← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 2

Sáng sớm hôm sau, Dan rời khỏi nhà để đến Tòa Thượng thẩm quận Whatcom. Ngày mới bắt đầu với bầu trời xanh lơ và những đám mây trắng lóa. Tracy tranh thủ ra ngoài chơi và đưa Therese đi tham quan Cedar Grove. Cô mặc cho Daniella một bộ đồ mùa đông màu hồng và buộc dây mũ cho con bé thật chặt, rồi đẩy chiếc xe nôi của Daniella, cùng Therese thong dong tản bộ dọc theo phố Chợ, nhấm nháp những cốc cà phê latte từ cửa hàng The Daily Perk.

“Thế mà tôi cứ tưởng vào mùa đông Seattle phải lạnh lắm.” Therese nói. “Thời tiết này tuyệt quá, bà nhỉ?”

Tracy nhớ lại những ngày trong veo, lạnh lẽo của ngày xưa, khi không khí khô đến nỗi nó gần như kêu lách tách. “Cô nghĩ Daniella đã đủ ấm chưa?”

“Cô bé đang thích lắm kìa.” Therese nói. “Hãy xem cô bé say sưa ngắm nhìn mọi thứ. Tôi nghĩ có thể bà đang có trong tay một điều tra viên nữa đấy.”Daniella đã tỉnh ngủ hẳn, con bé quả thực đang có vẻ mải miết quan sát mọi thứ xung quanh mình.

Tracy cũng vậy. Ánh sáng ban ngày càng cho thấy rõ hơn những thay đổi đang diễn ra với phố Chợ từ khi Gary Witherspoon đảm nhận chức thị trưởng sau nhiệm kỳ bốn mươi năm của cha anh ta - Ed. Năm 2013, khi Tracy về quê nhà để chôn cất di thể được phát hiện của em gái cô, phố Chợ trông như một thị trấn ma. Các cơ sở kinh doanh đều bị đóng ván bịt lại, và những tờ giấy lơ thơ rơi vãi trên các vỉa hè, dồn đống trước các ô cửa. Lác đác trên các ô cửa sổ ở mặt tiền là những tấm biển đề chữ “Bán” và “Cho thuê”. Nhưng bây giờ, chúng đã được thay thế bằng những tấm biển như “Sắp khai trương” và “Mở cửa lại”. Cedar Grove sắp có thêm một nhà hàng và một nhà máy bia mini với hai mươi tư vòi rót ở nơi từng là cửa hàng đồ thiếc; một tiệm bánh ở nơi từng là cửa hàng đồ cũ; một tiệm uốn tóc thay thế cho một tiệm cắt tóc đơn thuần, cùng một tiệm ăn trưa nhỏ và hiệu sách ở nơi từng là cửa hàng một giá. Chỉ còn lại hiệu thuốc cũ ở góc phố, rạp chiếu bóng Hutchins đã được tân trang và tòa nhà gạch lớn với tấm biển đề chữ “Cửa hàng Mậu dịch Kaufman” màu trắng bạc phếch gắn ở phía trên cửa là còn quen thuộc. Nếu Cedar Grove thắng vụ kiện lần này, tòa nhà ấy sẽ sớm biến thành một cửa hàng bán trang phục, thiết bị cho các hoạt động vui chơi giải trí ngoài trời như câu cá, đạp xe, đi bộ đường dài, cắm trại, chèo xuồng vượt thác, trượt tuyết, vân vân..

Các cửa sổ ở mặt tiền đã bị mờ, nhưng đằng sau chúng Tracy nghe thấy tiếng sửa chữa - những giọng nói đang oang oang chỉ dẫn và tiếng rè rè, thịch thịch của cưa đĩa và búa.

Khi Tracy và Therese tới góc Đại lộ Thứ hai và phố Chợ, Tracy liếc nhìn lối vào của Sở Cảnh sát Cedar Grove. Tòa nhà một tầng bằng kính và kim loại này không nằm trong dự án cải tạo. Cô lại nghĩ về Roy Calloway và việc ông quay lại làm cảnh sát trưởng.

“Tôi vào thăm một người bạn cũ đã.” Cô nói và bảo Therese đưa Daniella tới công viên. “Tôi sẽ tới đó sau. Sẽ không lâu đâu.”

“Bà cứ thong thả.” Therese nói, đẩy chiếc xe nôi tới vạch qua đường. “Daniella và tôi sẽ ổn thôi.”

Vào trong tòa nhà, Tracy tiến tới chỗ một nữ cảnh sát đang ngồi đằng sau một bức tường lửng. Chẳng hề có kính chống đạn ngăn cách cô ta với sảnh như ở Sở Cảnh sát Seattle. Tracy lấy huy hiệu điều tra viên và thẻ cảnh sát ra rồi đặt chúng lên quầy. “Tôi đến đây để gặp Roy Calloway. Ông ấy có ở trong văn phòng không?”

“Có đấy.” Cô cảnh sát nói, nhìn tấm thẻ rồi lại nhìn Tracy. “Ông ấy đang chờ chị à?”

Tracy ngẫm nghĩ về câu hỏi đó và về những gì cô biết về Roy Calloway, bạn thân của cha cô. “Vâng!” Cô nói. “Tôi nghĩ có thể ông ấy đang chờ tôi.”

Vài phút sau, Calloway đẩy mở một cánh cửa kim loại và thò đầu ra. “Tracy à? Bất ngờ quá!”

“Cháu đang đi dạo quanh khu này và nghĩ rằng cháu nên ghé qua thăm bác vì tối qua bác cháu mình chưa có cơ hội để trò chuyện.”

Calloway mỉm cười. “Vào đây nào.”Cô đi theo ông dọc theo hành lang, lớp vải sơn sờn mòn bóng loáng lên dưới những ngọn đèn huỳnh quang màu trắng. Họ bước qua nơi đã từng là văn phòng của Calloway trong ba mươi tư năm. Tiêu bản con cá hồi vân sặc sỡ mà ông bắt được ở sông Yakima không còn được treo trên tường nữa, nhưng vẫn còn đó tấm biển gỗ có ghi câu châm ngôn ưa thích của Calloway.

Quy tắc #1: Cảnh sát trưởng luôn đúng.

Quy tắc #2: Xem Quy tắc #1.

“Bác đã để lại cho Finlay tấm biển này.” Calloway nói khi ông ngoảnh lại và nhận thấy Tracy đang nhòm vào trong văn phòng. “Nhưng con cá thì không. Bác đã phải rất vất vả mới bắt được nó mà.”

“Bác cũng để lại cho cậu ấy cả bàn làm việc nữa.” Tracy nhận ra những vết nứt và vết xước trên cái bàn gỗ màu đỏ tía nơi Calloway có thói quen gác đôi giày cỡ 13 của ông lên. Calloway từng nói với mọi người rằng họ sẽ tìm thấy thi thể ông đằng sau cái bàn đó, bởi vì ông sẽ không rời khỏi văn phòng làm việc của mình cho đến khi tạ thể. Lời nói gở ấy đã suýt thành hiện thực vào năm 2013. Dáng đi tập tễnh của Calloway nhắc Tracy nhớ đến ngày hôm đó trên rặng núi.

Calloway dẫn cô vào phòng họp, trên tường treo một dãy ảnh các vị cảnh sát trưởng của Cedar Grove từ những năm 1850 đến nay. Vị trí cuối cùng bên phải không còn là ảnh của Calloway nữa, mà là chân dung của Finlay Armstrong. Finlay trông như một người không thể nín cười vậy.

Calloway lấy ra một cái ghế, ngồi xuống ở đầu bàn và ngả người ra sau, xếp hai tay lại đặt trên đùi. “Cháu có muốn uống gì không? Cà phê nhé?”

Tracy đặt áo khoác, găng tay và mũ lên một cái ghế và ngồi ở bên phải ông. Cô giơ cái cốc giấy của mình lên. “Nếu cháu uống quá nhiều caffeine thì Daniella sẽ không ngủ được đâu ạ. Mà cháu cũng vậy.”

Calloway mỉm cười. “Bác đã rất vui khi nghe tin cháu sinh con. Cảm ơn cháu vì đã gửi thiệp báo tin đến cho hai bác.”

“Đương nhiên là cháu phải báo tin cho bác biết rồi. Bác là bạn thân nhất của cha cháu mà.”

“Bác vẫn nhớ ông ấy. Bác đã luôn nghĩ khi nghỉ hưu bác sẽ có nhiều thời gian để câu cá và đi săn cùng ông ấy. Thậm chí bác còn nghĩ bác sẽ luyện cái trò bắn súng đó. Cháu gọi nó là gì ấy nhỉ?”

“‘Bắn súng cơ chế đơn’, mặc dù Sarah và cháu luôn gọi là “bắn súng cao bồi”.”

“Đúng rồi.”

“Bọn trẻ hiện đang thống trị các giải đấu.” Tracy nói. “Đó là do các trò chơi điện tử. Chúng nhanh như chớp vậy. Nhanh hơn cháu ngày xưa nhiều.”

“Nhanh hơn cả Sarah chứ?”

“Có lẽ là không” Cô mỉm cười. Hồi đó Sarah có biệt danh là “Cô Nhóc” vì là em gái của Tracy, nhưng trong chuyện bắn súng, Sarah chẳng bao giờ về nhì.

“Bây giờ có Daniella, cháu càng nhớ hai người họ hơn. Cha cháu chắc sẽ mừng lắm khi được lên chức ông, và Sarah sẽ chiều hư Daniella mất.”

Cha của Tracy, bác sĩ James Crosswhite, đã tự kết liễu đời mình vì quá đau buồn trước việc Sarah mất tích và được cho là bị sát hại.

“Phải, ông ấy sẽ mừng lắm.” Calloway nói. “Ông ấy đã giúp quá nhiều người. Bác vẫn không thể tin nổi là ông ấy không tự giúp được chính mình.”

“Chân bác thế nào rồi?” Tracy hỏi, chuyển từ chủ đề đau lòng này sang chủ đề đau lòng khác.

“Cũng tàm tạm.”

“Bác vẫn dẻo dai hơn một miếng thịt bò hai đô la chứ?”

Calloway nhoẻn miệng cười như thể đang giấu một bí mật. “Tuổi tác đã khiến bác mềm nhão hơn một chút rồi.”

“Cháu sẽ không kể với ai đâu.” Cô nói. “Còn Finlay thì sao? Cậu ấy thế nào?” Cô hỏi, đi thẳng vào vấn đề chính khiến cô và ông đang ngồi đây lúc này.

Calloway hắng giọng và ngả người về đằng trước. “Chà, bác tin chắc rằng cậu ấy đã khá hơn.”

Tracy chờ đợi.

Ông gật đầu. “Hóa ra đám cháy ấy là một vụ cố ý phóng hỏa. Thủ phạm đã sử dụng can xăng mà Finlay cất trong kho dụng cụ ở cuối khuôn viên nhà họ để làm chất dẫn cháy.”

Tin tức này quả là bất ngờ với cô. “Thật sao?”

“Bọn bác mới nhận được báo cáo về việc cố ý phóng hỏa. Đám cháy khởi phát trong văn phòng của Kimberly. Thi thể cô ấy đã bị cháy đến mức không còn nhận dạng được.”

Trước đó, khi nghe về vụ cháy, Tracy đã tự hỏi tại sao Kimberly không chạy được ra khỏi nhà. Đám cháy xảy ra vào buổi trưa mà. “Báo cáo khám nghiệm tử thi viết gì ạ?”

“Đó chính là điều bác muốn biết ngay lúc ấy đấy. Bác đã lập tức gọi điện đến Bellingham và liên lạc được với chuyên viên khám nghiệm tử thi, nhưng bấy giờ chưa có báo cáo. Hai tuần trước, bác mới nhận được nó.”

“Cô ấy không chết vì đám cháy ạ?”

“Có lẽ là có. Nhưng nguyên nhân khiến cô ấy không thể chạy thoát khỏi đám cháy là một vết thương do một vật tù tác động vào sau đầu.”

Tracy tựa người vào lưng ghế. “Trời ơi, bác Roy.”

Calloway lắc đầu. “Bác biết. Cú đánh đó mạnh đến nỗi làm nứt sọ cô ấy. Có lẽ đủ mạnh để giết chết cô ấy. Thật lạ lùng khi bác lại hy vọng cô ấy tử vong ngay từ lúc đó, nhưng... bác vốn sợ lửa, sợ đám cháy... nếu mà bị chết cháy thì còn khủng khiếp đến nhường nào.”

“Bác có xác định được kẻ tình nghi nào không?”

“Cháu biết trong những vụ thế này thì kẻ tình nghi thường là ai mà.”

“Luôn là người chồng. Đó chính là lý do Finlay không có mặt ở đây đúng không ạ?”

Calloway bắt đầu đung đưa người một chút, rồi ngả về đằng trước và đặt hai cánh tay lên bàn. Chúng vẫn to dày như sợi dây thừng bện vậy. “Trước lúc mất, Kimberly đang viết một cuốn sách. Cháu biết cô ấy viết bài cho tờ Towne Crier chứ?”

“Cháu không rõ lắm.”

Calloway gật đầu. “Cô ấy là một phóng viên.”

“Cuốn sách ấy viết về cái gì vậy?

“Vụ sát hại Heather Johansen.”

Cái tên và sự kiện ấy khiến Tracy khựng lại. Heather Johansen đã chết vài tháng trước khi Sarah mất tích. “Cháu tưởng tất cả mọi người đều cho rằng thủ phạm là Edmund House, và đó là một trong những vụ giết người hàng loạt của hắn.”

“Người ta kết luận như vậy chủ yếu vì thiếu bằng chứng vì cái chết của Heather Johansen quá gần thời điểm Sarah mất tích, và còn những điểm tương đồng rõ rệt khác nữa. Khi ấy House có quá nhiều điểm khiến người ta nghi ngờ hắn là thủ phạm.”

“Bác đã bao giờ hỏi hắn về chuyện đó chưa?”

“House á?” Calloway gật đầu. “Hắn phủ nhận. Nhưng hắn cũng đã phủ nhận việc sát hại Sarah còn gì. Gã đó là một kẻ tâm thần. Hắn sẽ chẳng bao giờ thừa nhận điều gì.”

Heather Johansen đã bị sát hại vào tháng Hai, sáu tháng trước khi Sarah mất tích. Cả hai cô gái đều mười tám tuổi và đều mất tích trên cùng một con đường. Johansen mất tích vào một đêm tuyết rơi, thi thể cô ấy được tìm thấy trong rừng sau bốn ngày bố mẹ cô ấy báo tin với cảnh sát.

“Heather Johansen cũng thiệt mạng vì bị đánh vào đầu.” Tracy nói.

“Bác biết.”

“Và Heather là bạn gái thời trung học của Finlay, đúng không bác?”

“Đúng vậy.” Calloway nói. “Và chắc cháu cũng nhớ mối quan hệ của họ đã kết thúc không hề êm đẹp.”

Tracy vẫn còn nhớ, mặc dù cô lớn hơn Heather bốn tuổi và lúc ấy cô đang đi học năm cuối đại học ở xa nhà. Sarah đã kể cho cô biết. Trong một thị trấn nhỏ như Cedar Grove hồi đó, tất cả mọi người đều biết nhau - và biết về mọi chuyện của nhau.

“Heather chia tay với Finlay ngay trước Giáng sinh năm cậu ta học năm cuối trung học.” Calloway nói. “Cậu ta đã bám đuôi, rình rập cô ấy. Chuyện trở nên khá là phiền phức. Bác đã ra tay chấm dứt nó.”

“Cháu nhớ là cậu ta đã nghỉ học ở trường Trung học Cedar Grove.” Tracy nói.

“Cậu ta đã hoàn thành chương trình học ở trường cao đẳng cộng đồng tại Bellingham. Sau đó, cậu ta nhận được bằng tư pháp hình sự và về đây làm việc cùng bác.”

Tracy suy nghĩ một lát. “Mục đích Kimberly viết cuốn sách ấy là gì?”

Calloway ngồi ngả ra sau và xoa bàn tay to khỏe lên mặt. Ông đã già đi trong năm năm qua. Cả hai người họ đều như vậy, nhưng cuộc chiến cam go trên dãy núi lần trước đã khiến ông già đi nhanh hơn. Mái tóc bạc của ông không còn dấu vết gì của màu nâu nhạt ngày trước, khuôn mặt ông chảy xệ và đầy vẻ dãi dầu mưa nắng, ngay cả một người dành nhiều thời gian ở ngoài trời cũng không đến mức bị nắng gió tàn phá như vậy. Tracy biết Calloway vốn không muốn nghỉ hưu, có lẽ vì ông sợ sẽ không biết phải làm gì cho qua ngày. Làm cảnh sát trưởng ở Cedar Grove không chỉ là một công việc. Đó đã là nhân dạng của ông, là mục đích sống hằng ngày của ông trong suốt hơn ba thập kỷ.

Tracy có cảm giác cuộc trò chuyện này sẽ đi đến đâu, nhưng cô quyết định để mặc Calloway dẫn dắt nó.

“Lúc ấy Kimberly đang cố xác định thủ phạm sát hại Heather.” Ông nói.

“Cô ấy không nghĩ đó là House sao?” Tracy hỏi, mặc dù cô đã biết câu trả lời. “Tại sao lại như vậy?”

“Chuyện phức tạp lắm.”

“Bác kể từ đầu đi ạ, nhưng cho cháu nghe phiên bản rút gọn thôi nhé. Cháu không muốn cô bảo mẫu hoặc con gái cháu bị chết cóng ở ngoài kia đâu.”

“Được rồi. Trước khi bắt được House, sau khi Sarah mất tích, Finlay vốn là nghi phạm chính. Tuy nhiên, Kimberly lại có một giả thuyết khác nhắm vào Ed Witherspoon.”

“Ed ư?” Tracy nói. “Tại sao?”

“Heather vốn làm việc bán thời gian cho văn phòng bất động sản của Ed, cho đến cái ngày cô ấy mất tích.”

“Vâng. Thế thì sao ạ?”

“Khi cha mẹ Heather gọi điện và báo tin cô ấy mất tích, họ khai rằng lần cuối cùng họ nói chuyện với Heather là ngay trước khi cô ấy rời khỏi văn phòng của Ed vào xế chiều hôm đó. Cô ấy nói với họ rằng cô ấy sẽ ngủ lại qua đêm ở nhà Kimberly, nhưng Kimberly nói mình không biết gì về sự sắp xếp đó. Bọn bác đã nói chuyện với Ed bởi vì bọn bác muốn tìm hiểu về trạng thái tinh thần của Heather khi cô ấy tan làm. Bọn bác muốn biết liệu Finlay có lảng vảng xung quanh đó vào lúc ấy, liệu Heather có bao giờ kể về một mối quan hệ khác, liệu tính tình cô ấy có thay đổi gì đáng chú ý không. Những chuyện đại loại như vậy.”

“Ed đã nói gì ạ?”

“Ông ta nói Heather làm việc theo ca của cô ấy như thường lệ, và ông ta đã cho cô ấy về sớm một tiếng để đảm bảo rằng cô ấy có thể về nhà được. Lúc ấy sắp có bão mà.”

“Ed là người cuối cùng nhìn thấy cô ấy còn sống sao?”

“Là người cuối cùng theo như chúng ta biết.”

“Ông ta có bằng chứng ngoại phạm không?”

“Ông ta nói vào thời điểm Heather bị sát hại, ông ta đang ở nhà. Barbara đã xác nhận điều đó. Bà ta nói họ đã ở nhà cả tối. Điều đó cũng có lý. Đài khí tượng đã dự báo tối hôm đó sẽ có trận bão lớn đầu tiên của mùa đông, và cuối cùng sẽ có tuyết, lượng tuyết rơi có thể dày ba mươi phân.”

“Vậy tại sao Kimberly lại nghĩ hung thủ có thể là Ed?”

“Cô ấy nghĩ Barbara Witherspoon đã nói dối.”

“Cô ấy căn cứ vào đâu mà nghĩ như thế?”

“Một chi tiết trong báo cáo của cảnh sát mà bọn bác chưa bao giờ công bố, nhưng Kimberly biết được vì cô ấy đã gửi đơn yêu cầu cung cấp hồ sơ vụ án có thể công khai sau khi bọn bác đóng vụ án ấy vì nghĩ Edmund House là thủ phạm.”

“Chi tiết mà Kimberly đã phát hiện ra là gì?”

“Tuyết đã rơi hai mươi phân vào đêm hôm trước, nhưng khi bọn bác đến nói chuyện với Ed vào sáng hôm sau, trên mui xe của ông ta chỉ phủ lớp tuyết chừng bốn, năm phân. Bác đã ghi lại điều đó trong báo cáo.”

“Kimberly nghĩ ai đó đã lái xe của ông ta trong cơn bão tuyết.”

“Đó chính là giả thuyết của Kimberly.”

“Ed đã nói gì?”

“Ông ta nói ông ta không biết tại sao tuyết đọng trên mui xe của ông ta lại ít như vậy. Ông ta nói chắc là những cái cây xung quanh ngôi nhà của ông ta đã che chắn cho chiếc xe.”

Tracy suy nghĩ một lát. “Finlay có bằng chứng ngoại phạm trong đêm đó không?”

“Có mà cũng như không. Lúc đó cậu ta có tiết học ở trường cao đẳng cộng đồng tại Bellingham, nhưng giáo viên đã cho cả lớp về sớm vì thời tiết xấu. Finlay nói cậu ta đang lái xe về nhà ở Cedar Grove thì cơn bão ập tới. Cậu ta nói cậu ta phải đi rất chậm và mãi đến khuya mới về tới nhà.”

“Chuyện đó đã được kiểm tra chưa ạ?”

“Chuyện cậu ta về nhà muộn ấy hả? Rồi. Cha mẹ cậu ta đã xác nhận điều đó. Và giáo viên của cậu ta cũng xác nhận rằng trước đấy cậu ta có đi học.”

“Vâng, nhưng liệu cậu ta có đủ thời gian để lái xe trở lại Cedar Grove và giết Heather không nhỉ?”

“Thời gian sẽ rất sít sao, nhưng có, cậu ta có thể.”

Tracy suy nghĩ về điều đó. “Còn đối tượng tình nghi nào nữa không?”

“Chỉ có Edmund House thôi. Bọn bác đã kết thúc vụ án khi bắt được House.”

“Điều đó cũng hợp lý.” Tracy nói. “Căn cứ vào những điểm tương đồng. Nhưng House rõ ràng không giết Kimberly.”

“Ừ, rõ ràng hắn không phải thủ phạm giết Kimberly.”

“Có những ai biết Kimberly đang viết cuốn sách đó?”

“Biên tập viên của cô ấy ở tờ Towne Crier. Ông bà Johansen, Finlay. Và có lẽ một số người khác nữa quanh thị trấn. Việc giữ bí mật ở Cedar Grove còn khó hơn ở một hội nữ sinh đại học ấy. Cháu biết điều đó mà.”

Cô quan sát Calloway trong một thoáng. “Bác thực sự không nghĩ Finlay giết vợ cậu ta đấy chứ, bác Roy?”

“Bác không biết phải tin vào điều gì nữa, Tracy. Nhất là sau những gì đã xảy ra với Sarah và phiên tòa xử House. Điều bác biết là, bác ngày càng già, không còn thích hợp với công việc này nữa. Nó đang trở nên quá khó khăn đối với bác.”“Hẳn là Kimberly đã đi hỏi han quanh thị trấn. Cô ấy hẳn phải nói chuyện với mọi người, tìm kiếm tư liệu.”

“Có lẽ thế. Còn một chuyện nữa mà bọn bác chưa bao giờ công bố. Báo cáo về việc cố ý phóng hỏa viết rằng đám cháy khởi phát trong văn phòng của Kimberly, nơi cô ấy để máy tính và toàn bộ tài liệu nghiên cứu. Finlay nói cô ấy có những bìa kẹp hồ sơ chứa các tư liệu về vụ án của Johansen, nhưng tất cả đều đã hóa thành tro. Và còn có một chuyện khác liên quan đến vụ này. Trước kia bác chưa thể chắc chắn, nhưng bây giờ thì nó có khả năng lắm.”

Tracy ngồi ngả người ra sau. Chờ đợi. Calloway thở ra một hơi dài, như một con cá voi thở ra qua lỗ phun khí của nó. Rồi ông nói: “Jason Mathews.”

Cô lắc đầu. “Jason Mathews là ai?”

“Lúc đó cháu đã đi khỏi đây rồi. Chuyển đến Seattle.”

Tracy đã rời khỏi Cedar Grove sau phiên tòa đầu tiên xét xử Edmund House. Phiên tòa ấy đã kết tội hắn, nhưng cô vẫn luôn nghi ngờ về kết luận đó. Cuối cùng, mọi người trong thị trấn đều trở nên mệt mỏi khi cô cứ muốn tìm lời giải cho những thắc mắc của mình. Điều đó đã tạo ra một khoảng cách giữa cô và dường như tất cả mọi người ở Cedar Grove, kể cả Roy Calloway và mẹ cô. Cô đã chuyển đến Seattle để trốn tránh, và bắt đầu quá trình trở thành một sĩ quan cảnh sát ở Seattle.

“Mathews là một luật sư bào chữa hình sự ở đâu đó thuộc Montana nhưng đã nghỉ hưu ở đây để vợ cũ của ông ta không thể bòn rút gì của ông ta thêm nữa.”

“Ông ta chuyển đến đây khi nào?” Tracy hỏi.

“Vào khoảng năm 2013.”

“Trước hay sau khi cháu đòi xét xử lại vụ của House?”

“Sau. Eric Johansen đã làm vài việc để sửa sang nhà cửa cho Mathews, và họ đã nói chuyện về vụ án của Heather. Vì cháu đã khơi lên những mối nghi ngờ về việc liệu House có thực là đã giết Sarah hay không, Eric cũng thắc mắc liệu House có phải là kẻ sát hại Heather chăng. Ông ấy và Mathews đã thỏa thuận với nhau. Mathews nói ông ta sẽ tìm hiểu mọi chuyện, đổi lại Eric sẽ giúp Mathews đóng một số món đồ gỗ trong nhà.”

“Cái ông Mathews này đã tìm hiểu được những gì?”

“Ông ta đến Sở Cảnh sát với một lá thư ủy quyền cho phép ông ta đại diện cho gia đình Johansen và đề nghị được xem hồ sơ vụ án. Bác đã yêu cầu ông ta làm đơn xin cung cấp những thông tin có thể công khai.”

“Ông ta có tìm được gì không?”

“Chúng ta không bao giờ biết được.” Calloway nói. “Ông ta đã chết. Có kẻ đã bắn ông ta.”

Tracy nhìn Calloway. Cô có cảm giác ông đã nhử cô. Calloway hiểu rõ Tracy bằng hoặc hơn bất cứ ai ở Cedar Grove. Ông biết cô cứng đầu hệt như cha mình, và khi cô đã đeo đuổi điều gì, cô sẽ không dễ dàng buông bỏ. Đó là lý do Tracy phải tìm hiểu bằng được về cái chết của Sarah - cô không bao giờ chịu bỏ cuộc cho đến khi có được câu trả lời cho những thắc mắc của mình, ngay cả khi việc tìm ra những câu trả lời ấy suýt chút nữa đã giết chết cô.

“Cụ thể thì chuyện gì đã xảy ra với ông ta?” Cô hỏi.

“Cho cháu xem hồ sơ vụ án đó sẽ dễ dàng hơn là kể với cháu.”

Cô kiểm tra đồng hồ đeo tay. “Hôm nay thì không được rồi. Daniella và cô bảo mẫu đang đợi cháu. Còn về ông bà Johansen thì sao? Mathews có báo lại cho họ biết điều gì đáng chú ý không?”

Calloway lắc đầu. “Theo những gì bác biết thì không.”

Tracy lại nhìn đồng hồ. Cô cần cho Daniella bú, nếu không cả hai mẹ con cô đều sẽ chẳng vui vẻ gì. Đã đến lúc đi thẳng vào vấn đề rồi.

“Bác muốn cháu điều tra vụ này, đúng không bác Roy?”

“Bác đã nghĩ đến điều đó.” Ông nhún vai. “Nhưng bây giờ cháu còn vướng con bé con và nếu bác nhờ cháu thì thật không phải phép. Bác sẽ tìm người khác vậy.”

Đó chính là cách nhờ vả của Roy Calloway, nhờ mà như không nhờ vậy.

“Cháu đang được nghỉ sinh.” Cô nói. “Vài tháng nữa nhà chúng cháu mới cải tạo xong và đến lúc đó chúng cháu mới có thể chuyển về đấy được.”

“Cháu còn con gái nữa.” Ông nói. “Đó mới là đối tượng ưu tiên của cháu.”

“Đúng vậy. Nhưng cháu mới thuê một cô bảo mẫu. Thật khó để biết cô ấy làm ăn ra sao nếu cháu cứ quanh quẩn bên họ suốt.”

“Cháu muốn điều tra vụ này sao?” Calloway hỏi.

Tracy mỉm cười. Đúng là Roy, trả lời một câu hỏi bằng một câu hỏi - làm như Tracy muốn làm việc này vậy. “Để cháu gọi điện về Seattle xem họ có chấp thuận cho cháu điều tra vụ này không. Cháu không hiểu lắm về những gì mình có thể làm trong thời gian nghỉ sinh, nhưng cháu cho rằng họ sẽ đồng ý thôi.”

“Còn Dan thì sao?”

Tracy định nói “Anh ấy thì có vấn đề gì chứ”, nhưng ngăn mình lại kịp thời. “Cháu sẽ bàn với anh ấy.”

“Bác tán thành điều đó, Tracy.” Ông nhìn cô với ánh mắt nghiêm nghị từng khiến tất cả bọn trẻ con trong thị trấn sợ hãi. “Bác không cần phải nói với cháu rằng nếu linh cảm của bác là đúng và những cái chết này có liên quan đến nhau theo một cách nào đó, và chuyện cháu đang tìm hiểu về vụ này lộ ra...”

“Cháu hiểu, bác Roy ạ. Cháu cũng biết công việc này không hợp lắm với một người đang làm mẹ. Cháu cho rằng cháu nên tìm hiểu ngay xem liệu cháu có còn muốn làm nó hay không.”

“Hãy bàn với Dan. Dành ra một, hai ngày suy nghĩ trước khi đưa ra quyết định. Nếu cháu quyết định rằng mình không muốn làm, bác sẽ thông cảm với cháu mà. Bác sẽ không nghĩ ngợi gì đâu.”