đã bảo…”

“Anh đã nói rồi, đáng nhẽ em phải cho nó đến trại chó. Hoặc là, anh không biết nữa, đưa nó vào trạm cứu hộ động vật chẳng hạn. Anh không thích để nó trong nhà. Chỗ của nó là ở ngoài đường. Chẳng phải anh đã bảo em là sẽ rắc rối lắm sao? Janet đúng là đồ chảy thây…”

“Ừ, thì nó ị lên thảm vài lần đấy? Thế thì sao? Thế còn... mày nhìn cái quái gì vậy?” Xandra tức tối đáp trả, bước chân qua con chó đang gào tướng - và hơi giật mình, tôi nhận ra mình chính là kẻ cô ta vừa quắc mắt nhìn.

VI

CĂN PHÒNG MỚI CỦA TÔI trông có vẻ trống trải, cô đơn, đến nỗi xếp đồ xong, tôi để hé cánh cửa tủ để vẫn nhìn thấy quần áo treo bên trong. Từ dưới nhà vẳng lên tiếng bố vẫn quát tháo về vụ cái thảm. Không may là lần này cả Xandra cũng đang hét ầm lên, khiến bố còn kích động hơn nữa, mà đối phó với tính khí ông thì đấy là cách tuyệt đối nên tránh (nếu cô hỏi thì tôi đã cho cô biết rồi). Ở nhà thì mẹ biết cách bịt miệng những cơn giận dữ của bố, bằng cách im lặng quay đi, đốt lên một ngọn lửa khinh khi cháy liu ríu nhưng bền bỉ hút hết dưỡng khí trong phòng, khiến mọi điều ông làm hay nói đều có vẻ thật ngớ ngẩn. Cuối cùng ông sẽ đùng đùng lao khỏi nhà, đập rung cả cửa, và rồi khi quay về - hàng giờ sau, chìa quay nhẹ trong ổ - sẽ đi khắp căn hộ như không có chuyện gì xảy ra: vào tủ lạnh lấy bia, dùng giọng bình thường hết sức hỏi xem thư từ để đâu.

Trên tầng có ba phòng trống, tôi đã chọn phòng lớn nhất; phòng này, giống như ở khách sạn, có buồng tắm riêng tí xíu bên hông. Sàn trải thảm rất dày, thảm nhung lông màu xanh thép. Đệm trần trụi, chăn nệm còn nguyên trong bọc ni-lông dưới chân giường. Vải Percale Legends. Giảm giá 20%. Có tiếng máy rì rì phát ra từ trong tường, như tiếng máy lọc khí bể cá. Đây giống như những phòng hay thấy có gái điếm hay gái bán bar bị giết thường thấy trên tivi.

Vẫn để tai nghe bố và Xandra, tôi ngồi lên đệm, bức tranh quấn kín đặt trên đùi. Dù cửa đã khóa nhưng tôi vẫn ngại không muốn mở ra sợ họ lại lên đây, nhưng khao khát muốn nhìn lại bức tranh quá lớn. Thật nhẹ nhàng, thật cẩn thận, tôi khẽ gại móng tay bóc băng dính ra.

Bức tranh tuột khỏi lớp cuốn dễ hơn tôi tưởng, và tôi nhận thấy mình đang nén tiếng thở buột ra sung sướng. Đấy là lần đầu tiên tôi được nhìn nó dưới ánh sáng ban ngày. Trong căn phòng khô cằn - chỉ toàn thạch cao và sắc trắng - những màu sắc mọi khi thầm lặng chợt sống động tưng bừng, và dù trên bề mặt bám một lớp bụi mỏng gần như không thấy, bức tranh vẫn toát ra cái không khí giống như nơi khoảng tường lồng lộng nắng hứng ô cửa mở. Có phải vì thế mà những người như bà Swanson cứ tán tụng ánh nắng vùng sa mạc không? Bà luôn không ngớt lời về cái gọi là “chuyến du hí” ở New Mexico - chân trời mênh mang, bầu trời thanh tĩnh, tâm linh rõ ràng trong suốt, vân vân. Nhưng hình như trò đùa ánh sáng nào đó đã làm bức tranh biến đổi, giống như những bể nước nóc nhà in bóng đen thẫm ngoài cửa sổ phòng mẹ thoạt dát vàng và tích điện trong vài giây lạ lẫm giữa ánh tà dương mùa hè vẩn sắc dông, ngay trước khi cơn hồng thủy sầm sập xuống.

“Theo?” Bố tôi gõ cồng cộc lên cửa. “Đói chưa?”

Tôi đứng dậy, hy vọng ông không thử mở và thấy cửa khóa. Phòng mới của tôi trống trơn như nhà tù, nhưng mấy giá tủ trên cùng rất cao và sâu, khuất tầm mắt ông.

“Bố đi kiếm mấy món Tàu mang về. Ăn gì không?”

Nếu nhìn thấy, liệu bố có biết đấy là tranh gì không? Tôi từng nghĩ là không - nhưng khi nhìn nó trong ánh sáng này, nhìn vẻ lấp lánh tỏa ra từ nó, tôi hiểu bất cứ thằng khờ nào cũng biết ngay. “Ừm, con ra đây,” tôi đáp to, giọng có vẻ giả dối và khản đặc, nhét bức tranh vào thêm một lần vỏ gối rồi giấu dưới giường trước khi vội vã ra khỏi phòng.

VII

TRONG MẤY TUẦN Ở LAS VEGAS trước khi bắt đầu vào học, cả ngày vơ vẩn dưới nhà, cắm tai nghe iPod nhưng không bật tiếng, tôi đã thu nạp được một cơ số thông tin thú vị. Ví dụ: công việc ngày xưa của bố tôi không hề có màn đi đi lại lại giữa Chicago với Phoenix như ông từng bảo mẹ con tôi. Cả hai mẹ con đều không hay biết ông đã bay tới Vegas nhiều lần trong mấy tháng trời, và chính ở đây - trong một quán bar kiểu Á nhà hàng Bellagio - ông với Xandra đã gặp nhau. Họ đã hẹn hò được một thời gian rồi thì bố tôi mới biến mất - tôi tính phải đến hơn một năm; có vẻ họ vừa ăn mừng “tròn năm” lần đầu ít lâu sau khi mẹ mất, ăn tối ở nhà hàng Delmonico Steakhouse rồi xem Jon Bon Jovi biểu diễn ở MGM Grand. (Bon Jovi à! Trong vô số thứ tôi thèm được kể cho mẹ nghe - có đến hàng nghìn, hay hàng triệu thứ - có vẻ kinh khủng nhất là mẹ lại không bao giờ được biết cái chuyện buồn cười muốn chết đó.)

Một chuyện nữa mà tôi đã suy ra sau mấy ngày ở ngôi nhà trong phố này: khi bố hay Xandra nói ông “cai rượu”, đúng ra là ông đã đổi rượu scotch (mà ông từng ưa thích) sang bia Corona nhẹ và thuốc giảm đau Vicodin. Tôi đã vài lần ngạc nhiên khi thấy họ liên tục giơ ngón tay chữ V về phía nhau ra dấu hòa bình, hay là dấu chiến thắng, trong đủ loại bối cảnh chẳng thích hợp tí nào, và chắc sẽ còn hoang mang lâu lâu nữa nếu không phải một hôm, tưởng tôi không nghe thấy, bố tôi đi vào hỏi thẳng Xandra cho ông một viên Vicodin.

Tôi chẳng biết gì về Vicodin, ngoại trừ đấy là một thứ mà vì nó một nàng diễn viên hoang dại tôi khoái cứ chốc chốc lại thấy lên ảnh trên báo lá cải: loạng choạng đi ra từ xe Mercedes, đèn cảnh sát chói lóa đằng sau lưng. Vài ngày sau, tôi bắt được một túi ni-lông, bên trong đựng phải đến ba trăm viên thuốc - để hờ hững trên mặt bếp, cạnh lọ thuốc chống rụng tóc của bố và một chồng hóa đơn chưa trả - nhưng Xandra vội chộp lấy thủ vào ví.

"Cái gì thế?” Tôi hỏi.

“Ừm, vitamin ấy mà.”

“Sao lại bỏ trong túi đó?”

“Tôi lấy của cái ông tập thể hình cùng chỗ làm.”

Kỳ dị một cái là - và đây lại thêm một đề tài tôi ước gì có thể đem bàn với mẹ - ông bố mới lúc nào cũng lừ đừ vì thuốc lại dễ chịu và dễ đoán hơn nhiều so với ông bố cũ. Hồi còn uống rượu, bố tôi như khắp người toàn đầu dây thần kinh - hết đùa nhả vớ vẩn lại sôi sục sấn sổ, mãi đến khi lả ra ngất xỉu - nhưng khi nào không uống thì còn tệ hơn nữa. Ông xăm xăm đi trước mẹ con tôi cả chục bước trên vệ đường, nói chuyện một mình, vỗ vỗ túi áo vét như tìm vũ khí. Ông mang về đủ thứ chúng tôi không cần và cũng không kham nổi, ví dụ như giày Manolo da cá sấu cho mẹ (vốn ghét giày cao gót), thậm chí cũng không đúng cỡ. Ông tha cả chồng giấy ở văn phòng về nhà, ngồi đến quá nửa đêm uống cà phê đá, bấm toanh toách máy tính bỏ túi, mồ hôi vã ra như vừa chạy bốn mươi phút trên máy tập leo cầu thang. Hoặc ông sẽ làm toáng lên chỉ vì vụ tiệc tùng gì đó tít đằng Brooklyn (“Cô bảo sao? ‘Có khi em không nên đi hả? Cô nghĩ tôi nên ở lì trong nhà làm thằng thầy tu kín phải thế không?”) và rồi sau khi lôi được mẹ đến đấy, chỉ được mươi phút là đùng đùng bỏ về sau khi chửi rủa một vị khách khác hoặc nhạo báng họ thẳng mặt.

Thuốc thì cho một dạng năng lượng khác, vui vẻ hơn: pha giữa tươi tỉnh và ù lì, một vẻ ngớ ngẩn, ngây ngô, lãng đãng. Bước chân ông la đà hơn. Ông ngủ nhiều hơn, gật gù thuận tình, quên bẵng giữa mạch tranh cãi, lê chân trần đi trong nhà, áo choàng tắm phanh nửa. Từ câu chửi thề hiền hậu đến việc thường quên cạo râu, cách nói chuyện thong thả với điếu thuốc lá cắm khóe miệng, cảm giác toát ra là ông đang diễn một vai nào đó: một chàng sành đời trong bộ phim Noir[70] thập niên 50 hay có khi là Mười một tên cướp thế kỷ[71] một gã côn đồ lười biếng và thỏa mãn không có gì để mất. Nhưng ngay cả giữa vẻ phởn phơ mới có này, ông vẫn giữ cái nét hơi rồ, hơi yêng hùng của cậu học trò ngổ ngáo, càng dễ động lòng vì nó đang dần đi về thu, đã thoảng màu tàn tạ và bất cẩn.

Trong ngôi nhà ở Phố Cuối Sa mạc, với gói truyền hình cáp siêu đốt tiền mẹ sẽ chẳng bao giờ cho mắc, ông kéo rèm tránh mặt trời và ngồi hút thuốc trước tivi, mơ hồ như một gã nghiện thuốc phiện, xem kênh thể thao ESPN bỏ tiếng, chẳng theo dõi môn nào cụ thể mà xem bất kỳ thứ gì đang hiện lên màn hình: cricket, bóng ném Jai-Alai[72], cầu lông, bóng vồ. Điều hòa để lạnh quá độ, có cái mùi lờm lợm như tủ lạnh; ông ngồi lặng phắc hàng giờ liền, dải khói điếu Viceroy lửng lơ bay lên trần như từ một que hương, cứ như ông đang chiêm nghiêm về Phật - Pháp - Tăng trên bảng xếp hạng Hiệp hội Gôn Hoa Kỳ hay gì đó.

Điều còn chưa hiểu được là bố tôi có làm việc hay không, và nếu có, thì là thứ việc gì. Điện thoại reo bất kể ngày đêm. Ông cầm ống nghe đi ra hành lang, lưng quay về phía tôi, chống tay lên tường, nhìn xuống thảm mà nói chuyện, dáng đứng có gì đó từa tựa như ông huấn luyện viên vừa kết thúc một trận đấu khó nhằn. Thường thì ông nói rất nhỏ, nhưng ngay cả khi to tiếng thì câu chuyện cũng rất khó hiểu nếu chỉ nghe từ phía ông: hoa hồng, dòng tiền, tài xỉu, cược thắng và tính chấp. Phần lớn thời gian ông không ở nhà, đi có việc mà không nói là gì, và nhiều đêm ông cùng Xandra cũng không về ngủ nữa. “Bọn bố được đãi ở MGM Grand nhiều lắm,” ông giải thích và dụi mắt, lún sâu người vào đệm xô pha, thở hắt ra mệt mỏi - và lần nữa tôi lại cảm thấy ông đang diễn, diễn vai “dân chơi buồn đời”, sót lại từ thập niên 80, hơi một tí là buồn chán. “Hy vọng con không phiền. Chỉ là khi nào có làm ca đêm, bọn bố ngủ lại Dải là dễ nhất.”

VIII

“ĐÁM GIẤY BÌA để khắp nơi này là gì vậy?” Một hôm tôi hỏi Xandra đang loay hoay trong bếp, làm món nước uống ăn kiêng vị vani. Tôi băn khoăn khi thấy những mẩu bìa in sẵn vương vãi khắp nhà: những ô vuông được viết hàng dãy hàng dãy số đơn điệu bằng bút chì. Trông chúng có vẻ khoa học, lại có vẻ ghê ghê, như những chuỗi ADN hay có khi là thông điệp tình báo bằng mã nhị phân.

Cô ta tắt máy xay, gạt tóc trên mắt. “Cái gì?”

“Mấy cái tờ số liệu này ấy.”

“Baccrrrat!” Xandra đáp, uốn lưỡi thật rung, và làm một chuỗi búng tay rất rối rắm.

“Ồ” tôi nói sau một lúc im phắc, dù chưa nghe đến chữ ấy bao giờ.

Cô ta thò ngón tay vào cốc nước liếm thử. “Bọn tôi rất hay đến phòng baccarat ở MGM Grand?” Cô ta đáp. “Bố cháu thích lưu lại thông tin những ván đã chơi.”

“Lúc nào cháu đi cùng được không?”

“Không được. Ờm... nhưng tôi nghĩ là có thể? cô ta nói, như thể tôi vừa ướm hỏi về kỳ nghỉ hè ở một nước Hồi giáo đầy biến động nào đấy vậy. “Nhưng người ta không mấy hoan nghênh trẻ con đến sòng bạc đâu, hiểu không? Thực tình là cháu không được phép đến xem bọn tôi chơi.”

Đã Sao, tôi nghĩ. Đứng xem bố với Xandra đánh bạc tôi cũng chẳng thấy gì là thú vị. Tôi nói lớn, “Nhưng cháu cứ tưởng họ có cả hổ với tàu hải tặc với mấy thứ kiểu ấy.”

“Ờm thì, chắc có.” Cô ta đang với lấy cái cốc trên giá, lộ ra một bộ tứ chữ Tàu xăm mực xanh giữa cái áo phông và cái quần cạp trễ. “Mấy năm trước họ cũng thử bán gói du lịch cả gia đình, nhưng chẳng đi đến đâu cả.”

IX

CHẮC Ở VÀO HOÀN CẢNH KHÁC tôi sẽ thích Xandra-nói thế tôi nghĩ hơi kì kì, giống như nói tôi sẽ thể sẽ thích thằng nhãi vẫn đập tôi một trận nếu như nó không đập tôi một trận. Cô ta là người đầu tiên khiến tôi nhận ra đàn bà trong độ tuổi bốn mươi - và là những người đàn bà vốn không đẹp chim sa cá lặn gì cho cam- vẫn có thể gợi cảm. Dù mặt không đẹp (mắt tí hin, mũi vừa nhỏ vừa tẹt, răng nhỏ như chuột) nhưng cô ta có thân hình đẹp, chịu khó tập tành, tay chân đều bóng và rám nắng đến nỗi trông như xịt thuốc rám, như thể cô ta đã chịu khó thoa cả đống tinh dầu hay kem lên mình. Cập kênh trên đôi giày cao, cô ta vẫn đi rất nhanh, liên tục kéo cái váy ngắn-quá-đáng, dáng người đổ về phía trước có sức hấp dẫn kỳ dị. Ở mặt nào đó tôi thấy cô gớm gớm - giọng lắp bắp, son môi bóng loáng nhờ thỏi Lip Glass, một tập đoàn lỗ tai và khe hở giữa hai răng cửa hay bị cô ta lấy lưỡi đẩy đẩy - nhưng cô ta cũng có gì đó nồng ấm, rộn ràng và khá rắn mặt nữa: một nguồn sức mạnh của loài thú, như một con mèo đang gầm gừ lùng sục săn mồi khi đã thoát khỏi cặp cao gót đi chân không.

Coca vani, dưỡng môi vani, thức uống ăn kiêng vani, Stolichnaya vani. Từ chỗ làm về cô ta ăn mặc như một bà vợ nhà giàu lòe loẹt đi đánh tennis về, váy trắng ngắn cỡn và nữ trang vàng đeo đầy người. Ngay đôi giày thể thao cũng mới trắng lốp. Tắm nắng bên bể bơi, cô ta đeo bộ đồ hai mảnh bằng ren trắng, phơi tấm lưng to ngang nhưng gầy, hằn xương sống, như một gã đàn ông ở trần. “Ối chà, trục trặc kỹ thuật,” cô ta nói khi đứng lên khỏi ghế nằm mà quên cài áo con, tôi để ý thấy bộ ngực cũng rám nắng đều như toàn bộ làn da cô.

Cô ta thích nhất là xem truyền hình thực tế: Survivor hoặc American Idol. Thích mua đồ ở Intermix và Juicy Couture. Thích gọi cho cô bạn Courtney để “xả xì-trét”, và đáng tiếc thay phần lớn xì-trét đến từ phía tôi. “Mày nghĩ xem?” một hôm tôi nghe thấy cô ta nói trên điện thoại khi bố vắng nhà. “Anh ta đâu có báo trước về thứ này. Một thằng nhóc ư? Thế cơ chứ!”

“Ừ, dĩ nhiên, chuối củ lắm,” cô ta tiếp, ơ hờ bập bập điếu Marlboro Light - dừng chân bên cánh cửa kính ra bể bơi, nhìn xuống bộ móng chân vừa sơn màu xanh dưa lưới. “Không,” im một lúc cô ta đáp. “Giời mới biết bao lâu. Thì, anh ta nghĩ tao sẽ thấy sao chứ? Tao có phải mấy bà chỉ việc mặc đẹp đến cổ vũ cục cưng đá bóng đâu.”

Cô ta dường như than thở cho có thôi chứ không hẳn thù hằn cá nhân gì. Nhưng tôi vẫn không biết đâu mới là cách đúng để cô ta thích mình. Ban đầu tôi vẫn giả định các bà tầm tuổi mẹ rất thích mình lại gần gợi chuyện, nhưng với Xandra tôi đã nhanh chóng nhận ra không nên nói đùa hay hỏi han chuyện trong ngày quá nhiều nếu cô ta cáu kỉnh khi đi làm về. Đôi khi không có bố ở nhà, cô ta chuyển kênh ESPN đang chạy và chúng tôi ngồi xem phim trên Lifetime, ăn hoa quả dầm với nhau rất thanh bình. Nhưng khi nào bực tức, cô ta có cái kiểu nói “Hẳn rồi” băng giá đáp lại hầu hết những gì tôi nói, khiến tôi thấy mình thật ngu ngốc.

“Ừm, cháu không thấy cái mở hộp đâu cả.”

“Hẳn rồi.”

“Tối nay có nguyệt thực đấy.”

“Hẳn rồi.”

“Kìa, ổ điện bắn tia lửa ra kìa.”

“Hẳn rồi.”

Xandra làm ca đêm. Thường thì khoảng ba rưỡi chiều cô ta sẽ ào ra khỏi nhà trong bộ đồng phục khoe mọi đường cong: áo khoác đen, quần đen bó thít bằng chất liệu co giãn gì đấy, sơ mi bỏ cúc xuống tận chỏm ngực lấm tấm tàn nhang. Biển tên trên áo jacket ghi chữ XANDRA lớn và ở dưới, nhỏ hơn: Florida. Hôm đi ăn tối ở New York cô ta nói rằng muốn khởi nghiệp trong lĩnh vực nhà đất, nhưng tới đây tôi nhanh chóng được biết việc của cô ta là quản lý một quán bar tên “Xu Teng” trong một sòng bạc trên Dải. Đôi khi, về đến nhà, cô ta mang theo những đĩa nhựa đựng đồ ăn vặt bọc ni-lông kín, thịt viên hay teriyaki gà cỡ ngón tay mang ra cùng bố tôi ăn trong khi xem tivi tắt tiếng.

Sống cùng họ giống như ở nhà trọ cùng những người mình không mấy ưa. Khi nào họ có nhà, tôi đóng cửa ở lì trong phòng. Còn khi nào họ đi, tức là hầu như cả ngày, tôi lục lọi các ngóc ngách xa xôi hơn trong căn nhà và cố làm quen với vẻ tuềnh toàng của nó. Hầu như phòng nào cũng chỉ trơ sàn hoặc có rất ít đồ đạc, và không gian trống trải cùng thứ ánh sáng tự do chơi nhởn không bị chắn rèm, những thảm trần và ván song song làm tôi thấy hơi thất chí.

Nhưng mặt khác, cũng thật nhẹ mình vì không còn cảm giác suốt đời phơi ra cho thiên hạ nhìn ngắm như ở nhà Barbour. Bầu trời màu xanh thẳm bất tận và lơ đãng, như lời hứa hẹn về một hào quang kỳ khôi nào đó thực ra không có thật. Chẳng ai thèm cằn nhằn khi tôi cứ mặc mãi một bộ đồ, khi tôi chẳng tiếp tục chữa trị tâm lý. Tôi cứ việc nằm ườn trên ghế hay cả sáng không ra khỏi giường, xem một lèo năm bộ phim Robert Mitchum nếu muốn.

Bố và Xandra khóa kín cửa phòn