← Quay lại trang sách

Chương 6 Tiếng động lạ trong giếng nước

Khu mộ của gia tộc Honiden nằm ở lưng chừng đồi bao quanh làng K. Khu mộ rộng hơn ba trắm mét vuông, có hàng rào bằng gỗ thô, khuôn viên luôn được quét tước sạch sẽ. Đời đời tổ tiên gia tộc Honiden đều nằm ở đây. Không hiểu sao cứ mỗi lần trông thấy khu mộ ngay ngắn đến độ ngột ngạt này, tôi luôn tưởng tượng ra cảnh cả gia tộc Honiden ngồi đó, nghiêm trang trong những bộ lễ phục võ sĩ in gia huy. Chắc hẳn các vị liệt tổ liệt tông nhà họ đang đau đầu bàn luận về bê bối mới đây của đám con cháu. Phải chăng đó cũng là lý do khiến tôi cảm thấy ngôi mộ nằm cuối dãy có phần khép nép.

Trên ngôi mộ ấy có khắc nội dung sau: “Cư sĩ Hiền Triết Nghĩa Đạt chùa Từ Vân, tục danh Honiden Daizaburo, mất ngày 20 tháng Ba năm 1933”. Hơn hai mươi năm trước, chính người nằm dưới mộ đã gieo mầm mống cho tai ương và rồi hậu duệ của ông đã gây ra một vụ án khủng khiếp. Tôi vô tình nhận được tài liệu tường thuật chi tiết toàn bộ vụ án nên sẽ kể cho các bạn. Nhưng trước hết, tôi xin giới thiệu sơ qua vị thế của gia tộc Honiden và cá nhân Honiden Daizaburo, người là nguyên nhân sâu xa của vụ án.

Vốn dĩ vào thời Mạc phủ, gia tộc Honiden cùng với hai gia tộc nữa là Ono và Akizuki được gọi là tam đại danh môn của làng K, mỗi năm lại luân phiên nhau nhậm chức lí trưởng. Sau này khi chức lí trưởng bị bãi bỏ, Ono và Akizuki lần lượt thất thế, chỉ có Honiden là vẫn như trước, thậm chí còn lớn mạnh hơn xưa. Nguyên nhân thì nhiều, nhưng nhìn chung trong khi hai gia tộc kia không có, thì gia tộc Honiden đời nào cũng xuất hiện nhân tài kiệt xuất.

Trong đó đặc biệt phải kể tới gia chủ Yasuke thời Minh Trị Duy Tân. Cụ là người thức thời, tương truyền nhân lúc thời thế rối ren đã lấy danh nghĩa thanh lí tài sản cho lãnh chúa để thu về cho gia tộc không ít đất đai.

Kế thừa cụ Yasuke là ông Shojiro, tính cách cẩn thận, rất giỏi quản lí tài chính, cho vay nặng lãi khắp nơi. Chỉ cần người vay chớm trả tiền muộn, ông sẽ lập tức tịch thu nhà cửa, ruộng đất hoặc đồi núi, không chút nương tay.

Có lời đồn hai gia tộc Ono và Akizuki lụn bại là do gia chủ bao đời vô năng, nhưng một phần cũng bởi những khoản nợ nặng lãi với Shojiro đã đẩy nhanh quá trình đó. Năm 1912, khi Daizaburo kế thừa gia nghiệp, phần lớn ruộng đất và bảo vật gia truyền của hai gia tộc này đã về tay gia tộc Honiden.

Năm 1914, ông Shojiro qua đời. Daizaburo lúc ấy 28 tuổi, đã lấy vợ nhưng chưa có con, trở thành gia chủ tính ra là đời thứ ba kể từ ông tổ trung hưng Yasuke. Cũng như bao gia chủ đời thứ ba khác, Daizaburo cực kì hào sảng, phóng khoáng, thích tiệc tùng náo nhiệt, thường ngao du khắp nơi và giao thiệp cả với đám gánh hát giang hồ. Nhưng dù sao ông vẫn xứng danh con cháu gia tộc Honiden, chưa từng làm ra chuyện gì ngu ngốc để phải mang tiếng phá gia chi tử. Tóm lại, tuy tính tình ham vui, ưa hào nhoáng, song ông vẫn rất tỉnh táo trong chuyện tiền bạc.

Gia tộc Ono thời ấy hoàn toàn suy kiệt, chuyển tới Kobe. Còn gia tộc Akizuki vẫn cố bám trụ đất cũ, vớt vát được chút thể diện.

Gia chủ nhà Akizuki bấy giờ là Zentaro, lớn hơn Daizaburo bảy tuổi, là một ví dụ điển hình của quý tộc mạt vận, tuyệt nhiên không thể tự mưu sinh. Ông ta lấy hiệu là Thảo Nhân rồi ngâm thơ, vẽ vời dở tệ, thường viết vẽ lên thẻ giấy rồi đem tới chỗ Daizaburo. Những lúc Daizaburo cao hứng mua lại, Zentaro cũng miễn cưỡng nói năng đáp lễ, song về nhà thì tâm tính thay đổi, không tiếc lời phỉ báng Daizaburo, còn giận cá chém thớt lên vợ là Yanagi. Yanagi ngày càng chán ngán Zentaro.

Yanagi là người phụ nữ có chút nhan sắc, tính tình điềm đạm ôn hòa, thi thoảng vẫn dạy thêu thùa may vá, pha trà cắm hoa cho đám con gái trong làng. Ai cũng bảo gia chủ nhà Akizuki không xứng với Yanagi nên Zentaro cực kì bực mình. Cô ta cho là mình không xứng, coi thường mình. Nghĩ vậy, Zentaro càng sôi máu, không ngừng tìm cớ mắng mỏ, hơi tí là giật tóc, lôi vợ xềnh xệch quanh nhà. Vì muốn giữ thể diện, Yanagi chẳng bao giờ cất tiếng kêu than, nhưng Zentaro lại cho rằng vợ lì lợm, mặt dày.

Hai vợ chồng Zentaro có cô con gái tên là Rin, tóc xoăn, mặt mày ủ ê, không hề duyên dáng.

Năm 1917, khi Rin lên sáu, Zentaro trúng gió liệt nửa người. Trước đó, cảnh nhà tuy đã sa sút song vẫn gắng gượng duy trì được kế sinh nhai và chút thể diện danh gia vọng tộc, thì giờ sau bao năm chịu đựng khó khăn, nghịch cảnh lại tiếp tục ập đến, càng như giọt nước tràn ly. Phải chăm sóc người bệnh liệt giường, Yanagi cảm thấy vô cùng mệt mỏi, cả về thể xác lẫn tâm hồn. Daizaburo thấy thế cũng không đành lòng, thi thoảng lại đến thăm hỏi và mỗi lần đều cho ít tiền. Cứ hễ Daizaburo đến, thì Zentaro ngoài mặt cười nói vui vẻ, không tiếc lời cảm tạ, nhưng Daizaburo vừa đi, thì liền lật mặt chửi bới. Dù vậy Zentaro chưa từng trả lại một cắc nào cho Daizaburo.

Sang năm 1918, sau khi Zentaro đổ bệnh độ một năm, Yanagi và vợ của Daizaburo đồng thời mang thai. Mùa xuân năm sau, mỗi nhà đều sinh được một bé trai. Đứa bé nhà Akizuki ra đời sớm hơn một tháng. Có điều chỉ bảy ngày sau khi đứa bé chào đời, Zentaro lết tấm thân tật nguyền ra giếng nước giữa đêm và đầm đầu xuống đó tự tử.

Chỉ cần trông mặt đứa bé mà Yanagi sinh ra thì sẽ hiểu ngay vì sao Zentaro lại nhảy giếng tự vẫn. Mắt đứa bé có hai đồng tử, giống hệt cặp mắt hiếm gặp của Honiden Daizaburo. Lúc Dalzaburo chào đời, cụ Yasuke còn vô cùng vui mừng bảo, “Đứa bé mắt hai đồng tử này tương lai nhất định sẽ làm rạng danh gia tộc, phải nuôi dưỡng thật cẩn thận, tử tế.”

Daizaburo thừa kế gia nghiệp từ khi còn trẻ và cũng có phần tự tung tự tác nhưng vẫn thành người tử tế, kẻ khác không dễ lợi dụng. Một phần là nhờ khí chất vốn có, mặt khác là do áp lực phải sống theo đúng kì vọng của ông cha.

Ngoài vụ đồng tử của đứa bé thì còn một việc nữa là từ khi trúng gió, hẳn Zentaro không thể sinh hoạt vợ chồng. Hai điều này cho thấy đứa bé mà Yanagi sinh ra chắc hẳn là con của Daizaburo. Bằng chứng vợ mình thất tiết quá rõ ràng, bảo sao Zentaro phải chọn cách tự tử đầy uất hận.

Ở nông thôn, thái độ của mọi người đối với những chuyện thế này khá mâu thuẫn. Đàn ông thì hầu như không bị truy cứu, trong khi đó phụ nữ lại phải chịu không ít lời gièm pha. Nhất là khi Zentaro phải chết tức tưởi, chỉ trích nhắm vào Yanagi càng thêm cay nghiệt. Yanagi nhẫn nhục chịu đựng một năm, đợi đến khi đứa con trai tên Goichi cai sữa, Rin cũng tám tuổi, thì đem chúng gửi cho bà cụ họ hàng xa. Sau đó Yanagi nhảy xuống chính cái giếng Zentaro đã tự tử, đúng vào ngày giỗ đầu của chồng như để tạ tội, không để lại di thư gì.

Đứa con trai do vợ của Daizaburo sinh ra được đặt tên là Daisuke. Daisuke lên năm lên sáu thì ai nhìn vào cũng biết là anh em với Goichi. Dù không cùng một mẹ nhưng chúng rất giống nhau. Điểm khác biệt duy nhất là mắt Goichi có hai đồng tử, còn mắt Daisuke bình thường. Hai đứa trẻ giống nhau tới mức chỉ có thể phân biệt qua đặc điểm ở mắt.

Tuy nhiên, dần dà theo năm tháng thì Daisuke và Goichi cũng bớt giống nhau. Qua 20 tuổi, hai người không còn giống nhau mấy, có lẽ là do hoàn cảnh và môi trường nuôi dạy. Hết tiểu học, Daisuke học lên trung học rồi vào một trường chuyên ngành ở Osaka. Được nuôi dạy kĩ càng với tư cách đích tôn của gia tộc, Daisuke rất trắng trẻo, có da có thịt, đẹp trai, phong độ lại mê người.

Ngược lại, Goichi từ bé đã phải cầm cuốc ra đồng với chị gái Rin nên thân hình gầy gò, da ngăm đen, tính cách lầm lũi khó gần. Người dân quê vốn không biết giữ mồm giữ miệng, thích đem chuyện xấu của nhà khác ra bàn tán lúc trà dư tửu hậu, nên Goichi cũng sớm biết về thân thế của mình, từ đó tính tình lại càng thêm khó chịu.

Hai người cùng cha, nhưng Daisuke được hưởng cuộc sống hạnh phúc giàu có tự do tự tại, còn mình thì nghèo hèn bất hạnh… Ấy là những phẫn nộ, bất mãn trong Goichi. Theo thứ tự chào đời, mình sinh sớm hơn Daisuke một tháng, nên đáng ra phải là người thừa kế gia tộc Honiden. Vậy cớ gì ai cũng coi mình như hòn đá ven đường, chẳng thèm đoái hoài? Tại sao Daisuke lúc này đang hưởng thụ cuộc sống học đường, còn mình lại phải khổ sở làm việc, đổ mồ hôi sôi nước mắt, tay chân chai sạn?

Goichi vốn đã ôm oán hận, bất mãn trong lòng, lại có Rin ở bên thêm dầu vào lửa. Từ lúc con gái bắt đầu biết nhận thức, Zentaro đã không ngừng đầu độc Rin bằng những lời miệt thị gia tộc Honiden. Đến lượt mình, Rin lại đem những lời chửi rủa nghe được từ cha rót vào đầu Goichi, như muốn khắc sâu hận thù vào lòng em trai. Phải trả thù gia tộc Honiden, nguyền rủa Daizaburo. Những lời lẽ điên rồ của người chị đã luôn đeo bám Goichi từ tấm bé.

Có điều, Rin quên mất rằng dù sao Goichi cũng là con của Daizaburo, mang trong mình dòng máu gia tộc Honiden. Vì thế, những lời chửi rủa oán hận của Rin chẳng có nghĩa lý gì với Goichi, thậm chí còn khiến hắn nảy sinh một nỗi khát khao mãnh liệt với gia tộc Honiden. Chỉ có một chuyện mà hắn chung suy nghĩ với chị gái, đó là mối hận thù đối với Daisuke. Mỗi lần nghĩ tới Daisuke, Goichi lại thấy bừng bừng lửa giận, hận đến thấu xương.

Sau Daisuke, gia tộc Honiden đón chào hai đứa trẻ, là con trai thứ hai Shinkichi sinh năm 1922 và con gái Tsuruyo ra đời năm 1930. Giữa Shinkichi và Tsuruyo có hai anh chị em khác, nhưng đều chết yểu.

Tsuruyo là đứa trẻ đáng thương, mắc bệnh tim bẩm sinh, đi lại thôi mà hô hấp cũng khó khăn nên gần như không bao giờ ra khỏi nhà. Năm Tsuruyo đến tuổi đi học, người nhà vẫn không có ý định cho cô bé đến trường, chỉ để học tại gia. Dạy dỗ cô bé chủ yếu là người bà tên Maki. Dẫu chỉ được bà dạy đọc dạy viết, song trời sinh đầu óc sáng láng, nên mới mười hai mười ba, cô bé đã đọc được bản luận giải những cuốn sách cổ như Du tiên quật và Truyện Genji.

Như nội dung khắc trên bia mộ, Daizaburo qua đời năm 1933. Khi ấy Tsuruyo mới lên bốn. Vợ Daizaburo hiền lành song nhu nhược, nên trọng trách trong nhà dồn hết lên vai bà Maki. Bà Maki tính tình vốn chu toàn, lại được chồng là Shojiro chỉ dạy, nên đã trở thành trụ cột vững vàng cho gia tộc Honiden.

Năm 1941, Daisuke tốt nghiệp xong thì kết hôn ngay. Tình hình chiến tranh cấp bách nên những gia đình khá giả đều muốn sớm dựng vợ gả chồng cho con cái. Vợ Daisuke tên là Rie, con gái một gia đình võ sĩ lụn bại ở làng bên. Nghe đồn cô vốn là bạn gái của Goichi, nhưng khi được người thừa kế gia tộc Honiden bất ngờ cầu hôn thì liền đồng ý. Nếu chuyện này là thật, thì mối hận của Goichi đối với Daisuke chẳng khác nào lửa bị đổ thêm dầu.

Năm 1942, Daisuke và Goichi đều bị gọi đi lính và vào cùng một đơn vị. Ban đầu hai người trấn thủ bên sông Dương Tử. Chắc do đang ở xứ người nên Goichi tạm quên thù oán năm xưa và hai anh em cũng có thời gian hòa thuận. Trong thư gửi vợ lúc đó, Daisuke kể hai người được đơn vị coi là cặp song sinh đem lại may mắn và rất được yêu quý. Thư còn đính kèm một bức ảnh chụp chung. Chính bức ảnh ấy đã phủ bóng đen lên tất thảy và khiến vụ án sau này thêm phần ghê rợn.

Khi được xem bức ảnh, tôi đã liên tưởng ngay tới vụ án và không khỏi nổi da gà.

Dáng vẻ hai người lại giống nhau như xưa. Có lẽ do cùng sống trong môi trường chiến trận nên vóc dáng trở nên tương đồng. Trước khi đi lính, Daisuke khá đầy đặn, da dẻ trắng trẻo. Trải qua chiến tranh gian khổ, anh ta hơi gầy đi, da cũng ngăm đen, mặt mày rắn rỏi hẳn ra. Ngược lại, Goichi có phần to cao hơn, nước da trắng lên. Hai người đứng cạnh nhau cứ như cùng một khuôn đúc ra. Điểm khác biệt duy nhất là ánh nhìn âm u tỏa ra từ đôi mắt hai đồng tử của Goichi.

Năm 1943, người con trai thứ hai của gia tộc Honiden là Shinkichi bị triệu đi lính khi còn là học sinh. Có điều chưa tới nửa năm đã được cho về vì mắc lao phổi. Sau chiến tranh, cậu ta được đưa vào trại lao H, cách làng K hơn hai mươi cây số.

Hai đứa con trai lần lượt bị bắt đi lính nên mẹ ba anh em suy sụp và mất vào mùa thu năm 1943. Vì vậy sau khi Shinkichi vào trại lao, trong dinh thự rộng lớn của gia tộc Honiden chỉ còn năm người là bà Maki, cô cháu dâu Rie, cháu gái Tsuruyo, bà giúp việc lâu năm Sugi và gia bộc thiểu năng Shikazo.

Thế nên ngay cả khi đã vào trại lao, mỗi tháng Shinkichi lại về nhà một hai lần, mỗi lần ở lại vài ngày. Tuy chỉ cách nhau hơn hai mươi cây số, nhưng giao thông từ trại lao về làng K không thuận tiện, phải bắt xe buýt rồi đổi hai tuyến tàu địa phương vốn rất ít chuyến. Cho dù xuất phát từ sáng sớm thì cũng chập tối mới đến nơi, không thể đi và về trong ngày.

Shinkichi rất thương em gái. Cậu ta là một thanh niên nho nhã, tính sau này trở thành nhà văn. Nhận thấy tài năng của em gái vượt xa mình, cậu ta còn muốn bồi dưỡng cô bé thành nhà văn nữ như Emlly Bronte, tác giả tiểu thuyết Đồi gió hú.

Tsuruyo bẩm sinh mắc bệnh tim, thể chất rất yếu ớt. Đến nửa bước cô bé cũng chưa từng ra khỏi nhà, thường ở lì tại một phòng trong biệt thất để đọc sách, nhưng lại có khả năng cảm thụ và quan sát cực kì nhạy bén.

Shinkichi yêu cầu Tsuruyo thỉnh thoảng phải viết thư cho cậu ta dù có chuyện đáng nói hay không, mục đích là để luyện khả năng viết lách và mắt quan sát cho em gái. Tsuruyo cũng chăm chỉ viết thư theo lời dặn của anh trai.

Cuối năm 1944, đầu năm 1945, khắp các vùng quê Nhật Bản xảy ra biến động lớn và làng K cũng không ngoại lệ. Do quân địch không kích vào các đô thị lớn với tần suất ngày càng tăng, những người ngày trước lên phố lập nghiệp nay đều về quê sơ tán, trong đó có cả gia đình Ono.

Gia chủ nhà Ono tên là Uichiro, ba mươi năm trước rời làng đi Kobe mở cửa hàng văn phòng phẩm, nay cơ nghiệp bị bom đạn san phẳng, đành bỏ về quê. Uichiro rời làng khi mới hai mươi mấy, vậy mà giờ đã thành lão già tiều tụy, tóc bạc phơ. Saki là bà vợ thứ hai của lão, hai người có với nhau năm đứa con, đứa lớn nhất 16 tuổi.

Cũng may trước đây gia đình Ono có nhờ họ hàng coi sóc hộ nên lúc về nhà cửa không đến mức dột nát. Mảnh vườn nhỏ trước giờ cho mượn thì nay lấy về để tự canh tác. Uichiro và bà vợ trước có với nhau một đứa con trai tên là Shoji, từ hồi nhập ngũ tới nay bặt vô âm tín.

Tháng Tám năm 1945, không bao lâu sau khi chiến tranh kết thúc, Rin rời thành phố về quê. Khi ấy ả đã 35 nhưng vẫn độc thân. Ả từng làm cấp dưỡng trong xưởng quân nhu ở thành phố gần đó, nhưng sau khi Nhật thua trận thì mất việc nên phải về quê, sống trong căn nhà tồi tàn như chuồng bò, ngày ngày cày cuốc trên mấy mảnh ruộng bé như mắt muỗi. Từ nhỏ ả vốn đã khó gần, trải qua bao lần không may nên càng ít lời, chẳng khác nào mấy mụ gàn dở.

Trong bối cảnh mọi nhân vật quan trọng đều góp mặt ở làng, Honiden Daisuke bất ngờ phục viên vào đầu hạ năm 1946. Dĩ nhiên đối với nhà Honiden, đây là chuyện vui lớn. Song cùng với đó, sự trở về của anh ta kéo theo một bầu không khí đáng sợ dị thường.

Tôi đảo mắt quan sát khu mộ gia tộc Honiden. Nằm ngoài rìa phần mộ các đời tổ tiên, dưới bóng cây tử vi nở đầy hoa đỏ, là một ngôi mộ nhỏ xinh xắn, phía trên cắm bia bằng gỗ mộc còn mới. Mặt trước bia ghi “Châu Liên Như Tâm Đồng Tử”, mặt sau đề “Honiden Tsuruyo, mất ngày 15 tháng Mười năm 1946”. Đây là ngôi mộ tạm của cô bé Tsuruyo dễ thương. Chính chấn động sau vụ án đáng sợ kia đã cướp đi mạng sống của cô bé.

Tuy nhiên trước khi qua đời, Tsuruyo đã viết rất chi tiết những điều mắt thấy tai nghe cùng cảm tưởng và suy đoán của cô bé trong thư gửi Shinkichi. Dĩ nhiên, những lá thư ấy vốn không nhằm mục đích thông báo gì cả. Như tôi từng đề cập, cô bé chỉ làm theo đề nghị của Shinkichi, đem việc xảy ra quanh mình ghi chép rõ ràng gửi cho anh trai đọc. Có điều, sau khi xảy ra thì vụ án nghiễm nhiên trở thành chủ đề chính trong thư. Tsuruyo kể tường tận diễn biến đẫm máu của vụ án cùng những nghi vấn của bản thân, bao gồm cả phát hiện bất ngờ đã cướp đi mạng sống của cô bé.

Mỗi lần đọc lại thư của Tsuruyo, tôi không khỏi kinh hãi trước trải nghiệm đáng sợ mà cô thiếu nữ 17 tuổi này gặp phải. Nỗi tuyệt vọng và đau khổ tựa hồ tiếng kèn lá tang thương dường như ẩn khuất sau mỗi câu chữ của cô bé.

Câu chuyện mà các bạn sắp đọc sau đây chính là một loạt những lá thư do Tsuruyo viết và Kindaichi Kosuke đã đưa chúng cho tôi. Ngoài ra, anh còn cho tôi xem vài mẩu báo và đôi dòng tâm sự của một người khác. Khi đưa chúng ra, Kindaichi đã nhìn tôi bằng ánh mắt rất u buồn. “Xin được nói trước rằng tôi hoàn toàn không nhúng tay vào vụ án này. Không, đúng ra tôi đã định nhúng tay nhưng chưa kịp tìm ra chân tướng và tiếp cận hung thủ thì một người thông minh nhạy bén khác đã chỉ ra sự thật, nên tôi đành lui sang một bên. Khi đọc hết, ông sẽ hiểu vì sao tôi không liên quan đến vụ án nhưng lại giữ những lá thư này. Thư đã đánh số nhưng chưa được sắp xếp. Xin giao chúng cho ông toàn quyền xử lý.”

Xin lưu ý với độc giả rằng tôi đã làm theo đề nghị của Kindaichi, chỉ chọn ra những phần liên quan trực tiếp tới vụ án trong thư của Tsuruyo và chỉnh sửa đôi chút cho dễ đọc. Nào, giờ chúng ta hãy lần lượt xem những lá thư do Tsuruyo viết.

Lá thư đầu tiên đề tháng Năm năm 1946, năm tháng trước khi vụ án xảy ra.

Ngày 3 tháng Năm năm 1946.

Hôm qua có một việc rất đáng ghét đã xảy ra. Chắc anh biết chuyện gia đình chú Ono về quê sơ tán rồi chứ? Hôm qua chú ta đến nhà mình gây sự.

Anh có biết nhà mình có một bức bình phong Kuzunoha[39] không? Trước giờ em không hề biết, vì nó luôn nằm trong kho. Từ lúc em hiểu chuyện đến nay, nó chưa từng được đem ra ngoài. Em thậm chí còn chẳng biết đến sự tồn tại của nó.

Hôm qua, chú Ono đến nhà ta, hi vọng chúng ta trả lại bức bình phong đó. Chú ta bảo, “Ba mươi năm trước, khi sắp đi Kobe, tôi nhờ ông Dai (ý chỉ cha) giữ hộ chứ không phải đem cho nhà các người. Đó là bảo vật truyền đời của gia tộc Ono, dù có mất tất cả chúng tôi cũng không bao giờ đem đi biếu người khác. Nay tôi đã quay về nên muốn lấy lại để mỗi ngày đều có thể chiêm ngưỡng.”

Chú ta cứ lải nhải mãi. Ban đầu chị dâu ra tiếp song chẳng được việc nên bà lại phải đích thân ra mặt. Bà giận lắm, mắng chú ta một trận.

“Uichiro, cháu nói gì thế? Chuyện bình phong, ta vẫn nhớ rõ lắm. Lúc đó cháu rời làng đi Kobe, bảo là tính đường làm ăn nhưng thiếu vốn, muốn mượn nhà ta 20 yên nên cầm cố bức bình phong. Cháu nói thế nào? “Đây là vật do tổ tiên để lại, song cháu không thể mang tới Kobe, xin nhà mình nhận hộ.” Ta vẫn nhớ như in đấy nhé. Giờ lật mặt đòi lại, xem chừng không hay lắm đâu!”

Chú Ono nghe xong, chẳng sợ gì cả, vẫn nói đi nói lại như cũ, còn bảo sẽ trả lại số tiền đã vay rồi rút hai tờ 10 yên ra. Em trông thấy cũng bất ngờ.

Chẳng lẽ ông chú Ono này không biết vật giá lạm phát ra sao à? Vật giá trước chiến tranh với hiện tại chênh nhau đến mấy chục, mấy trăm lần, huống chi là 20 yên từ những năm 1910. Chú ta nghĩ có thể chuộc lại bức bình phong đó với giá 20 yên bây giờ thật sao? Lý lẽ gì mà cùn, đến em nghe còn tức.

Sau đấy bà mình bực lắm, bà bảo: “Đã nghèo lại còn hèn. Thời gian đúng là có thể khiến con người ta thay đổi, ăn nói nhảm nhí kiểu ấy thì quả gã đã không còn là gã trước kia. Đều tại ả Saki tệ hại. Không biết ả nghe được chuyện bình phong ở đâu mà xúi bẩy Uichiro đến đây. Nếu không thì tại sao về quê hơn một năm rồi, giờ họ mới nhớ ra chứ. Bạn cũ hồi hương là chuyện đáng mừng, nhưng lại mang cả loại phụ nữ không rõ xuất thân như Saki về cùng, thực khiến người ta khó chịu. Từ hồi chiến tranh nổ ra, lòng người thay đổi khó lường. Rie, cháu phải tỉnh táo, bằng không nhà này chẳng biết sẽ đi về đâu.”

Không phải bà nói gì em cũng mù quáng nghe theo đâu, nhưng cô Saki quả thực rất tệ. Nghe nói trước kia cô ấy là gái tiếp rượu ở Kobe. Sau khi lấy chú Ono, còn từng ngược đãi con riêng của chú là anh Shoji. Vì thế anh ấy bỏ nhà đi, thành kẻ đầu đường xó chợ. Đến khi nhập ngũ cũng nhiều lần bị phạt do vi phạm kỉ luật. Nhắc đến anh Shoji, sau khi chiến tranh kết thúc không lâu, anh ấy có lủi thủi về nhà, nhưng chưa được ba ngày đã cãi nhau to với cô Saki, rồi lại biệt tăm biệt tích. Nghe nói chú Ono có đợt từng định bán nhà, nhờ anh Shoji cho tiền mới thôi. Vì thế dân làng đều bảo anh Shoji rất tội nghiệp. Có người còn nói anh ấy đang làm cướp giật ở thành phố K, nếu thế thật thì đáng thương quá.

Ngày 4 tháng Năm năm 1946.

Hôm qua em viết dài quá, thành ra lạc đề. Giữa chừng hơi mệt nên đành ngưng bút. Hôm nay em sẽ viết tiếp chuyện bình phong Kuzunoha hôm qua.

Chú Ono lải nhải mãi, đến em còn thấy tức, nhưng bà vẫn mặc kệ. Cuối cùng chú đành bỏ về. Em bực mình lắm, thế mà trông chú lủi thủi lại thấy tội tội. Chú thắt đai lưng sờn rách, nút buộc lôi thôi, trông rõ khắc khổ. So với hồi mấy năm trước về quê tảo mộ, thì giờ chú đã già đi nhiều, em nhìn mà rơm rớm.

Nhưng nói gì thì nói, nếu lúc đó chỉ có mỗi em và chị dâu thì thật chẳng biết sẽ thế nào. Chú ta mà cứ lằng nhằng chắc em sẽ phát khóc. Giả như không có bà, em chẳng biết nhà mình sẽ đi về đâu nữa. Tuy bà vẫn còn khỏe và minh mẫn, nhưng năm nay đã 78 tuổi rồi, nên em lo lắm, không biết vài năm nữa sẽ ra sao. Giờ vẫn chưa có tin tức gì về anh Daisuke, nên tất cả chỉ biết trông vào anh thôi đấy. Anh ơi, hãy mau khỏe anh nhé.

Ôi, lại lạc đề nữa rồi, em xin lỗi. Em viết toàn là không đầu không đuôi, sao dám mơ sau này làm tiểu thuyết gia chứ. Sau khi chú Ono ra về, hình như bà mệt nên chợp mắt một lát. Lúc dậy, bà quay sang chị dâu, “Rie, đi bảo Sugi mang bình phong ra đây.”

Chị dâu giật mình, “Bình phong nào ạ?” Bà trả lời, “Bình phong Kuzunoha ấy. Chắc cháu Sugi biết, cháu đi giúp một tay mang nó qua đây.” Em thấy khó hiểu, bèn hỏi bà, “Bà ơi, bà muốn trả nó bại cho chú Ono ư?” “Không.” Bà chỉ đáp vậy rồi không nói thêm gì. Một lát sau, chị dâu và bà Sugi cùng nhau đem bình phong ra. Nói thật, từ khi nghe chú Ono nhắc đến, em rất tò mò vì trước đó còn không biết đến sự tồn tại của nó.

Hơn nữa dựa theo lời chú Ono, em hình dung nó phải rất hoành tráng.

Vì thế khi bình phong được đem ra, em háo hức khôn tả, nín thở chờ mợi người dở giấy dầu bọc bên ngoài ra. Anh từng thấy bức bình phong đó chưa? À không, bà bảo nó được đem cất nhiều năm rồi, nên chắc anh cũng không biết, Vừa xem bức bình phong, không hiểu sao em bỗng rùng mình, cả người lạnh toát, tim đập thình thịch, Bình phong này bao gồm hai tấm ghép lại. Tấm bên trái vẽ cảnh Kuzunooha đang tạm biệt Abe no Doji[40], bỏ lại người chồng là Ahe no Yasuna để quay về khu rừng hunoda. Nàng Kuzunoha hơi cúi đầu buồn bã, để lộ cần cổ dài, hai ống tay áo chắp về phía trước Hình ảnh nàng thật mong manh do được vẽ bằng những nét mảnh mai, nhàn nhạt, màu pha bằng bột vỏ sò, Vạt áo nàng thấp thoáng trong cỏ thu… Tấm bên phải thì chỉ vẽ vầng trăng non mảnh như sợi tơ, nền phủ bột vân mẫu[41] đơn điệu, thể hiện rõ rệt nét cô tịch hiu quạnh của Abeno[42].

Bức bình phong không vẽ Kuzunoha với tạo hình cáo trắng, nàng cũng không lộ đuôi. Nhưng kì lạ thay, từ dáng vẻ yêu kiều của nàng có thể nhìn ra hình bóng cáo trắng ẩn khuất. Vạt áo dài thấp thoáng trong cỏ thu càng gợi cảm giác nàng đang hóa cáo. Thấy lạ quá, em bèn ngắm thật kĩ hình ảnh Kuzunoha lần nữa để xem tại sao và bỗng nhận ra.

Kuzunoha tuy đang cúi mặt buồn rầu nhưng hai mắt vẫn mở trừng trừng. Đặc biệt mắt nàng không có con ngươi. Người ta thường nói đôi mắt là cửa sổ tâm hồn, và quả thật sau khi xem bức bình phong Kuzunoha, em càng thấm thía tầm quan trọng của đôi mắt đối với nhân dạng. Một gương mặt thanh tú, xinh đẹp, mà hai mắt lại không tròng trông thực sự kì quái. Nhìn bình phong, em bỗng liên tưởng đến mấy con rối kịch. Như trong vở Nhật kí Asagao, con rối bị mù Miyuki được thiết kế có con ngươi lộn ra sau, thành ra mắt chỉ toàn lòng trắng. Kuzunoha trên bình phong mang đến cho em cảm giác đúng như với con rối đó, bầu không khí tỏa ra từ nó thật kì dị khó tả.

Không biết họa sĩ quên mất hay cố tình không điểm mắt nhằm gây ấn tượng nhỉ? Em thiên về lý do sau hơn.

Chị dâu cũng kinh ngạc ngắm nhìn Kuzunoha trên bình phong, mãi sau mới khẽ run rẩy, lẩm bẩm, “Bức tranh này trông ghê quá.”

Bà ngạc nhiên liếc sang chị ấy rồi hỏi, “Ủa, sao lại ghê?”

“Vì Kuzunoha bị mù ạ… Tsuruyo, em thấy sao?”

Chị dâu hỏi bất ngờ làm em bối rối. Anh, chuyện này em chỉ tiết lộ cho mình anh thôi nhé. Thực ra không hiểu sao lần nào nói chuyện với chị dâu em cũng thế. Dĩ nhiên em nghĩ chị dâu là người rất đỗi dịu dàng, thậm chí em còn thích chị ấy tới mức không bút nào tả xiết. Mỗi khi chỉ có mình em bên cạnh chị dâu, em đều ngây người. Chị ấy mà bắt chuyện, em còn lúng túng không biết đáp lời ra sao. Nhất định là do chị dâu quá đẹp.

Lần này em cũng hồi hộp y như thế.

“Vâng, công nhận… Em cũng thấy vậy.” Em chỉ đáp được có bấy nhiêu.

Bà lẳng lặng đảo mắt qua bình phong.

“Các cháu bảo cô gái trong tranh không có mắt đúng không? Có điều đây nhất định là thâm ý của họa sĩ. Cô gái trong tranh không phải Kuzunoha thật, mà do cáo trắng hóa thành. Ở cảnh này nó đang dần hiện nguyên hình, thất thểu trở lại rừng Shinoda. Họa sĩ không vẽ đuôi hay lửa ma, mà dùng cách lược bỏ tròng mắt để thể hiện Kuzunoha không phải người bình thường. Mỗi lần ngắm bức tranh này bà đều vô cùng khâm phục dụng ý của họa sĩ.”

Bà nheo mắt ngắm bình phong một lúc, rồi quay sang chúng em.

“Cứ đặt bức bình phong ở đây. Chẳng phải ta thích gì cho cam nhưng Uichiro sang đòi rồi. Để nó trong kho người ta lại nghĩ nhà mình có điều khuất tất. Cứ bày ra trước mặt bàn dân thiên hạ đi.”

Thế là bình phong Kuzunoha được đặt trong phòng khách để trang trí. Lần tới anh về, chắc sẽ thấy bức bình phong kì quái đó…

Ngày 10 tháng Sáu năm 1946.

Hôm nay em sẽ kể cho anh mấy tin đồn trong làng. Nghe nói hôm qua có ba người lạ hầm hầm xông vào nhà chú Ono. Họ là cai tù của nhà tù thành phố O, đến thông báo tin về anh Shoji. Anh Shoji bị bắt vì tội cướp giật, và đang tạm giam tại thành phố O. Nhưng không biết do sợ lộ thân phận hay phạm phải trọng tội khác mà anh ấy khai báo họ tên giả, tự xưng là “Oshima gì đó”. Tuy nhiên đến sát ngày xét xử, hẳn anh ấy lại lo dùng tên giả sẽ gặp rắc rối, nên thông đồng với năm, sáu bạn tù gỡ ván sàn phòng giam để đào thoát. Những tên khác bị bắt lại ngay, chỉ có “Oshima gì đó” trốn thoát.

Bên nhà tù lập tức phát lệnh truy nã gửi về quê quán mà Oshima khai, nhưng không tìm được người này, lúc đó mới biết Oshima là tên giả. Nhà tù chuyển sang tra khảo đám bạn tù thì lòi ra chuyện có lần Oshima lỡ lời kể từng ở trại cải tạo trên đảo Y. Họ nhanh chóng gọi điện sang đảo Y, hỏi xem có người đàn ông họ Oshima nào từng lao động cải tạo ở đó không. Kết quả, người bên trại cải tạo nghe miêu tả đặc điểm nhận dạng, liền khẳng định đó là Ono Shoji. Bấy giờ thân phận thật của anh ấy mới bại lộ. Nghe nói, trên bắp tay anh Shoji xăm dòng chữ “Sinh mệnh rẻ mạt, cần chi ý kiến”.

Do đó, người của nhà tù mới đến nhà chú Ono. Họ nói trong vòng bốn mươi tám tiếng sau khi tội phạm bỏ trốn, phía nhà tù phải chịu trách nhiệm truy bát. Họ theo dõi quanh nhà chú Ono, cho tới khoảng 10 giờ sáng nay mới rời đi.

Em thấy anh Shoji rất đáng thương. Nghe nói ba tháng trước, có ba tên cướp đến làng Y, chính là băng của anh Shoji. Hai tên kia bị bắt, chỉ mình anh Shoji chạy thoát và bị cảnh sát phát lệnh truy nã. Vì vậy khi bị bắt lần này, anh Shoji mới khai gian tên họ. Tuy nhiên lưới trời lồng lộng, anh ấy mà cứ gây tội mãi thì sau này biết đi đâu về đầu. Trước kia anh Shoji từng bị cô Saki đuổi đi, phải trú tạm ba, bốn năm ở nhà họ hàng, dân làng rất thương cảm. Ai cũng bảo con người anh ấy vốn không thế đâu, xưa kia còn là đứa trẻ đa sầu đa cảm, lại biết nghĩ cho người khác. Cơ sự thành ra thế này đều do cô Saki, nên ai cũng ghét cô ấy. Phải rồi, em vẫn nhớ anh và anh Shoji cùng tuổi, trước đây còn là bạn thân đúng không? Cho nên chắc anh còn hiểu anh Shoji hơn em.

Cô Saki từng qua nhà mình hai ba bận vì bức bình phong Kuzunoha, nhưng bà không thèm tiếp. Sau mấy lần đó thì cô ấy không sang nữa, có lẽ nản rồi. Nghe đâu cô Saki còn bảo nếu tìm thấy sẽ trói cổ, lôi anh Shoji lên đồn cảnh sát. Người đâu mà đáng ghét!.

Chị Rin nhà Akizuki giờ vẫn thường lén chặt cây trên núi nhà mình, phiền phức thật. Anh Goichi đến nay vẫn chưa về, nên so với nhà mình, chị ta tội nghiệp hơn nhiều, do đó nhà mình luôn nhắm mắt làm ngơ. Có điều gần đây chị ta ngày càng quá quắt, không chỉ chặt trộm cây để dùng mà còn lén đem bán. Shikazo bực lắm, tối qua đã lặng lẽ theo dõi và bắt quả tang. Nhưng chị ta còn dám buông lời khó nghe.

“Rừng núi và đàn bà của nhà các người đều do ăn trộm về mà có. Huống chi ngọn núi này vốn là của nhà tôi, bị nhà Honiden lừa gạt mà mất.”

Chị Rin mạnh miệng thế đấy. Sống một mình ở cái nơi như chuồng bò heo hút cạnh nghĩa trang mà không sợ, thật không đơn giản.

Anh Gin nhà Yoshida sắp lấy vợ rồi. Anh đoán xem cô dâu là ai nào? Chính là chị Kanae, chị dâu của anh ta. Anh Yasu chồng chị ấy vẫn bặt vô âm tín từ hồi đi phương Nam, mãi gần đây mới biết là đã chết trận ở Myanmar. Thế là chị Kanae được gả luôn cho cậu em chồng. Chị ấy lớn hơn anh Gin ba tuổi. Dân làng ai cũng chúc mừng nhưng sau lưng lại cười cợt kháo nhau là nhỡ anh Yasu mà còn sống thì sẽ có kịch hay để xem.

Lúc mới biết chuyện em cứ cảm thấy kì kì. Bà nghe xong thì trầm tư. Khi ngồi riêng với em, bà mới thủ thi như tự nhủ ấy, rằng “Shinkichi năm nay bao nhiêu tuổi nhỉ?”.

“Anh ấy hơn cháu tám tuổi, nên năm nay 25 ạ.” Em đáp.

“Vậy à… Thế thì lớn hơn Rie một tuổi.” Bà lại lẩm bẩm.

Em giật mình quay sang bà. Xem chừng bà nhận ra em hiểu ý nên nghiêm mặt dặn.

“Tsuruyo, những lời bà vừa nói cháu tuyệt đối không được kể cho ai, nghe chưa?”

Sau đó như chợt nhớ ra, bà liền châm đèn trên bàn thờ rồi chắp tay khấn vái. Em cũng chẳng biết là bà nghĩ gì nữa.

Ngày 3 tháng Bảy năm 1946.

Daisuke về rồi. Cháu hãy mau về.

Maki.

Ngày 6 tháng Bảy nắm 1946.

Dạo này sức khỏe của anh thế nào? Nghe Shikazo bảo vừa về đến viện anh liền phát sốt, còn ho ra máu nữa, nên bà lo lắng lắm.

Anh à, anh cũng đừng kích động. Sức khỏe anh vừa mới khá lên mà giờ lại xấu đi thì gia đình ta biết phải làm sao? Anh hãy nghĩ cho bà tuổi đã cao nhé. Tất cả chỉ trông cậy được vào anh thôi.

Nói thì nói vậy, song em cũng phải công nhận chuyện hôm ấy quá đỗi bất ngờ! Giờ nhớ lại, em vẫn lạnh sống lưng. Hôm kìa ấy mà, tầm chiều tối, em ngồi trong phòng khách của biệt thất đọc sách anh gửi. Ở phòng bên, bà đeo kính, lúi húi tháo chỉ quần áo. Mùa này đang là mùa mưa, buổi tối trời se lạnh, lất phất lúc mưa lúc tạnh. Thi thoảng em ngẩng lên, liếc sang phòng bên thì thấy bà ngồi trầm ngâm, lơ đãng tháo chỉ. Nói thế này nghe có hơi ra vẻ, nhưng em biết rõ như lòng bàn tay là lúc đó bà đang nghĩ gì. Bởi quá trưa hôm ấy, anh Gin nhà Yoshida đã dẫn cô dâu Kanae sang chào hỏi bà.

Anh Gin người đen nhẻm, mặc bộ lễ phục đi mượn, Không biết do nóng hay ngượng ngùng mà anh ấy đầm đìa mồ hôi. Dẫu vậy anh Gin trông rất vui. Chị Kanae thoa phấn trắng khắp tay và mặt, không dám ngẩng đầu, có vẻ xấu hổ. Gương mặt chị phúng phính, trắng trẻo đáng yêu, đứng cạnh anh Gin trông vẫn tự nhiên dù hơn chồng ba tuổi. Mà anh Gin hồi nhỏ từng bị bại liệt, một bên chân hơi cà nhắc nên không phải đi lính, nhưng may không ảnh hưởng tới việc đồng áng. Anh ấy cũng rất khỏe mạnh, còn chịu thương chịu khó nhất làng. Sau này chị Kanae nhất định sẽ rất hạnh phúc.

Hai anh chị chỉ đứng ngoài cửa chào hỏi vài câu rồi ra về. Chị dâu và bà Sugi liền xì xầm bàn tán.

“Mặt chị Kanae vốn sắc nét nên trang điểm lên một cái nhìn khác hẳn, xinh ra bao nhiêu. Bà thấy anh Gin rạng rỡ chưa kìa…”

“Kể cả thế, tôi vẫn thấy kì. Vợ anh lại gả cho em. Hơn nữa đằng trai còn kém ba tuổi…”

“Có sao đâu ạ. Hai người thích nhau là được rồi.” Chị dâu thản nhiên nói.

Nghe thế bà liền bảo, “Phải, đó cũng là một cách. Chỉ hơi tội cho người đã khuất…” Nói xong bà liếc sang chị dâu.

Đây nhất định là chuyện bà đang nghĩ. Thi thoảng em nghe thấy tiếng bà thở dài.

Và rồi mọi chuyện bắt đầu từ lúc bà Sugi hét toáng lên.

“Bà lớn ơi, không xong, không xong rồi. Cậu chủ…”

Em cứ ngỡ bà Sugi nhắc đến anh. Lẽ nào anh ở trong trại bệnh tình lại xấu đi? Ngay sau đó em biết mình nhầm vì vài giây sau bà Sugi lảo đảo bước vào.

“Bà lớn mau ra mà xem. Cậu chủ đã từ chiến trường trở về, còn dẫn theo đồng đội…”

Bấy giờ em mới vỡ lẽ là bà Sugi đang nói tới anh Daisuke. Em bật dậy như lò xo, vô thức liếc sang phía bà. Mặt bà tái mét, trông như hóa đá. Đến giờ em vẫn thấy kì lạ.

Anh Daisuke là đứa cháu bà yêu thương, chiều chuộng nhất, nên thường ngày mới không muốn nhắc tới anh ấy. Để chuẩn bị cho tình huống xấu nhất, bà luôn tự nhủ “Daisuke mất rồi, không còn sống mà trở về đâu” và tính toán hết thảy cách xử lý trong trường hợp đó. Nhưng cuối cùng anh Daisuke, cháu trai cưng của bà cũng trở về. Vậy sao khi ấy mặt bà lại tái xanh và trông nghiêm trọng thế nhỉ? Có điều chỉ sau chốc lát, sắc mặt bà dần khá lên. Như xấu hổ vì vừa ngập ngừng, giờ bà thấp thỏm đứng dậy.

“Nào nào, bà bảo Daisuke về rồi ư? Nó đâu?”

“Đang ở cửa chính ạ. Cậu ấy về cùng bạn trong quân ngũ.”

“Thế sao lại chưa vào? Rie thì sao?”

“Tôi báo cho mợ ấy rồi. Bà lớn, bà mau ra đi.”

“Tsuruyo, cháu cũng đi cùng nào.”

Bà với em rời biệt thất, đi qua hành lang tối om ra cửa chính. Đứng lặng lẽ giữa khung sáng vuông nơi cửa chính là hai người đàn ông mặc quân phục. Thắc mắc không biết chị dâu thế nào, em liền đảo mắt tìm quanh thì thấy chị mặt mày ủ dột như sắp khóc, quỳ trên góc chiếu nơi thềm nhà mờ tối. Nghe tiếng bước chân của em và bà, người đàn ông đứng phía trước liền quay lại, nghiêm trang thưa.

“A, bà đấy ạ? Cháu là Masaki. Cháu đưa cậu Daisuke về rồi đây ạ.”

“Daisuke… Daisuke bị làm sao ư?” Bà rướn người ngó ra đằng sau anh Masaki và hỏi, giọng hơi run run.

“Vâng, Daisuke bị thương, không đi lại một mình được ạ… Daisuke, bà cậu này.”

Anh Masaki nói rồi bước tránh sang một bên. Từ đằng sau, anh Daisuke rụt rè tiến hai, ba bước lên phía trước. Không hiểu sao em lập tức rét run.

Anh Daisuke hốc hác đi nhiều, trên mặt còn có vết sẹo bỏng rất to. Song thứ em thấy quái gở không phải vết sẹo, mà là đôi mắt mở trừng trừng khi anh ấy nhìn em. Tròng mắt anh không hề chuyển động, trong hoàn cảnh ấy mà vẫn chẳng chút cảm xúc. Trông miệng và cơ mặt thì đủ thấy anh ấy đang xúc động mạnh, nhưng riêng đôi mắt lại dửng dưng bất động như không liên quan, tựa hai cái hốc vô hồn.

Ngay lúc ấy, anh Masaki lên tiếng giải thích. “Daisuke mất đi đôi mắt trong lúc chiến đấu, nên giờ cậu ấy phải gắn mắt giả.”

Giọng anh Masaki như vẳng lại từ chốn nào xa xôi, em cảm tưởng chuyện anh ấy vừa nói hoàn toàn chẳng liên quan đến mình. Em nhìn ra ngoài, qua khung cửa thấp thoáng sau lưng anh Masaki và anh Daisuke. Tự bao giờ trời đã sẩm tối, mưa bụi vẫn lất phất bay. Em bỗng tưởng như chuyện này đã từng xảy ra trước đây vậy. Vào một ngày mưa, anh Daisuke trở về, với một đôi mắt giả… Ôi cái cảm giác ấy mới ngu ngốc làm sao.

Ngoài cổng, mấy người dân làng đã tụm năm tụm ba ngó nghiêng vào nhà ta, xì xầm to nhỏ, thi thoảng lại liếc nhìn nhau. Trong đám người ấy, em thấy chị Rin nhà Akizuki. Mái tóc xoăn dính đầy mưa bụi nhưng chị ta chẳng hề bận tâm, chỉ mải khom người nhòm ngó sự tình phía trong cửa chính.

Bắt gặp ánh nhìn chòng chọc của chị Rin, em như bừng tỉnh khỏi cơn mê. Ánh mắt chị ta chằm chằm dõi theo, như một mũi khoan xoáy vào anh Daisuke.

Ngày 12 tháng Bảy năm 1946.

Sau lần ấy anh thế nào rồi ạ? Nghe nói sau đấy anh không còn ho ra máu nữa, bà rất mừng. Trời oi hơn rồi, anh nhớ giữ gìn sức khỏe nhé.

Chuyện trong nhà bắt đầu lắng xuống. Khách khứa nghe tin anh Daisuke phục viên qua thăm hỏi chúc mừng cũng vơi dần. Có lẽ nhà mình sắp được quay lại yên tĩnh như trước kia. Anh Daisuke thường than mệt rồi chẳng làm gì, chỉ nằm dài trong phòng, khách cũng không tiếp. Vậy mà hôm kia lại gọi chị Rin tới, bảo phải thuật lại cho chị ta giây phút lâm chung của anh Goichi. Đúng rồi, chắc anh chưa biết tin, anh Akizuki Goichi hi sinh rồi.

Hôm đó chị Rin bắt anh Daisuke đợi khá lâu. Khi chị ta tới, anh Daisuke kể lại chi tiết khoảnh khắc cuối đời của anh Goichi. Em cùng bà và chị dâu ngồi bên lắng nghe, nội dung đại khái như sau.

Trong trận chiến ở một nơi tên là Mondo gì đó, anh Daisuke và anh Goichi lạc mất đơn vị. Hai người gặp pháo kích của địch, anh Goichi bỏ mạng. Anh Daisuke liền lục tìm di vật trên người anh Goichi, giữ bên mình rồi đi loanh quanh vô định. Sau đó anh Daisuke lại gặp pháo kích và mất đi đôi mắt vì mảnh pháo văng vào mặt. Anh ấy ngã xuống đất ngất xỉu, may thay được quân mình vừa hay đi qua đó phát hiện nên mới thoát chết.

“Bởi vậy Goichi không kịp trăng trối gì. Thi thể cậu ấy tôi an táng rồi. Đây là di vật tôi lấy được lúc đó.”

Dứt lời, anh Daisuke đưa ra một cuốn sổ tay. Máu dính trên đó ngả đen. Chị Rin nãy giờ vẫn lặng im, nghe chuyện xong cũng chẳng dông dài hỏi thêm. Quả là kì lạ. Người bình thường mà nghe tin em trai duy nhất đã mất thì kiểu gì cũng rơi nước mắt, thế mà chị Rin mặt cứ hầm hầm, chẳng nói chẳng rằng. Ánh mắt chị ta dán chặt lên mặt anh Daisuke, như muốn ăn tươi nuốt sống anh ấy.

Chắc chị Rin giận vì anh Daisuke sống sót trở về trong khi anh Goichi lại tử trận. Ngẫm lại thì cũng khó trách chị ta. Nhưng gì thì gì, dù chị ta có tội nghiệp, em cũng vẫn không chấp nhận được thái độ xấc xược đó. Mất công anh Daisuke tử tế báo tin, thế mà chị ta không thèm cảm ơn câu nào, còn giật lấy di vật của anh Goichi xong cứ thế đứng phắt dậy.

Tuy nhiên, ngay sau đó thì lạ lắm anh nhé. Bà và chị dâu vẫn đang sững sờ ngạc nhiên, nên em vội vàng đứng dậy tiễn chị Rin ra cửa. Khi ấy, chắc tưởng không ai để ý, chị ta khẽ nhếch mép cười.

Ôi! Ôi cái nụ cười! Không hiểu sao em lạnh hết sống lưng. Em không biết diễn tả thế nào, nhưng trong nụ cười của chị ta có nét gì đó rất xấu xa, nham hiểm, trông mà rợn cả người.

Tuy nhiên hình như ngay sau đó chị Rin phát hiện ra em đang nhìn nên nụ cười vụt tắt. Chị ta lườm em như dọa dẫm rồi tức tối bỏ đi. Nhưng rốt cuộc tại sao chị ta lại cười kiểu ghê rợn ấy nhỉ?

Em thực sự rất ghét chị ta.

Ngày 1 tháng Tám năm 1946.

Lâu lắm rồi em mới lại viết thư cho anh. Đáng là Tsuruyo nên viết thư thường xuyên hơn, nhưng giờ em đang rối lắm. Em cũng không rõ tại sao lại rối, nhưng nhìn chung là em sợ. Phải rồi, em đang sợ lắm anh ạ. Em linh cảm nhà Honiden chúng ta sắp xảy ra chuyện. Anh, anh à, em phải làm sao đây?

Ngày 8 tháng Tám năm 1946.

Anh à, em xin lỗi anh. Em thực sự thấy có lỗi khi khiến anh lo lắng vì lá thư kì lạ lần trước. Em cũng rất phân vân về lá thư này, không biết có nên để anh đọc hay không. Nhưng gửi lá thư kia rồi mà sau lại viết lảng sang chuyện khác, em đoán anh đọc được sẽ càng lo lắng. Thế nên em quyết định kể hết tất cả. Anh hãy lắng nghe nỗi phiền muộn này của em nhé. Nếu Tsuruyo có gì không phải, mong anh cứ nghiêm khắc dạy bảo em.

Từ ngày anh Daisuke trở về, không khí trong nhà hoàn toàn thay đổi, không những không tốt lên mà còn có chiều hướng xấu đi. Anh Daisuke trước kia là người rất vui vẻ, tràn đầy sức sống, hay quan tâm tới mọi người. Nơi đâu có anh ấy là tiếng cười sẽ không dứt. Ai cũng yêu quý anh Daisuke.

Vậy mà không hiểu sao lần này trở về anh Daisuke lại cứ ủ dột, như hóa thành người khác ấy. Không, không hẳn là ủ dột. Nên nói thế nào nhỉ? Cứ như có một bầu không khí quái dị bao trùm anh ấy. Anh Daisuke đã về hơn một tháng, thế mà em chưa thấy anh ấy cười lần nào.

Không, chưa nói đến chuyện hé răng cười. Chỉ khi có việc cần thiết, anh Daisuke mới mở miệng, mà lần nào cũng chỉ nói cực kì ngắn gọn. Anh ấy đi lại khẽ khàng như mèo, thường xuyên đảo qua đảo lại khắp nhà, hễ đánh hơi thấy việc gì liền đứng im nghe ngóng. Có lần em bắt gặp anh Daisuke đang dò dẫm giữa hành lang mờ tối, mặc yukata[43] trắng, đôi mắt giả mở trừng trừng. Em thấy mà sởn cả gai ốc.

Mỗi lần đọc sách hay viết lách ở biệt thất mà bỗng nhớ đến đôi mắt vô hồn của anh Daisuke là em lại thấy khó chịu, như thể có lưỡi dao sắc lạnh cứa vào tim gan. Anh Daisuke luôn dùng cặp mắt thủy tinh ấy để lặng lẽ theo dõi mọi người từ đâu đó trong nhà. Không, nhất định không phải do em ảo tưởng hay ám ảnh mà suy diễn lung tung đâu. Dù đang ở đâu anh Daisuke cũng đều nắm rõ nhất cử nhất động của cả nhà. Anh ấy luôn lặng lẽ trừng đôi mắt mù lòa để dò xét xem mọi người nói chuyện gì, rồi thì trong câu chuyện ấy ẩn giấu ý nghĩa gì (mặc dù làm gì có ẩn ý nào). Rốt cuộc anh Daisuke đang muốn tìm hiểu chuyện gì cơ chứ?

Người đáng thương nhất là chị dâu.

“Không, chị không sao. Hè nóng nực nên chị gầy đi thôi.” Chị dâu trấn an em thế. Nhưng chị gầy xọp đi, và em biết thừa chẳng đơn thuần là do hè nóng nực mà ra nông nỗi ấy.

Mấy hôm trước, bà thì thầm kể cho em một chuyện. (Dạo này mọi người đều nhiễm tật thầm thì khi nói chuyện.)

“Này Tsuruyo, bà kể cháu nghe chuyện về Daisuke và Rie nhé…”

“Vâng?”

Em khẽ đáp như sợ tai vách mạch rừng, rồi chăm chú quan sát khẩu hình của bà. Dạo này bà bỗng già đi nhiều, em trông mà đau lòng. Chần chừ một lúc, cuối cùng bà cũng quyết tâm nói ra.

“Hai đứa nó chẳng giống vợ chồng chút nào. Mỗi đứa một giường. Bà không sao hiểu nổi, mới từng ấy tuổi, chưa con chưa cái mà đã ngủ riêng.”

Em nghe xong liền đỏ mặt. Bà thật là… Sao lại nói chuyện xấu hổ thế với trẻ con như em chứ! Nhưng nghĩ kĩ thì xem ra đó là vấn đề nghiêm trọng nhất. Chính vì hết sức nghiêm trọng, lại không thể chia sẻ cùng ai, nên bà mới đành thổ lộ ưu phiền với con bé con như em. Nghĩ vậy, em lại ngoan ngoãn ngồi nghe bà nói tiếp.

“Bà ơi, vợ chồng không được ngủ riêng ạ? Có thể anh cả mới về nên còn mệt, lâu ngày thành thói quen ngủ một mình.”

“Ừ, thế thì ngủ riêng cũng không sao. Có điều…” Bà ngập ngừng giây lát rồi mới nói tiếp, “Từ lúc Daisuke về, hai đứa nó vẫn chưa làm chuyện vợ chồng.”

“Ơ!” Em lại đỏ mặt. “Bà kì ghê. Mà sao bà biết chuyện ấy ạ?”

“Biết chứ. Bao giờ đến tuổi bà, cháu sẽ tự động biết rất nhiều chuyện. Nhưng vấn đề nằm ở đâu nhỉ? Daisuke chắc chắn không ghét bỏ Rie, hơn nữa rất lâu rồi nó chưa động vào phụ nữ.”

“Chị dâu cũng đâu ghét bỏ gì anh cả đúng không bà?”

“Phải, nên bà mới thấy lạ. Nói chung con người Daisuke hoàn toàn thay đổi rồi.” Bà nói rồi thở dài.

Nghe tới câu cuối, em bất giác rùng mình sợ hãi.

Ngày 15 tháng Tám năm 1946.

Anh, chắc qua lá thư trước anh đã biết rõ suy nghĩ của em. Em cũng đã đọc thư anh trách mắng. Dĩ nhiên em biết suy nghĩ của mình thật ngu ngốc, đời nào có chuyện đáng sợ thế, và em không được phép ôm suy nghĩ đó nữa.

Nhưng anh ơi, đâu chỉ mình em ôm nỗi sợ ấy. Quả nhiên chị dâu cũng lo sợ như em, chẳng qua là cố giấu đi thôi.

Chuyện là hôm qua em bất chợt trông thấy chị dâu thẫn thờ đứng ở phòng khách. Em từng kể rồi đấy, một tháng nay chị ấy bỗng gầy rộc đi. Giữa phòng khách mờ tối, trông chị đứng bần thần thật chẳng khác nào bóng ma.

“Chị dâu, chị đang làm gì thế?”

Em tiến tới sau lưng chị, thì thầm hỏi. Chị giật bắn mình như thể nghe sét đánh ngang tai. Ngoảnh lại thấy em, chị yếu ớt mỉm cười. “Em này, xấu tính quá. Làm chị giật cả mình.”

“Ôi, em xin lỗi. Em không cố ý. Nhưng chị làm gì ở đây thế ạ?”

“Chị á?” Chị dâu nghiêng đầu lặng lẽ nhìn em, rồi nở nụ cười buồn. “Chị đang ngắm bình phong. Này, em nhìn Kuzunoha xem…”

Em giật mình liếc mắt về phía bình phong. Từ lúc lấy trong kho ra, bức bình phong Kuzunoha vẫn luôn được đặt trong phòng khách. Trong căn phòng tối tăm, em chợt thấy hình bóng chị dâu và Kuzunoha trên tấm bình phong như hòa lẫn vào nhau, trông rất đáng thương.

“Chà, Kuzunoha… Chị dâu, Kuzunoha làm sao ạ?”

Em hết nhìn chị dâu rồi lại quay sang nhìn Kuzunoha để tìm câu trả lời.

“Tsuruyo, em có nghĩ Kuzunoha báo điềm gở không? Xem này, Kuzunoha không có tròng mắt. Anh cả em cũng…” Chị dâu nói, giọng run rẩy. Sau đó chị càng lúc càng hạ giọng, như đang tự lẩm bẩm với bản thân, “Tại sao anh cả em lại mất đi đôi mắt chứ? Trước khi gắn mắt thủy tinh, tròng mắt anh ấy thế nào? Chẳng lẽ…”

“Chị dâu!” Em bất giác thở gấp, song cũng không quên nhỏ giọng vì sợ người khác nghe thấy. “Vậy là chị cũng… Chị dâu, chị cũng thấy có gì đó bất thường phải không? Anh cả hơi là lạ mà nhỉ?”

Chị dâu kinh ngạc nhìn thẳng vào em. Mắt chị mở to hết cỡ. Em tưởng chừng mình sẽ bị hút vào đôi mắt đó. Chị dâu nắm lấy tay em rồi bắt đầu thủ thỉ. “Tsuruyo, chị không biết em có ý gì, nhưng nói năng phải cẩn trọng. Không thể vì mình thấy khó chịu mà lời ra tiếng vào về người khác, thế là không tốt. Có điều…” Chị dâu thở dài não nề. “Đều tại bức bình phong này. Nó làm chị tưởng tượng linh tinh rồi giày vò bản thân. Kuzunoha này là cáo trắng, không phải Kuzunoha thật. Song việc cáo trắng ở rừng Shinoda hóa thành Kuzunoha rồi ước hẹn với Abe no Yasuna không xuất phát từ ý đồ xấu. Hơn nữa Yasuna là đàn ông, dù nhận nhầm người phụ nữ khác là vợ cũng không sợ mất thể hiện. Nhưng còn… còn phụ nữ thì sao? Cứ ngỡ đối phương là chồng, rồi đến khi vỡ lẽ rằng nhận nhầm người thì thế nào? Nếu rơi vào tình huống đó người phụ nữ hẳn khó mà sống tiếp.”

Anh, anh hiểu chưa? Có người lo sợ giống em. Hơn nữa đó lại là chị dâu, người hiểu rõ anh Daisuke nhất. Không, không chỉ em và chị dâu, chắc hẳn bà cũng nghi ngờ. Giờ ngẫm lại, dường như em lý giải được ánh nhìn như thiêu như đốt của chị Rin ngày anh Daisuke trở về. Cả cái cười nhếch mép đầy tà ý của chị ta vào hôm anh Daisuke gọi tới để thuật lại giây phút lâm chung của anh Goichi nữa… Ôi, có khi nào ngay từ đầu chị ta đã nhìn thấu thân phận thực sự của kẻ đeo mắt giả đó không? Tức là chị Rin biết người đó không phải anh Daisuke, mà là Goichi, em ruột của chị ta?

Anh, anh ơi hãy cứu em! Nếu tình hình này cứ tiếp diễn, em sẽ chết mất. Không, không khéo chị dâu còn phát điên hoặc bỏ mạng sớm hơn em. Em muốn điều tra cho rõ chân tướng. Kẻ đang ở nhà mình hiện giờ thực sự mất đôi mắt vì bị thương ư? Hay anh ta cố tình hủy đi đặc điểm nhận dạng duy nhất giúp phân biệt anh Daisuke và anh Goichi? Chưa kể, người hi sinh ở Mondo gì đó, lẽ nào là anh Daisuke?

Ôi, khủng khiếp quá! Mới nghĩ đến thôi em đã phát điên rồi. Anh ơi, hãy cho em mượn trí tuệ của anh. Kẻ đó đúng là anh Daisuke hay là tên giả mạo? Không làm sáng tỏ được việc này thì em e mọi người sẽ vĩnh viễn bị giam cầm trong địa ngục mất.

Ngày 23 tháng Tám năm 1946.

Anh ơi, em cảm ơn anh! Anh đúng là thông minh hơn người. Chuyện đơn giản vậy sao chúng em không nghĩ ra nhỉ?

Vâng, em vẫn nhớ, đó là bùa gỗ thế thân[44]. Đàn ông trước khi ra chiến trường sẽ in dấu bàn tay phải lên bùa gỗ, sau đó gửi lên đền Onzaki[45]. Tóm lại người ta tin rằng bùa gỗ sẽ gánh mọi xui xẻo thay cho chủ nhân. Em nhớ rõ trước khi tòng quân, anh Daisuke cũng gửi bùa thế thân lên đền. Trên tấm bùa bằng gỗ mộc in dấu bàn tay phải của anh ấy, ông chú Shinden còn viết mấy chữ “Võ vận trường cửu[46]”. Em vẫn nhớ như in, chẳng khác nào chuyện mới xảy ra hôm qua cả.

Phải, bùa gỗ đó hẳn vẫn treo ở khu giữ bùa của đền Onzaki. Mặt sau viết tên anh Daisuke nên nhất định không nhầm được. Em không rõ anh Goichi có từng gửi bùa gỗ lên đền không, nhưng không quan trọng. Có bùa của anh Daisuke là đủ rồi.

À, em từng đọc trong sách là vân tay của mỗi người không giống nhau và vĩnh viễn không thay đổi. Vì thế không nhất thiết phải tìm được bùa gỗ của anh Goichi, mà chỉ cần của anh Daisuke thôi. Có nó, ta sẽ hóa giải được những hoài nghi đáng sợ của mọi người trong nhà.

Em sẽ nhờ bà Sugi tối nay tới khu giữ bùa của đền Onzaki, lén đem bùa gỗ của anh Daisuke về đây. Không sao, em sẽ tìm cớ bắt bà Sugi giữ bí mật. Giá mà em tự đi được, nhưng tiếc là cơ thể quá ốm yếu nên em không thể leo dốc tới đó. Không sao đâu, anh đừng lo. Trước khi làm rõ mọi chuyện em sẽ không để bà với chị dâu biết.

Em sẽ tìm cơ hội lấy dấu vân tay của anh Daisuke. Nhất định em sẽ không làm hỏng chuyện. Anh hãy yên tâm nhé. Kính thư.

Chú Thích:

[39] Người phụ nữ do cáo hóa thành trong truyền thuyết Nhật Bản, được coi là mẹ của âm dương sư Abe no Seimei.

[40] Tên hồi nhỏ của Abe no Seimei, âm dương sư nổi tiếng thời Heian.

[41] Mica.

[42] Nơi sinh sống của Abe no Yasuna, cha Abe no Seimei.

[43] Một loại áo truyền thống của Nhật, thường mặc vào mùa hè. Vải để may yukata thường khá mỏng nhẹ, thoáng mát. Ngày nay người Nhật hay mặc yukata vào những dịp lễ hội mùa hè.

[44] Bùa dạng bảng bằng gỗ để viết tên hoặc điều ước lên rồi treo trong đền, chùa cầu phúc.

[45] Đền thờ thổ thần trong vùng, thuộc tỉnh Okayama.

[46] Câu cầu phúc cho những người lính ra trận luôn bình an.