← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 7

Tracy và Calloway rời khỏi nhà ông bà Johansen, họ lại được quấn mình trong những chiếc áo khoác mùa đông, nhưng không có nhiều thông tin hơn so với lúc họ đến. Khi đã vào trong xe, Tracy nói: “Chúng ta cần tìm hiểu xem Mathews có thể đã kể với ai chuyện Heather mang thai.”

“Có thể ông ta không kể với ai cả.” Calloway nói.

“Có thể là vậy, nhưng nếu ông ta đã kể với ông bà Johansen, ông ta cũng có thể kể với những người khác.”

“Ý cháu là ông ta đã tiết lộ bí mật?” Calloway nói.

“Cháu chỉ nói là có thể thôi. Có thể ông ta đang cố hòa nhập... hoặc đang cố tỏ vẻ mình là một luật sư quan trọng với những tin tức mà ông ta nghĩ không ai khác trong thị trấn biết được, ngay cả cha mẹ của Heather.”

“Và ông ta đã kể cho người mà ông ta không nên kể?” Calloway nói, cao giọng thắc mắc. “Đó quả là một sự trùng hợp hy hữu.”

“Cháu không nói người đó là kẻ đã giết ông ta. Ông ta có thể kể với bất cứ ai, và người đó có thể về nhà và kể lại với vợ mình, rồi vợ người ấy đến buổi họp phụ huynh vào tuần sau đó và kể cho những người bạn của bà ta, mỗi người bạn đó lại đi kể với bạn bè họ, cho đến khi tin đồn một luật sư tai to mặt lớn ở Montana nói rằng Heather Johansen mang thai tới được tai kẻ sợ chuyện đó bị bại lộ còn hơn cả ông bà Johansen.”

“Kẻ đã sát hại cô ấy.”

“Kẻ nghĩ rằng mình đã thoát tội, rằng cái bí mật ấy đã bị chôn vùi hai mươi năm trước.”

Calloway thở dài thườn thượt. “Đó vẫn chỉ là suy đoán, Tracy ạ.”

“Công cuộc điều tra đúng hướng thường bắt đầu bằng những suy đoán mà.”

Động cơ nóng lên, cô mở quạt làm tan sương giá ở mức cao và cho xe chạy lùi ra khỏi đường dẫn vào nhà.

Theo thói quen, Calloway chỉ đường cho Tracy tới con đường quận lộ - con đường mà cô nhắm mắt cũng có thể tìm được. Tracy để mặc ông làm thế. Cô biết Calloway sẽ luôn là cảnh sát trưởng của Cedar Grove và là bạn của cha cô, và với ông, ít nhất Tracy sẽ luôn là cô gái nhỏ đang đạp xe quanh thị trấn.

Đi được bốn dặm trên con đường quận lộ, Calloway bảo cô rẽ phải vào một con đường trải nhựa chỉ cách nơi thi thể của Heather Johansen được tìm thấy chừng một dặm. Tracy biết rõ con đường nhánh này. Một bạn nữ thời trung học của cô từng sống ở một trong vài ngôi nhà nằm phía cuối đường. Nó chỉ vừa đủ rộng để hai chiếc xe tránh nhau vào một ngày đẹp trời, với điều kiện chúng phải đi thật chậm, đến mức gần như dừng hẳn lại. Hôm nay, mười lăm centimet tuyết càng làm con đường trở nên hẹp hơn nữa.

“Một nơi tuyệt vời để lánh đời, nếu đó là ý định của Mathews khi ông ta mua ngôi nhà của mình.” Tracy nói khi xe họ xóc lên xóc xuống khi đi qua những vết lún được tạo ra bởi những phương tiện giao thông khác.

“Có vẻ như vậy.” Calloway nói. “Cuộc ly hôn của ông ta dường như rất tệ. Theo lời Eric Johansen, Mathews đã chính thức nghỉ hưu, nhưng ông ta vẫn nhận các vụ kiện nếu khách hàng trả tiền mặt, hoặc đổi chác bằng một việc gì đó - để vợ cũ của ông ta không thể lấy mất một nửa.”

“Hay nhỉ.” Tracy nói, ngạc nhiên trước sự hằn học của một số người - đặc biệt là với những người mà họ đã từng tuyên bố là yêu thương. “Có lẽ bà vợ cũ đã bắn ông ta?” Cô nói đùa, nhưng Calloway nhìn cô với đôi lông mày nhướng lên. “Bác nói chuyện với bà ta rồi à? Đó là lý do bác biết cuộc ly hôn của họ rất tệ?” Tracy nói.

Calloway gật đầu. “Bác có hỏi bà ta. Bà ta đã tới Billings vào ngày Mathews bị bắn, và từ những thông tin bác có thể thu thập được, bà ta vui mừng khi rũ bỏ được ông ta, vui mừng khi ông ta rời khỏi thị trấn của họ và không muốn dính dáng gì đến ông ta nữa. Bà ta nói ông ta là kẻ rượu chè và xấu tính khi say xỉn. Bác chẳng tìm thấy bất cứ bằng chứng gì chứng tỏ bà ta dính dáng đến vụ ông ta bị bắn.” Calloway chỉ qua kính chắn gió. “Đỗ lại ở đây đi!”

Tracy đánh lái cho chiếc Subaru rời khỏi mặt đường lốp xe nẩy lên nẩy xuống khi cô rời khỏi mặt đường nhựa vàđậu trên lớp tuyết. Bên phải cô sừng sững những cây linh sam lớn, hoàng sam, vân sam, thông Ponderosa và vài loài thông rụng lá khác. Hồi trung học, cô từng có một môn học được đi thực tế để học về những cái tên của thứ mà giáo viên của cô đã gọi là quần thể cây đa dạng nhất bang Washington. Bên trái cô là con dốc rất nghiêng dẫn lên sườn đồi, nơi có ít cây cối hơn. Có cảm giác nhiệt độ hạ xuống mười độ khi ở bên dưới vòm cây dày che bóng con đường. Những mảng tuyết phủ trên đất và bám trên những cành cây trông như một lớp bột trắng mịn màng. Tracy đội mũ áo khoác lên và vận động chân tay để cơ thể ấm hơn. Cô và Calloway trông như đang biểu diễn một điệu nhảy jig của Ireland vậy.

“Đây là địa điểm đó ạ?” Tracy hỏi, mỗi hơi thở và lời nói được thốt ra lại kèm theo một bụm khói trắng, lơ lửng một lát trước khi tan biến.

“Dọc theo con đường này.” Ông nói, dẫn cô đi xa hơn chừng mười thước nữa.

“Được rồi, đừng ngần ngại gì nữa, bác Roy. Lạnh quá đi mất. Bác hãy nói ngắn gọn cho cháu nghe để cả hai chúng ta đều không bị chết cóng nào.”

Jason Matheus cảm thấy chiếc xe tải của mình lạng sang bên trái và nghe thấy một tiếng còi vang lên. Ông ta giật mình thức tỉnh, đánh lái thật mạnh sang bên phải - phải nói là quá mạnh mới đúng. Chiếc xe tải băng qua làn đường liên kề, lốp xe kêu đánh thịch một tiếng khi chúng rời khỏi mặt đường nhựa. Các cành cây đập vào kính chắn gió và dọc theo cửa sổ bên ghế phụ. Matheus đánh lái sang bên trái. Lốp xe va vào cạnh của mặt đường nhựa, nẩy qua mép đường, và chiếc xe tải chệnh choạng lao sang bên trái. Cuối cùng, Matheus cũng trở lại tâm đường.

Ông ta thở dài một hơi, ép mắt mình mở trừng. Chủ quán rượu Bốn Nhánh đã ngỏ ý gọi taxi cho ông ta, nhưng Matheus không muốn tốn tiền. Ông ta đủ tỉnh táo để tập trung tinh thần thuyết phục chủ quán rượu rằng ông ta có thể tự lái xe về nhà, nơi chỉ cách quán rượu có vài dặm.

Ông ta vốn giỏi lươn lẹo. Đó là điều khiến ông ta trở thành một luật sư giỏi. Ông ta có khuôn mặt không cảm xúc và khả năng khiến cho đối thủ nghĩ rằng ông ta sẽ khởi kiện nếu họ không trả cho ông ta số tiền ông ta mong muốn trong lúc hòa giải. Họ thường trả tiền cho ông ta. Đúng thế, ông ta là một luật sư giỏi, và ông ta sẽ tiếp tục hành nghề, nhưng ông ta sẽ không làm việc chỉ để phải chu cấp liên tục cho vợ cũ. Dù có phải xuống địa ngục ông ta cũng sẽ không chu cấp cho bà ta đâu, mà bà ta phải xuống dưới đó thì đúng hơn. Ông ta đã giấu tiền ở những nơi mà bà ta và các kế toán điều tra của bà ta sẽ không bao giờ tìm thấy. Đó không phải là một khoản kếch xù, vì thế ông ta mới có thể giấu bà ta. Ông ta đã ẩn mình. Đó là phương châm của ông ta. Ẩn... mình... Không, đó không phải là phương châm của ông ta. Phương châm của ông ta là... Phương châm của ông ta là cái quái gì nhỉ?

Chết tiệt. Ông ta không cần một phương châm nào cả. Và ông ta không cần một tài sản kếch xù. Đó chính là vấn đề quan trọng. Ông ta không cần một tài sản kếch xù. Ông ta không cần đến nó ở cái thị trấn Cedar Grove chết tiệt này.

Ông ta ngồi thẳng dậy, cố gắng xác định phương hướng. Ông ta cần tìm lối rẽ vào con đường dẫn đến nhà ông ta. Dọc theo con đường quận lộ này không có biển báo nào cả. Làm sao người ta tìm được lối rẽ nếu không có biển báo chứ? Ông ta đã phải sử dụng các cột mốc - chỉ cần đi qua tảng đá lớn bên vệ đường một chút. Đó là nơi ông ta cần rẽ. Đó là... Lúc nãy ông ta đang nói gì nhỉ? À, ông ta không cần nhiều tiền. Ông ta giỏi lươn lẹo. Chẳng hạn như ông thợ mộc gốc Na Uy kia - tên là Sven hay... Eric gì đó. Phải rồi, Eric. Eric đang đóng mấy món đồ gỗ trị giá hai nghìn đến ba nghìn đô la cho Matheus, và tất cả những gì Matheus phải làm là đi hỏi han loanh quanh về cô con gái đã chết của Eric. Kiếm tiền quả là dễ dàng. Matheus đã xem hồ sơ của cảnh sát và phát hiện một tin chấn động. Hóa ra con gái của ông già Eric chẳng phải loại trong trắng, đoan trang gì. Cô ta đang mang thai lúc cô ta chết. Và cảnh sát thậm chí chẳng buồn nói điều đó cho Eric hay vợ ông ta biết. Ai đang phụ trách các vấn đề an ninh ở đây nhỉ, Andy Taylor và Barney Fife à? Vẻ mặt Eric lúc Matheus báo tin cho ông biết có thể làm cho đồng hồ ngừng quay. Trông ông như vừa bị ai đó vả cho một cú và ông không còn kêu tích tắc được nữa.

Thế rồi Eric bảo Matheus kết thúc cuộc điều tra. Eric nói ông không muốn Matheus đào sâu vụ việc hơn nữa, ông và vợ không muốn biết thêm điều gì về cái chết của con gái.

Matheus đã dành ra chừng mười tiếng đồng hồ để nghiên cứu hồ sơ, và ông ta đã nhận được năm nghìn đô la - không, không đúng... Ông ta đã nhận được... Ông ta đã nhận được gì nhỉ? Chết tiệt.

Một cú xóc nữa. Một cú gật đầu nữa. Matheus nhìn thấy tảng đá ở ven đường. Chết tiệt. Ông ta giậm mạnh phanh. Lốp của chiếc xe tải trượt trên mặt đường. Khói cuồn cuộn bốc lên qua buồng lái, vốn đang vắt ngang trên đường. Tại sao họ không đặt biển báo đánh dấu ngã rẽ chết tiệt này chứ? Ông ta đập tay vào vô lăng. Lũ ngốc!

Ông ta đang nói gì nhỉ...

Ông ta nhìn con đường. À phải rồi. Ngã rẽ.

Ông ta đi xuôi theo con đường hẹp, buồng lái của chiếc xe tải lạng về bên trái. Tại sao ông ta lại lạng về bên trái nhỉ? Chiếc xe tải cọ vào vách đất. Ông ta nghe thấy tiếng thứ gì đó bị gãy, một tiếng răng rắc. Matheus lại chỉnh vô lăng, trở về giữa đường.

Ông ta nhìn thấy thứ gì đó trên mặt đất và nhấn phanh. Cái quái gì thế nhỉ?

Cành cây à?

Trông như cành cây vậy.

Sao lại có những cành cây ở giữa đường thế nhỉ?

Ông ta có đang ở trên đường không?

Ông ta nhìn qua kính chắn gió. Những cành cây. Mẹ kiếp. Trên đường. Liệu ông ta có thể lái xe qua chúng không? Không chắc lắm. Chết tiệt.

Ông ta đẩy cửa phía ghế lái. Nó không mở ra. Ông ta đẩy lần nữa, cảm thấy nó nhúc nhích nhưng không mở ra. Cái quái gì thế?

Ông ta đẩy mạnh hơn. Cánh cửa kêu lên một tiếng kẽo kẹt bực bội, rồi một tiếng rít. Ông ta hích vai vào nó, và cánh cửa mở ra đủ rộng để cho ông ta ra ngoài. Ông ta bị vấp nhưng bám được vào tay cầm của cánh cửa để giữ thăng bằng. Cả một mặt bên của chiếc xe tải bị sứt và trầy xước. Gương chiếu hậu bên cạnh xe đã biến mất. Hẳn là ai đó đã đâm vào xe ông ta, rồi bỏ trốn. Có lẽ là ở bãi đỗ xe của cái quán rượu chết tiệt kia. Ông ta sẽ phải báo chuyện này với hãng bảo hiểm.

Ông ta đứng đó một lát, ngập ngừng. Ông ta ra khỏi xe làm gì nhỉ? Thế rồi ông ta nhìn thấy những cành cây. Đúng rồi. Ông ta buông tay cầm của cửa xe ra và loạng choạng đi tới đằng trước chiếc xe tải. Ông ta chăm chú nhìn những cành cây. Chúng quá nhiều nên xe không thể đi qua được. Nếu ông ta vẫn cố chấp lại qua thì bị nổ lốp vẫn còn là may mắn chán. Ông ta sẽ phải kéo chúng ra chỗ khác. Ông ta cúi xuống và nắm lấy một trong những cành cây to và kéo nó sang vệ đường. Thứ quái quỷ này nặng gớm. Ông ta nhìn đống cành cây. Chết tiệt. Chuyện này sẽ mất thời gian đây. Ông ta cúi xuống và nắm lấy cành cây thứ hai, kéo nó đi. Ông ta cảm thấy chóng mặt vì phải cúi xuống và ráng sức kéo. Ông ta phải dừng lại để thở.

Matheus nhìn lên ngọn đồi ở phía bên kia của con đường và nhăn nhó mặt mày vì những tia nắng rực rỡ chiếu qua những thân cây. Ông ta giơ một tay lên để che mắt cho khỏi chói.

Ông ta nghe thấy một tiếng rắc.

Nhưng làm gì có cơn gió nào. Tại sao một cành cây lại... Ông ta cảm thấy một sự va đập.

Cơ thể ông ta ngã ngửa ra sau và trong một thoáng ngắn ngủi, ông ta có thể nhìn thấy bầu trời.

Tracy nhìn Calloway khập khiễng từng bước một. Chốc chốc ông lại nhăn nhó, như thể vừa giẫm phải một cái đinh.

Ông nhún vai. “Chân bác bị tê bì vì tổn thương dây thần kinh. Tình trạng càng tệ hơn mỗi khi trời lạnh như thế này.”

Ông chỉ ngón tay đeo găng về phía xa xa trên con đường. “Bọn bác đã tìm thấy xe tải của Mathews đỗ ở giữa con đường này, động cơ vẫn chạy. Trên đường có một bó cành cây và bên vệ đường đằng đó cũng có mấy cành cây. Có vẻ như ông ta đã dừng lại, kéo nó ra khỏi đường để có thể về nhà.”

“Ai đó đã đặt những cành cây ấy trên đường để ông ta phải ra khỏi xe.”

“Nếu họ làm thế, chứng tỏ họ đã suy tính kĩ càng.” Calloway nói. “Những cành cây đó không bị cắt, đó là điều dễ dàng xác định được. Trông chúng như bị bẻ vậy, và không phải mới bị bẻ trong ngày hôm đó.”

“Ai đó đã bẻ chúng và đặt chúng ở đó.” Tracy suy nghĩ về điều này. Cô thọc đôi bàn tay đeo găng vào sâu hơn trong túi áo khoác. Việc đứng im một chỗ càng khiến cô thấy lạnh hơn.

“Nồng độ cồn trong máu của Mathews cao gần gấp đôi mức cho phép.” Calloway nói. “Và sườn xe ông ta đã bị va chạm khá nặng. Bọn bác đã không có lý do gì để nghi ngờ có kẻ phục kích ông ta vì chẳng ai ở đây biết ông ta đủ rõ để thù oán ông ta. Đó là lý do bọn bác đã thẩm vấn bà vợ cũ của ông ta.”

“Còn Eric Johansen thì sao?”

“Bọn bác cũng đã nghĩ đến ông ấy. Eric khai rằng mình đang làm đồ nội thất trong nhà để xe vào thời điểm Mathews bị bắn.”

“Vợ bác ấy đã xác nhận việc đó?”

Calloway lắc đầu. “Không thể. Lúc đó bà ấy đang ở nhà thờ. Dù sao đi nữa, bọn bác đã để cho người ta nghĩ rằng đólà một tai nạn săn bắn và khép lại vụ án. Bọn bác đã hy vọng rằng có lẽ một ngày nào đó sẽ có một chứng cứ gì đó xuất hiện. Nhưng cho đến nay vẫn chẳng có gì cả.”

“Đó là thời điểm nào trong năm?” Tracy hỏi.

Calloway nhoẻn miệng cười để cho cô biết là cô đang đi đúng hướng. “Cuối tháng Mười.”

“Mùa săn hươu. Ai đã tìm thấy ông ta?”

“Một trong những người hàng xóm lái xe ngược hướng với ông ta. Ban đầu cô ấy không nhìn thấy Mathews, chỉ thấy những cành cây và chiếc xe tải của ông ta thôi. Cô ấy đã xuống xe, đi vài bước về phía trước và dừng lại khi nhìn thấy thi thể của Mathews bị che một phần bởi những cành cây rậm rạp.”

“Mathews đã bị bắn vào đâu?”

“Vào đầu.”

“Viên đạn là loại nào ạ?” Tracy hỏi.

“Không biết.” Calloway nói. “0.30-06 thì phải hoặc lớn hơn, căn cứ vào dấu vết trên sọ ông ta.”

“Bác không tìm ra viên đạn ạ?”

Calloway lắc đầu. “Nhìn xung quanh xem, Tracy. Bọn bác đã tìm kiếm nhưng không thấy.”

“Vậy là không có khám nghiệm về viên đạn.” Cô nói.

“Có thể viên đạn đã bị biến dạng quá mức không còn sử dụng được.” Calloway nói. “Căn cứ vào tổn thương trên sọ của Mathews.”

“Và cháu đoán hầu như tất cả mọi người ở Cedar Grove và tất cả các thành phố xung quanh đây đều sở hữu một khẩu súng săn với loại đạn cỡ đó.”

“Bao gồm cả Eric Johansen.”

Tracy nhìn lên sườn đồi dốc. Mặt trời đã di chuyển xuống đằng sau một thân cây. Calloway để ý ánh mắt cô. “Bọn bác đã trèo lên đồi, hồi ấy bác vẫn làm được việc đó. Bọn bác không tìm thấy bất cứ dấu chân nào. Nếu hung thủ có để lại dấu chân thì hắn cũng đã sử dụng một cành cây để xóa chúng đi rồi.”

Điều này khiến Tracy chú ý. Cha cô đã dạy cô và Sarah mánh khóe ấy khi họ đi tìm nấm mồng gà. Ông đã dặn họ xóa dấu vết của mình để người khác không thể đi theo họ và tìm thấy vị trí có nhiều nấm ngon mà họ đã phát hiện ra.

“Nếu ông ta bị phục kích...” Tracy nói. “Ai đó đã phải theo dõi ông ta và những hoạt động của ông ta, đúng không? Hắn sẽ không mạo hiểm với khả năng một trong những người khác sống ở khu vực này gặp đống cành cây trước khi Mathews đến nơi, phải không nào?”

“Điều đó có vẻ có lý. Việc theo dõi Mathews cũng không khó khăn gì. Từ những gì bác có thể thu thập được, hầu như chiều nào Mathews cũng uống rượu ở quán rượu Bốn Nhánh.”

“Thế có nghĩa là sẽ có hơn một người liên quan.”

“Sao lại thế?”

“Nếu kẻ đó không thể mạo hiểm với khả năng một người khác sống ở khu vực này có thể gặp đống cành cây trước khi Mathews đến nơi, vậy thì phải có ai đó theo dõi Mathews để báo cho người thứ hai biết Mathews đang trên đường về nhà chứ.”

“Có lẽ thế.” Calloway nói. “Hoặc có thể kẻ bắn Mathews đã chơi trò may rủi. Ở cuối con đường này chỉ có bốn ngôi nhà, vì thế khả năng Mathews gặp đống cành cây trước là khá cao, đặc biệt là vào giữa ngày, khi người ta đi làm.”

“Bác đã nói chuyện với những người ở quán Bốn Nhánh chưa ạ?”

Calloway gật đầu. “Mãi đến khi nhận được báo cáo về nồng độ cồn trong máu của Mathews, bác mới nói chuyện với họ. Bản báo cáo ấy đã giải thích cho những dấu vết tổn hại ở bên sườn chiếc xe tải và vết lốp bánh xe mà bọn bác tìm được trên con đường quận lộ. Ông ta đã bị lạng từ bên này sang bên kia đường. Bác đã phái một cảnh sát đi hỏi han một số quán rượu địa phương. Cô ấy đã tìm hiểu được rằng Mathews là khách quen của quán rượu Bốn Nhánh.”

“Chủ quán hay có bất cứ khách quen nào nhớ ông ta không?”

“Chủ quán nói rằng có một số ngày - giống như ngày hôm ấy - Mathews sẽ đến sớm và uống ‘bữa sáng’ cùng ‘bữa trưa’, rồi bò về nhà để ngủ. Ông ta nói ông ta luôn ngỏ ý mời Mathews uống cà phê và gọi taxi cho Mathews - bác chưa bao giờ bận tâm đến việc tìm hiểu xem điều đó là thật hay chỉ là bịa đặt. Thực sự thì chẳng có lý do gì để làm thế cả. Dù sao đi nữa, ông ta nói Mathews luôn từ chối - với cái cớ rằng nhà chỉ cách quán rượu có vài dặm mà thôi nên Mathews tự lái xe về nhà được.”

“Gấp đôi giới hạn cho phép.” Tracy nhắc lại, thấy khó mà tin được rằng Mathews có thể đủ tỉnh táo để lái xe.

“Bác hiểu ý cháu. Dường như Mathews có thể kiểm soát bản thân rất tốt khi ông ta muốn. Chủ quán nói với cấp dưới của bác rằng Mathews đã nói năng mạch lạc và đi thẳng ra cửa một cách vững vàng. Tuy nhiên, đó có thể chỉ là lời bịa đặt.”

“Chủ quán có nhớ Mathews rời đi một mình hay với ai không?”

“Ông ta nói Mathews luôn đến quán rượu một mình. Mathews cũng làm quen được với vài người ở đó, nhưng sẽ chẳng có ai nói rằng họ thực sự dành thời gian với ông ta hay thân thiết với ông ta. Ông ta là người rất khó chịu khi say, ít nhất là theo lời vợ cũ của ông ta.”

“Có những ai biết ông ta đang điều tra về cái chết của Heather Johansen?”

Calloway nhún vai, ngửa hai lòng bàn tay lên. “Như bác đã nói đấy, ông bà Johansen đã báo cho bác biết về việc đó, phòng khi Mathews cần thứ gì, nhưng cháu biết cái thị trấn này mà, Tracy. Nếu có một kẻ lạ mặt chưa ai nhìn thấy bao giờ lảng vảng xung quanh để hỏi han này nọ về một vụ án mạng...” Giọng nói của Calloway nhỏ dần.

“Mathews từng yêu cầu bác cung cấp thứ gì không?”

“Chỉ một bản sao hồ sơ của Heather, bác đã đưa nó cho ông ta sau khi Eric Johansen ký giấy ủy quyền. Bác đã bảo Mathews cứ việc điều tra. Lúc bấy giờ bác vẫn tin rằng House là thủ phạm sát hại Heather. Bác đã bảo Mathews hành động cẩn trọng một chút.”

“Có vẻ ông ta đã không nghe lời bác.”

“Đó không phải là lần đầu tiên.”

“Bác đã nói chuyện với Finlay về vụ bắn súng?”

“Ý cháu là Finlay có bằng chứng ngoại phạm trong vụ Mathews bị bắn không ấy hả?”

“Vâng. Cậu ta có bằng chứng ngoại phạm không?”

Calloway lắc đầu. “Không. Hôm đó Finlay nghỉ làm còn Kimberly thì làm việc ở tòa soạn.”

“Finlay nói cậu ta đang làm gì vào lúc đó?”

“Cháu biết cậu ta đang làm gì mà. Đi săn.”

“Cậu ta có đi với ai không?” Tracy hỏi, lông mày nhướng lên, mặc dù cô đã ngờ ngợ ra câu trả lời từ thái độ dè dặt của Calloway.

“Một mình.”

“Bác có kiểm tra khẩu súng săn của cậu ta để xem lần cuối cậu ta bắn nó là khi nào không?”

“Có, và nó sạch sẽ. Nhưng Finlay đã nói trước với bác rằng cậu ta đã mang nó đến khu vực săn bắn vào tuần đó, rồi về nhà và lau chùi nó theo thói quen.”

“Vậy là, không cách gì để biết được.”

“Việc cậu ta bắn nó lần cuối là khi nào ư? Không có cách nào biết được.”

“Và vì không tìm được viên đạn...”

“Nên không thể khớp nó với bất cứ khẩu súng nào.”

“Bác nói dấu vết tổn hại ở sọ là điểm quan trọng. Cuộc khám nghiệm tử thi có tiết lộ bất cứ điều gì về khoảng cách viên đạn đã bay trước khi nó trúng mục tiêu không?”

“Chuyên viên pháp y ước tính khoảng cách đó là từ một trăm đến một trăm năm mươi thước.”

Thông tin này chẳng ích lợi gì cả. “Bất cứ ai cũng có thể bắn được tầm đó nếu có ống ngắm, bác Roy ạ. Chết tiệt, bác có thể tăng khoảng cách đó lên hai, thậm chí là bốn trăm thước và vẫn có hàng tá đối tượng tình nghi tiềm năng ở quanh đây.”

“Bác đồng ý với cháu. Căn cứ vào góc độ của vết thương trên đầu, cú bắn dường như được thực hiện từ một tảng đá trồi lên trên con dốc đó, cách chân dốc chừng một trăm thước hoặc hơn.” Ông giơ tay lên để che nắng và chỉ. “Cũng vào đúng thời điểm này trong ngày.”

Tracy nhìn theo bàn tay ông, khum tay che mắt. “Thời điểm đó trong năm và thời điểm này trong ngày, mặt trời sẽ ở sau lưng kẻ bắn Mathews, khiến hắn gần như là vô hình, ngay cả khi Mathews nhìn về hướng đó. Kia là tảng đá trồi lên ấy, phải không ạ?” Cô nói, không hào hứng lắm với việc leo lên sườn đồi.

Calloway lại chỉ. “Cách chân dốc chừng một trăm đến một trăm năm mươi thước. Bác rất muốn dẫn cháu đi, nhưng cái chân chết tiệt này không cho phép.”

Cô đưa ông chìa khóa xe. “Chẳng tội gì mà cả hai bác cháu mình phải làm đông cứng ‘cặp bòng’ của mình ở ngoài này.”

Ông nheo mắt. “‘Cặp bòng’ ư?”

“Đó là từ mà cô bảo mẫu người Ireland của cháu đã nói đấy. Bác đừng bận tâm.”

Calloway cầm lấy chìa khóa xe và trở về chiếc Subaru. Tracy đi sang đường, ngắm nghía một chỗ để trèo lên dốc, và bắt đầu leo lên. Vì mặt đất có tuyết nên thật khó để đặt chân. Bên dưới cô, cô nghe thấy Calloway khởi động xe. Cô thật ghen tị với ông. Cô túm lấy bất cứ cành lá nào mà cô có thể tìm được để ngăn mình trượt chân xuống dưới ngọn đôi. Khi đã tới chỗ có thể xoay xở được và con dốc bằng phẳng hơn, cô tiếp tục đi tới chỗ tảng đá trồi lên, nơi Calloway đã chỉ cho cô - cách chân dốc khoảng một trăm đến một trăm năm mươi thước. Tracy đi vòng ra đằng sau nó, mặt trời giờ ở sau lưng cô, và cô trèo lên tảng đá, bị tuột xuống vài lần vì băng tuyết trơn trượt. Khi cuối cùng cũng lên được đỉnh của tảng đá, cô nhìn xuống con đường, nơi chiếc Subaru của cô đang đỗ, không có vật gì cản trở.

Đó không phải là một tai nạn săn bắn.