← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 3 Tòa Thượng thẩm quận Whatcom
Bellingham, Washington

Dan O'Leary cố gắng hết sức để trông có vẻ thoải mái. Ngồi ở bàn luật sư, nghe Rav Patel lý luận cho cái kiến nghị của Cedar Grove về phán quyết giản lược, Dan tỏ ra điềm tĩnh và không nao núng. Cây bút của anh ngự trên cuốn sổ tay, hai chân anh bắt tréo, như muốn ngụ ý rằng những gì Patel nói không đáng để anh phải ghi chép lại. Trong chừng mực nào đó, đúng là thế thật. Luật sư đại diện cho thành phố Cedar Grove lý luận rằng Larry Kaufman - đang ngồi bên cạnh Dan ở bàn luật sư, trông có vẻ căng thẳng trong bộ com lê và cà vạt - không thể kiện thành phố, Thị trưởng Gary Witherspoon hay các thành viên của hội đồng thành phố, vì họ được bảo vệ bởi nguyên tắc công vụ.

Vốn thông minh và rõ ràng có nhiều kinh nghiệm trong phòng xử án của Thẩm phán Doug Harvey, Patel đã viết bản tóm tắt pháp lý một cách ngắn gọn và đưa ra các lập luận trong bài nói một cách đơn giản. Anh ta muốn thuyết phục Thẩm phán Harvey tin rằng mình có một cơ sở pháp lý vững chắc để bác bỏ đơn kiện của Kaufman. Nếu Patel thành công, Kaufman sẽ phải rời khỏi tòa án trước cả khi Dan có cơ hội lên tiếng.

Tuy nhiên, điều mà Dan thấy thú vị hơn cả những lập luận pháp lý của Patel chính là việc Patel đang làm chuyện này.

Giống như nhiều thành phố khác, Cedar Grove có một hợp đồng bảo hiểm giúp họ có thể thuê một công ty luật ở bên ngoài để đại diện cho những lợi ích của thành phố trong các vấn đề liên quan đến tranh chấp, kiện tụng. Tuy nhiên, thay vì chuyển vụ việc này cho công ty bảo hiểm của họ và công ty luật đó ở Bellingham, Cedar Grove đã chọn Patel đệ trình kiến nghị về phán quyết giản lược. Tại sao?

Có thể là vì Patel sẽ chỉ đứng ra tranh tụng về bản kiến nghị này thôi. Nếu thành công, Cedar Grove sẽ không cần trả tiền cho một công ty luật đắt đỏ. Còn nếu bản kiến nghị của Patel bị bác bỏ, anh ta vẫn có thể thuê công ty ở Bellingham kia. Nhưng vì là một luật sư, Dan nhìn đâu cũng thấy các mưu mô. Anh tự hỏi liệu trong trường hợp này có lý do nào đó khuất tất hay không.

Phụ tá của Dan là Leah Battles đã phát hiện ra rằng Patel trở thành luật sư của thành phố cùng năm Gary Witherspoon trở thành thị trưởng. Cô ấy thấy sự trùng hợp này thật thú vị, và suy nghĩ đó của cô không phải là không có lý. Hóa ra Patel cũng tốt nghiệp trường Đại học Bang Washington ở Pullman, và anh ta cùng Witherspoon đều là thành viên trong hội huynh đệ Tau Kappa Epsilon. Dan tự hỏi liệu quyết định xử lý nội bộ vấn đề này của Patel có liên quan gì đến việc Kaufman tố cáo Witherspoon - người anh em cùng hội huynh đệ với Patel - về tội lừa đảo hay không. Đó là những lời tố cáo mà họ không muốn lọt ra khỏi Cedar Grove vào thời điểm thành phố đang tìm kiếm nguồn tài trợ để tân trang khu vực trung tâm.

“Trong tất cả các vụ kiện liên quan đến tội gây thiệt hại do bất cẩn, điều đầu tiên cần xác định là liệu bị đơn có nghĩa vụ cẩn trọng đối với nguyên đơn hay không.” Patel lý luận. Anh ta là một người đàn ông mảnh khảnh, cằm lún phún râu. Bộ com lê của anh ta rộng thùng thình như thể anh ta vừa sút cân, và anh ta có chất giọng đều đều có thể ru ngủ những người mất ngủ. Tuy nhiên, Thẩm phán Harvey có vẻ chăm chú. Và đó chính là vấn đề.

Bất chấp vẻ điềm tĩnh bề ngoài, Dan chẳng hề tự tin chút nào. Lý lẽ của Patel rất xuất sắc, nhưng chỉ khi người ta không xem xét kĩ hơn các cơ sở lập luận của anh ta. Đã năm năm rồi không tranh tụng ở quận Whatcom, cũng không quen thuộc với Thẩm phán Harvey, Dan không biết liệu ông ta có dành thời gian để suy xét sâu hơn không - hay ông ta sẽ chọn lựa con đường dễ dàng là tống cổ anh ra khỏi phòng xử án.

“Các tòa án ở bang chúng ta từ lâu đã nhận ra sự khác biệt giữa nghĩa vụ của chính phủ đối với công chúng và nghĩa vụ của chính phủ đối với cá nhân.” Patel nói. “Nguyên tắc công vụ ngăn cản việc áp đặt trách nhiệm pháp lý đối với một chính quyền hoặc các công nhân viên chức của chính quyền đó, trừ phi nguyên đơn có thể chứng minh rằng họ đã vi phạm nghĩa vụ đối với cá nhân anh ta. Nói cách khác, như đã được trích dẫn trong bản tóm tắt của chúng tôi, “‘Nghĩa vụ đối với tất cả mọi người nghĩa là không có nghĩa vụ với riêng một ai cả.’”

Patel nở nụ cười, rõ ràng hài lòng với lý lẽ này. Anh ta tiếp tục nói trong mười phút nữa. Khi anh ta nói xong, Thẩm phán Harvey không đặt ra câu hỏi nào, điều này khiến Dan không biết ông ta đang ngả về phía nào.

Khi Dan nhổm dậy khỏi ghế của mình để thế chỗ Patel ở bục trình bày, Harvey ngả người về phía trước và nói với giọng trầm, khàn của một người đã hút thuốc nhiều năm. Vầng trán của ông ta xuất hiện một nếp nhăn hằn sâu, và khóe mắt ông ta nổi lên những vết chân chim cũng sâu không kém. “Ông O'Leary, tòa có khuynh hướng đồng ý với luật sư của Cedar Grove.” Đây không phải là một khởi đầu tốt đẹp. “Các tòa án ở bang chúng ta đã nhận định rằng mục đích của nguyên tắc công vụ là để bảo vệ các công nhân viên chức của thành phố làm công việc của họ. Bao gồm việc áp đặt quy chuẩn xây dựng của bang. Tại sao chúng ta không thể áp dụng nguyên tắc ấy trong trường hợp này?”

Dan đặt bìa kẹp hồ sơ của mình lên bục và - nghe theo lời cảnh báo của Battles rằng Thẩm phán Harvey không muốn nghe những điều tào lao - anh nói: “Thưa quý tòa, câu trả lời đơn giản là không cần thiết phải áp đặt quy chuẩn xây dựng của bang trong trường hợp của thân chủ tôi.”

Thẩm phán Harvey nhướng mày.

“Chúng chỉ là cái cớ.” Dan nói. “Và chúng là nền tảng của sự lừa gạt và dối trá đối với thân chủ tôi. Tôi xin phép giải thích được không?”

“Tôi nghĩ ông nên giải thích.” Thẩm phán Harvey ngồi ngả người ra sau với vẻ mặt như muốn nói “Để xem ông có gây được ấn tượng với tôi không”.

“Luật sư của Cedar Grove đã trích dẫn chính xác nguyên tắc công vụ cũng như những lý do chính đáng cho sự tồn tại của nó. Tuy nhiên, nguyên tắc đó không áp dụng cho trường hợp này.”

“Tại sao lại không? Ông đang nhắc đến trường hợp nào trong bốn trường hợp ngoại lệ?” Harvey hỏi.

“Không trường hợp nào trong số chúng” Thẩm phán Harvey trông càng có vẻ bối rối hơn. Dan tiếp tục. “Không cần đến trường hợp ngoại lệ nào cả bởi vì bản thân nguyên tắc ấy không thể áp dụng được. Nguyên tắc ấy không được áp dụng khi một chính quyền thực hiện một chức năng riêng tư, trong trường hợp đó, chính quyền ấy cũng có nghĩa vụ cẩn trọng như một cá nhân tham gia vào hoạt động đó. Và một chính quyền được coi là thực hiện một chức năng riêng tư khi chính quyền ấy tham gia vào một hoạt động kinh doanh.”

“Vậy Cedar Grove đã tham gia vào hoạt động kinh doanh gì?” Thẩm phán Harvey hỏi, có vẻ vẫn chưa tin lắm.

“Việc mua và bán đất từ các cá nhân. Cho phép tôi nói qua về lịch sử của Cedar Grove vì có như vậy thì sự giải thích của tôi sẽ dễ hiểu hơn.”

Harvey nhoẻn miệng cười. “Tôi vốn là người mê lịch sử, luật sư ạ. Mời ông bắt đầu. Nhưng ngắn gọn thôi nhé.”

Dan đặt tấm bảng đầu tiên trong số vài tấm bảng to bằng tờ áp phích mà anh đã mang đến tòa lên một cái giá đỡ. Trông nó hơi giống một cây phả hệ. Dan chỉ vào cái tên Christian Mattioli ở trên cùng của tấm bảng và thuật lại lịch sử của Cedar Grove. “Ngay sau khi các kim loại quý được phát hiện ở Cedar Grove, người ta đã chuyển đến đây để làm việc trong các hầm mỏ, hoặc kinh doanh các dịch vụ liên quan như bán trang phục và thiết bị cho thợ mỏ. Cơ sở kinh doanh của thân chủ tôi là một trong vài cơ sở kinh doanh đã hình thành nên nơi mà sau này được biết đến là phố Chợ.” Dan vừa nói vừa di chuyển cây bút dọc theo các cơ sở kinh doanh được vẽ thành hình chữ nhật trên tấm bảng. “Những cơ sở kinh doanh ở mặt đường này bao gồm Ngân hàng Quốc gia Đệ nhất, Trạm điện tín Western Union, một hiệu thuốc, một khách sạn kiêm nhà hàng, và Cửa hàng Mậu dịch Kaufman. Giờ đây, chiểu theo Đạo luật Sở hữu Đất khai hoang năm 1850, khu đất này đã được cấp cho những người cư trú và làm việc trên đó. Ông của thân chủ tôi đã mua phần lớn mảnh đất được biết đến với tên gọi phố Chợ và xây dựng tòa nhà gạch mà đến nay vẫn còn tồn tại. Sau đó, ông ấy chia mảnh đất ấy thành nhiều phần và bán cho các chủ cơ sở kinh doanh khác. Do đó, những người chủ của các cơ sở kinh doanh trên phố Chợ và con cháu họ mới là người sở hữu mảnh đất nơi các cơ sở kinh doanh của họ được xây dựng lên, chứ không phải thành phố Cedar Grove.”

“Chuyện đó thì có gì quan trọng?” Harvey nói. “Một thành phố vẫn có thể áp đặt các quy chuẩn xây dựng mà.”

“Điều đó quan trọng chính là vì: mặc dù trong một thời gian, các cơ sở kinh doanh này rất phát đạt, nhưng khi khoáng sản cạn kiệt và Công ty Khai thác mỏ Cedar Grove đóng cửa, phần lớn người dân thị trấn khi ấy đã bỏ đi. Các cơ sở kinh doanh trên phố Chợ bắt đầu lụn bại. Một số chủ cơ sở đổi mới hình thức kinh doanh, nhưng cuối cùng, hầuhết bọn họ đều đóng cửa và bỏ hoang các tòa nhà. Luật sư bên bị đã đúng khi nói rằng đối với những tòa nhà đó - đã bị bỏ hoang hơn một năm - thành phố có quyền áp đặt phiên bản mới nhất của Quy chuẩn Xây dựng Quốc tế trước khi chúng có thể mở cửa kinh doanh trở lại - nhưng những người chủ của chúng chẳng mặn mà gì với việc đó. Thành phố đã sử dụng điều này làm cú đòn tài chính để ép các chủ sở hữu bán lại các cơ sở kinh doanh và đất đai của họ cho thành phố. Nhưng...” Dan đặt tấm biểu đồ cuối cùng lên giá đỡ. “Thân chủ của tôi, Larry Kaufman, là cháu trai của Emmet Kaufman, người đã thành lập Cửa hàng Mậu dịch Kaufman trong tòa nhà gạch vẫn còn tồn tại đến ngày nay. Cha của thân chủ tôi, Larry Kaufman Cha, đã chia cửa hàng làm đôi và biến một nửa thành cửa hàng bán đồ kim khí. Không giống như các cơ sở kinh doanh đã đóng cửa khác, Cửa hàng Mậu dịch Kaufman vẫn mở cửa và kinh doanh từ những năm 1850.”

Harvey nhìn anh, khẽ gật đầu. “Ông cho rằng các quy chuẩn xây dựng ban đầu vẫn phù hợp với các quy chuẩn xây dựng hiện hành?”

“Đúng vậy. Vì thế, vào năm 2014, khi Gary Witherspoon đến gặp Larry Kaufman và nói với ông ấy rằng tòa nhà của ông ấy sẽ phải tu sửa theo những tiêu chuẩn của quy chuẩn xây dựng hiện tại, lời tuyên bố đó của ngài ấy hoặc là do thiếu hiểu biết, hoặc là do cố ý lừa dối.”

“Hãy giả sử rằng đó là một sự lừa dối.” Harvey nói. Dan có cảm giác mình đang chơi cờ vua với vị thẩm phán này. “Thân chủ của ông đã dựa vào cơ sở nào để tin lời Thị trưởng?”

“Có lẽ là không có cơ sở nào cả. Nhưng ông ấy có lý do để tin tưởng một thanh tra xây dựng được cử đến thay mặt cho Cedar Grove. Phụ lục D đính kèm trong hồ sơ khởi kiện của chúng tôi chính là một bản báo cáo của thanh tra xây dựng mà Cedar Grove đã thuê.”

Thẩm phán Harvey lật giở các thẻ đánh dấu phụ lục đính kèm trong hồ sơ khởi kiện của Dan và có vẻ đọc chăm chú.

“Khi thân chủ của tôi từ chối rời khỏi tòa nhà, hoặc bán nó với cái giá gần như cho không, Thị trưởng Witherspoon và hội đồng thành phố đã quy kết rằng tòa nhà của ông ấy không an toàn đối với mọi người. Đó cũng là một sự vu cáo. Sự quy kết ấy chẳng hề có mục đích bảo vệ người dân. Mục đích của nó là để thân chủ tôi không thể kinh doanh được nữa, từ đó Cedar Grove có thể sở hữu tòa nhà lớn nhất trên phố Chợ và bán nó cho một công ty lớn có trụ sở ở vùng Tây Bắc chuyên kinh doanh trang phục, thiết bị và dụng cụ cho các hoạt động giải trí ngoài trời. Thưa quý tòa, trong phụ lục E đính kèm với hồ sơ khởi kiện của chúng tôi, quý tòa sẽ thấy báo cáo chuyên môn của một cựu thanh tra quy chuẩn xây dựng của thành phố Seattle.” Dan đợi một lát để Thẩm phán Harvey làm theo kịp lời anh, đó là một tín hiệu tốt cho thấy ông ta vẫn đang chú ý đến những gì anh nói.

“Báo cáo đó khẳng định rằng Cửa hàng Mậu dịch Kaufman không có điểm gì là không an toàn. Thực tế, giống như nhiều tòa nhà gạch cổ kính khác, tòa nhà ấy còn được xây dựng cầu kỳ quá mức so với các tiêu chuẩn ngày nay, do đó, ngay cả khi áp đặt theo quy chuẩn hiện hành, các vi phạm và những điểm cần tu sửa của nó chỉ ở mức tối thiểu và thân chủ của tôi có thể dễ dàng thực hiện.”

Harvey ngồi ngả người ra sau, đu đưa trên ghế. “Tóm lại, thưa quý tòa, thành phố đã đóng vai trò như một cá nhân mua bất động sản, đó không phải là một chức năng công của chính quyền, và sau đó đã đưa ra những tuyên bố sai lệch để ép thân chủ tôi bán cửa hàng. Khi ông ấy từ chối, thành phố đã sử dụng Quy chuẩn Xây dựng Quốc tế một cách man trá để quy kết rằng tòa nhà ấy không an toàn, đóng cửa cơ sở kinh doanh của thân chủ tôi và áp đặt ông ấy phải thực hiện những sửa chữa phiền phức và tốn kém. Nguyên tắc công vụ không được áp dụng trong trường hợp này.”

Patel đứng dậy định đáp trả, nhưng Thẩm phán Harvey giơ tay lên. “Tôi nghĩ tôi đã nghe đủ thông tin từ cả hai luật sư. Tòa sẽ xem xét vấn đề này. Các vị sẽ được nghe phán quyết của tôi vào chiều mai.”

Dan rời khỏi phòng xử án với cảm giác mình đang đi qua sông trên một lớp băng mỏng, sự trì hoãn có thể không kéo dài lâu, và kết quả có thể vẫn rất thê thảm.