CHƯƠNG 8
Tracy để Calloway xuống xe ở Sở Cảnh sát Cedar Grove cô không muốn ông đi cùng khi cô nói chuyện với Finlay, nhưng cô không nói với ông điều đó. Cô đánh vào cái tôi của Calloway, nói rằng ông vẫn là một nhân vật “tai to mặt lớn” ở Cedar Grove, không chỉ vì vóc dáng của ông. Ông có sức ảnh hưởng lớn, đặc biệt là đối với người từng được ông đỡ đầu.
“Cháu chắc là cháu không muốn đi vào uống một tách cà phê cho ấm người trước khi tới đó chứ?” Calloway hỏi, đứng bên ngoài xe và nhìn xuống cô. Một tay ông đặt trên nóc xe, tay kia đặt trên cánh cửa mở bên ghế phụ. “Để cháu không bị đông cứng cặp bóng.”
Tracy mỉm cười trước cách dùng từ sai của ông. “Cảm ơn bác, nhưng cháu muốn đến nói chuyện với Finlay ngay để có thể về nhà sớm.”
Ông bắt đầu đóng cửa xe, rồi dừng lại. “Hôm nào đưa con gái cháu đến nhà bác chơi nhé. Cháu biết đấy... Nora sẽ rất vui khi được gặp con bé.”
Tracy mỉm cười. “Nhờ bác gửi lời tới bác Nora rằng cháu sẽ làm thế.” Cô nói.
Cô lái xe rời khỏi bãi đỗ để đi vòng lại xuyên qua thị trấn. Tracy nghĩ Finlay có thể trò chuyện cởi mở với một người phụ nữ hơn là với một người đàn ông - kể cả khi người đàn ông ấy là sếp cũ của anh ta; anh ta sẽ ít bận tâm hơn đến chuyện tỏ ra mạnh mẽ và có thể sẽ nói chuyện thành thật hơn. Cô đã có kinh nghiệm với chuyện này trong quá trình công tác trong ngành. Các cộng sự nam của cô ở đội A, Ban Tội phạm Bạo lực, thường chẳng khai thác được gì từ một nghi phạm, thậm chí có thể còn bị ném mấy câu chửi rủa vào mặt. Những lúc như thế, Tracy sẽ đề nghị được thử và chẳng bao lâu sau, nghi phạm ấy sẽ trò chuyện với cô như thể cô là người duy nhất trên đời này thực sự hiểu anh ta vậy.
Trên đường đến nói chuyện với Finlay, cô cân nhắc chuyện ghé qua quán rượu Bốn Nhánh, nhưng chưa chắc chủ quán bây giờ vẫn là chủ quán hồi năm 2013, khi Mathews là khách quen ở đó. Cô sẽ kiểm tra điều đó vào một lúc khác, còn bây giờ cô cần nhanh chóng đến gặp Finlay để có thể về nhà sớm và vắt sữa.
Roy kể với cô rằng, sau vụ hỏa hoạn, Finlay đã chuyển đến ở trong cái nhà nghỉ ven đường mà Tracy từng ở hồi cô trở lại Cedar Grove để đòi xét xử lại Edmund House. Roy không biết liệu Finlay có định xây lại ngôi nhà bị thiêu rụi của anh ta không, hay thậm chí là trở lại làm việc. Ông kể Finlay đã nói với ông rằng có thể anh ta sẽ chuyển đi khỏi bang này, để đến một nơi nào đó gần nhà cha mẹ anh ta hơn, hiện họ đang trông nom ba đứa con của anh ta. Anh ta nói hiện giờ những ký ức vẫn còn quá đau xót đến nỗi anh ta không thể tính đến chuyện ở lại, và cho đến khi cái chết của vợ anh ta được điều tra xong, Finlay không muốn các con mình là đối tượng của cái xưởng tin đồn ở Cedar Grove, với những lời đoán già đoán non rằng anh ta có liên quan đến cái chết của Kimberly.
Tracy có thể hiểu được suy nghĩ ấy. Cô biết rõ tại sao Finlay rời khỏi thị trấn duy nhất mà anh ta gọi là quê nhà và một công việc mà anh ta yêu thích. Finlay khó có thể tiếp tục phục vụ Cedar Grove với tư cách cảnh sát trưởng khi những lời đồn đoán xung quanh cái chết của vợ anh ta cứ lan truyền, khuấy động lớp bụi phủ trên ngôi mộ của Heather Johansen, và có lẽ cả mộ của Jason Mathews nữa. Ở một thị trấn nhỏ, những gì không được nói ra có thể khiến người ta cảm thấy bị cô lập hơn cả những điều khủng khiếp nhất được thốt ra khỏi miệng. Tracy biết điều đó. Mặc dù các cư dân của thị trấn từng an ủi Tracy rằng cái chết của em gái cô không phải là lỗi của cô, nhưng chính những lời nói đó của họ lại là minh chứng cho việc họ chắc chắn đã nghĩ như vậy.
Tracy rẽ vào bãi đỗ xe của nhà nghỉ ven đường sau khi dừng lại ở một quầy bán hamburger dành cho những người mua mang về mà không cần phải xuống xe. Cô vẫn chưa ăn gì, và mùi béo ngậy của những chiếc hamburger và khoai tây chiên mới hấp dẫn làm sao. Cô nhận ra chiếc xe tải Chevy màu xanh dương của Finlay đỗ ở cuối bãi đất liền kề với tòa nhà nghỉ ốp gỗ cao hai tầng. Tracy chộp lấy hộp các tông đựng túi đồ ăn cùng hai cốc sữa lắc sô cô la, giữ nó thăng bằng khi cô quàng dây đeo của cái ca táp lên vai. Cô leo lên cầu thang tới tầng hai. Nước nhỏ giọt từ tuyết tan trên mái nhà, và cô có thể nghe thấy những tiếng tí tách giữa âm thanh của những chiếc xe bán tải đang đi lại trên con đường quận lộ.Cô gõ cửa phòng số 12 hai lần, một âm thanh rỗng dội lại. Finlay ngó nhìn cô qua ô cửa sổ liền kề trước khi mở cửa ra. Cô hầu như không nhận ra anh ta. Anh ta trông già sọm hẳn đi, già hơn nhiều so với khoảng thời gian năm năm kể từ khi Tracy nhìn thấy anh ta lần cuối. Anh ta từng có tóc mai dài và đường viền chân tóc thấp xuống tận thái dương nhưng nay nó đã hói cao và ngả xám. Khuôn mặt từng trẻ trung của anh ta ẩn giấu bên dưới làn da xanh xao. Đôi mắt màu hạt dẻ, từng thu hút sự chú ý của các cô gái ở trường trung học, giờ trông vô hồn và buồn bã. Anh ta cũng sụt cân đáng kể, sự thay đổi rõ rệt nhất là ở cổ và vai anh ta - giống như một diễn viên sử dụng thuốc giảm cân để ép mình gầy đi quá nhanh nên trông chẳng khỏe mạnh chút nào. Anh ta mặc chiếc áo phông đen rộng thùng thình, và chiếc quần jean màu xanh dương của anh ta rúm ró lại ở phần cạp, chiếc thắt lưng thắt chặt lấy chỗ hông.
“Chị Tracy. Thật tuyệt khi được nhìn thấy một khuôn mặt thân thuộc.” Finlay mỉm cười, nhưng nụ cười ấy trông thật gượng gạo và gợi cho Tracy nghĩ đến những nụ cười hiếm hoi mà cha cô đã cố nặn ra sau khi Sarah mất tích và ngay trước khi ông tự kết liễu đời mình. Cô tự hỏi liệu Finlay có nghĩ đến hành động ấy vào những khoảnh khắc tăm tối nhất của anh ta không.
“Chào Finlay.”
Finlay bước tránh sang một bên và khoát tay về phía bên trong căn phòng của mình - trong đó có hai chiếc giường cỡ lớn, một chiếc mới được dọn dẹp một nửa, chiếc kia vương vãi nào va li, laptop và quần áo của anh ta. Trong góc phòng là khu bếp nhỏ với một cái bếp hai họng và một cái tủ lạnh mini.
“Chào mừng đến với nơi ở hèn mọn của tôi. Tôi cho rằng một vụ hỏa hoạn kinh hoàng có ưu điểm là nó khiến ta chẳng còn lại gì mấy để chuyển đi.”
Mọi thứ thay đổi mới ghê gớm làm sao - chỉ trong một giây phút, Tracy nghĩ.
“Tôi đã dọn dẹp để có ít không gian trống.” Anh ta hất đầu về phía một cái bàn tròn bằng gỗ công nghiệp laminate bên dưới ô cửa sổ khung nhôm nhìn ra chiếu nghỉ và bãi đỗ xe.
Tracy đặt ca táp của mình lên tấm thảm màu nâu sẫm và đặt túi bánh hamburger cùng những cốc sữa lắc lên bàn, vừa nói vừa cởi cái áo khoác mùa đông và vắt nó lên lưng một cái ghế. “Tôi đã nghĩ mình nên mua bữa trưa và mang đến đây cho chúng ta.”
Finlay giơ một tay lên. “Tôi không cần đâu, nhưng chị cứ ăn tự nhiên.”
“Trong cái túi này có bốn cái hamburger, Finlay ạ. Tôi biết tôi đã phát phì từ khi sinh con, nhưng tôi không ăn đến bốn cái hamburger một lúc đâu.”
Anh ta mỉm cười, và nụ cười ấy đã thoáng cho Tracy thấy lại người đàn ông mà cô từng biết. “Được rồi.”
Cô lấy ra hai cái hamburger, đặt một cái lên phía bàn của Finlay cùng với một túi khoai tây chiên và một cốc sữa lắc sô cô la. Lớp ván gỗ sẫm màu của căn phòng và mùi mốc meo đưa cô trở lại năm năm trước. Trên đầu, một cái quạt trần hơi lệch đang lắc lư. Mỗi vòng quay lại tạo ra một tiếng kẽo kẹt khe khẽ.
“Tôi có thể mời chị một tách cà phê hay trà không?” Finlay chỉ vào một cái ấm trên cái quầy formica gần bếp.
“Tôi uống sữa lắc được rồi.” Tracy nói, ngồi xuống bên bàn và hút lớp kem qua ống hút.
Finlay tự rót cho mình một tách cà phê đen, vừa làm vừa nói: “Tôi đã nhìn thấy tấm thiệp báo về việc sinh con của chị trên bàn làm việc của bác Roy. Bây giờ con bé được mấy tháng rồi?”
“Vừa tròn hai tháng. Tôi nghĩ điều đó có nghĩa nó vẫn còn dễ trông nom.”
“Hãy đợi cho đến khi chúng có thể nói ‘không’.” Finlay nói. “Đến lúc đó, điều thú vị mới thực sự bắt đầu.” Mặc dù trẻ hơn Tracy bốn tuổi, nhưng Finlay lập gia đình sớm hơn cô. Anh ta kéo ra một cái ghế và ngồi xuống đối diện với cô. “Vậy, cơn gió nào đã đưa chị trở lại Cedar Grove thế?” Anh ta nói và nhấp một ngụm cà phê từ cốc của mình.
“Chúng tôi đang tu sửa lại nhà cửa.”
“À há.” Finlay tiếp tục nhấm nháp cốc cà phê và lờ đi chiếc bánh hamburger cùng cốc sữa lắc.
“Bọn trẻ nhà cậu thế nào rồi?” Tracy bóc giấy gói khỏi chiếc bánh hamburger của mình. Chiếc bánh tỏa ra mùi thịt chín, mùi pho mát tan chảy và mùi hành tây.
Finlay nhún vai. “Chúng tôi đều đang cố gắng vượt qua. Bọn trẻ nhà tôi đang ở với ông bà chúng. Tôi không muốn chúng ở đây cho đến khi vụ việc này được giải quyết xong.”
Tracy nói, miệng đầy bánh. “Bác Roy nói cậu đang tính đến chuyện chuyển đi.”
“Tôi chẳng còn lại gì mấy ở Cedar Grove này.” Anh ta thở dài. “Tất cả chúng tôi đều vậy. Nhưng hiện giờ, bác Roy nghĩ tôi nên ở lại.” Anh ta đặt cốc cà phê xuống bàn và ngồi ngả ra sau, hai bàn tay xếp lại đặt trên đùi. “Bác ấy nói chị đã ngỏ ý giúp bác ấy. Tôi cá rằng bác ấy đang nói ngược. Tôi cá rằng chính bác ấy đã dồn chị vào thế bí và nhờ chị giúp đỡ.”
Cô cắn một miếng hamburger nữa, nó có vị ngon hơn cô tưởng, hoặc có thể là do cô đang đói. “Có lẽ cả hai đều đúng một chút.”
“Chị muốn biết điều gì, Tracy? Tôi đã đổ đầy can xăng như thế nào ngay trước khi đốt nhà mình hai ngày, hay tôi đã sử dụng cây gậy bóng chày nào để đập vào sau đầu của vợ tôi? Có lẽ đó chính là cây gậy bóng chày mà tôi đã từng dùng để giết một cô bạn gái cũ hai mươi sáu năm trước.”
Finlay nói với vẻ thản nhiên, không có biến chuyển nào trong giọng nói hay ánh mắt.
Tracy cắn một miếng hamburger nữa và lau tay bằng khăn giấy. Rồi cô thò tay vào trong ca táp và lấy một cuốn sổ cùng một cây bút ra, đặt lên bàn. “Hãy lần lại mọi chuyện từ đầu nhé. Kể cho tôi về Heather Johansen đi.”
“Chị còn nhớ...” Anh ta nói, cười nửa miệng, nhưng chỉ trong một giây. Tôi là gã bạn trai bất mãn đã bám đuôi cô ấy chứ?”
“Tôi được biết toàn bộ việc đó đã chấm dứt sau khi bác Roy gặp cậu để nói chuyện phải trái.”
“Bác Roy có cách để làm cho chúng ta hiểu được ý bác ấy khi bác ấy dành thời gian để thực sự nói chuyện với chúng ta.”
“Bác ấy chẳng bao giờ phải nói với tôi đến lần thứ hai rằng tôi không được đạp xe trên vỉa hè.” Tracy đồng ý. Cô nhấm nháp cốc sữa lắc qua ống hút.
Finlay khẽ gật đầu. “Bác ấy đã bảo tôi ngồi xuống và hỏi rằng tôi muốn làm gì với cuộc đời mình. Tôi đã nói với bác ấy rằng tôi nghĩ tôi muốn làm cảnh sát, giống như bác ấy. Tôi không chắc liệu tôi thực sự có ý muốn đó, hay chỉ vì quá sợ nên tìm cách lấy lòng bác ấy. Bác Roy nói tôi đã mười tám tuổi. Bác ấy hỏi liệu tôi nghĩ đơn xin việc của tôi vào Sở Cảnh sát trông sẽ ra sao nếu tôi có một án phạt về tội bám đuôi. Rồi bác ấy nói nếu tôi buông tha cho cô gái tội nghiệp ấy, bác ấy sẽ giúp tôi. Tôi đã làm theo lời bác ấy. Và bác ấy cũng đã giữ lời.”
“Tại sao cậu lại đi học ở trường cao đẳng cộng đồng?”
“Tôi nghĩ là chị biết đấy, nhưng tôi cũng biết là chị phải hỏi tôi chuyện này cho đúng thủ tục.” Anh ta ngồi dậy, đặt hai cánh tay lên bàn, hai bàn tay bao quanh cái cốc. “Tôi nghĩ một phần là để tránh nỗi xấu hổ mà tôi biết là tôi sẽ cảm thấy khi trở lại trường - vì cái cách tôi đã đối xử với Heather và những điều tôi đã nói. Tôi đã trở thành cái gai trong mắt nhiều người, đặc biệt là các cô gái.” Anh ta ngồi ngả ra sau, cầm theo cốc cà phê, và nhìn ra ngoài cửa sổ. “Và thành thật mà nói, tôi nghĩ có lẽ tôi không tin tưởng mình sẽ có thể để yên cho Heather, và bác Roy đã chỉ rõ cho tôi thấy những hậu quả nếu tôi không buông tha cô ấy.” Anh ta nhìn Tracy và khẽ nhún vai với cô.
“Nhưng cậu đã làm được.” Cô nói.
“Vâng. Dù sao đi nữa, khi xem xét những lựa chọn khác mà mình có, tôi nhận ra rằng tôi có thể lấy được chứng chỉ GED và bằng AA trong ngành tư pháp cùng một lúc ở trường cao đẳng cộng đồng địa phương.” Anh ta thở dài.
“Còn về câu hỏi mà chị đã không nói ra...” Anh ta nhìn cô qua bàn, trong mắt không ánh lên nét hài hước nào. “Không tôi không có bằng chứng ngoại phạm vào cái đêm Heather chết. Hay đúng hơn là không có một bằng chứng ngoại phạm đủ sức thuyết phục. Như tôi đã nói với bác Roy, hôm ấy tôi có một môn học vào buổi tối ở Bellingham, nhưng dự báo thời tiết nói rằng sắp có một cơn bão lớn đổ bộ, và thầy giáo của chúng tôi biết rằng một số người trong chúng tôi phải lái xe một đoạn đường xa để về nhà. Vì thế thầy ấy đã cho chúng tôi tan lớp sớm, vào khoảng tám giờ tối. Tôi vừa mới đi qua thì họ chặn con đường quận lộ lại. Mãi đến quá nửa đêm tôi mới về đến nhà.”
“Cậu có gặp bất cứ ai trên con đường đó không?”
Lại một cái nhún vai, lần này kèm theo một cái lắc đầu. “Vài cái xe. Chị nhớ là hồi đó họ không dọn tuyết trên con đường quận lộ thường xuyên khi tuyết rơi nhiều mà.”
“Vì sẽ chẳng ích gì. Họ không thể dọn tuyết liên tục được.”
“Không có đủ thiết bị.” Anh ta nhấm nháp cà phê.
“Vậy tôi có thể cho rằng cậu đã không gặp Heather đang đi bộ một mình trên con đường quận lộ?” Cô lại mỉm cười. “Tôi phải hỏi theo đúng thủ tục.”
“Tôi biết.” Anh ta lắc đầu. “Nhưng tôi đã nghĩ về điều đó khi tôi nghe thấy chuyện xảy ra với cô ấy. Tôi đã nghĩ tôi sẽ làm gì nếu gặp cô ấy. Tôi muốn tin rằng mình sẽ dừng lại và ngỏ ý cho cô ấy đi nhờ xe - mặc dù chưa chắc cô ấy sẽ đồng ý. Cũng có thể cậu bé bị tổn thương trong tôi sẽ cứ thế lái xe qua. Tôi không chắc nếu làm vậy thì tôi sẽ chịu đựng thế nào khi biết chuyện gì đã xảy ra. Chị hiểu chứ?”
Tracy hiểu. Cô đã phải chịu đựng nỗi dằn vặt khi để Sarah về nhà một mình trên chính con đường ấy. Cô xua ý nghĩ đó đi. “Cậu có biết kết quả khám nghiệm tử thi đã tiết lộ rằng lúc đó Heather đang mang thai không?”
“Tôi được biết chuyên viên pháp y nói có thể cô ấy đang mang thai. Nhưng tôi cá rằng bác Roy đã bắt ông ấy nói thêm từ đó vào, vì thấy không có lý do gì để làm tổn thương ông bà Johansen thêm nữa.”
“Cậu nghe được tin đó lần đầu tiên như thế nào?”
Anh ta hướng mắt ra cửa sổ và nhấm nháp cốc cà phê. Rồi anh ta đặt cốc cà phê xuống và lại nhìn cô. “Tôi cho rằng rồi cuối cùng chị cũng sẽ biết được mà.”
Cô cứ tưởng anh ta sẽ nói với cô rằng anh ta đã đọc báo cáo pháp y, nhưng thái độ của anh ta chỉ ra rằng còn có điều gì khác nữa. Cô chờ đợi, không còn nghĩ đến thức ăn hay cốc sữa lắc nữa.
“Tôi biết chuyện từ Jason Mathews.” Anh ta nói.
Finlay Armstrong dừng lại bên cạnh một chiếc xe cảnh sát của Silver Spurs đậu ở khu vực đỗ xe của quán rượu Bốn Nhánh.
“Xin lỗi vì đã làm phiền cậu vì chuyện này.” Clay Thompson nói, đôi mắt được giấu sau cặp kính râm phản quang. Anh ta và Finlay từng là đồng đội trong một đội bóng chày trẻ thường xuyên đi du đấu thuộc Hiệp hội Thể thao Nghiệp dư.
“Không vấn đề gì, Clay. Có chuyện gì vậy?”
Thompson chĩa ngón tay cái ra đằng sau mình. “Chủ quán đã gọi 911 và đề nghị chúng tôi đưa một người đàn ông đi.”
Finlay nhìn về băng ghế sau chiếc xe của Thompson nhưng không thấy ai cả. “Cậu đã đưa ông ta đi rồi sao?”
Thompson lắc đầu. “Ông ta đang ngủ say như chết trên ghế quầy bar. Chủ quán nói ông ta đã bất tỉnh trước khi tôi đến vài phút. Ông ta là người ở địa bàn của cậu đấy. Sống ở Sand Point, trên một con đường nhánh rẽ ra từ con đường quận lộ. Tôi nghĩ tôi nên để cậu ‘tận hưởng’ chuyện ‘thú vị’ này.”
“Cảm ơn vì điều đó nhé.”
Thompson cười toe. “Chủ quán không muốn kiện cáo hay làm to chuyện. Chủ quán nói bình thường người đàn ông này cũng được lắm, nhưng ông ta trở nên hằn học khi uống quá chén.”
“Cậu biết tên ông ta không?”
Thompson lấy ra một cuốn sổ ghi chép gáy xoắn nhỏ xíu từ túi áo ngực. “Jason Matheus. Cậu có thấy cái tên đó quen thuộc không?”
Có đấy. “Ừ. Ừ, có.” Finlay không nói Matheus là một luật sư đến từ Montana, đã tới Sở Cảnh sát để hỏi về hồ sơ vụ án Heather Johansen và nói rằng gia đình cô ấy đã thuê ông ta để điều tra về “cái chết của cô ấy”. “Ông ta hơi vênh váo. Đúng kiểu thùng rỗng kêu to.”
“Theo lời chủ quán, ông ta đã trở thành một khách quen ở đây. Chủ quán nói khi ông ta có ít chất cồn trong người, ông ta bắt đầu lải nhải về bà vợ cũ, toàn là những chuyện chẳng hay ho gì. Tôi nghĩ có lẽ cậu nên đưa ông ta về nhà và nói chuyện với ông ta. Chủ quán không muốn ông ta đến đây nữa, nếu ông ta không thể nâng cao tửu lượng của mình hoặc giữ mồm giữ miệng. Chủ quán nói ông ta đúng là của nợ. Ông ta không bao giờ để cho chủ quán gọi giúp mình một chiếc taxi. Dù sao đi nữa, ông ta đang ở trong đó, và ông ta hoàn toàn là của cậu đấy. Hãy nói với ông ta rằng đâylà lần đầu tiên và cũng là duy nhất ông ta được miễn tội đấy nhé! Tôi sẽ không gọi cậu đến nếu chuyện này xảy ra lần nữa đâu. Tôi sẽ đá đít ông ta vào tù đấy.” Thompson nổ máy xe.
“Tôi sẽ nói rõ cho ông ta biết điều đó, Clay. Và nếu chuyện này xảy ra lần nữa... hãy đá đít ông ta vào tù.”
Thompson gật đầu, vào số và lái đi.
Bên trong quán rượu tù mù, Finlay tháo kính râm và gài nó vào túi áo ngực trong khi đôi mắt anh ta thích nghi với ánh sáng yếu ớt. Nội thất của quán rượu không hơn gì vẻ bề ngoài của nó. Những chiếc quạt quay tròn bên trên quầy bar và năm, sáu cái bàn. Anh ta nhận thấy có một bàn bi-a ở phía trong cùng. Finlay đoán rằng vào những ngày ấm áp như hôm nay, những chiếc quạt ấy sẽ giúp lưu thông không khí. Còn vào mùa thu và mùa đông, chúng có thể giúp tản nhiệt.
Chủ quán hất đâu về phía một người đàn ông đang gục đầu trên quầy bar. Finlay cũng đã nhận ra ông ta chính là mối phiền toái.
“Cảm ơn anh vì đã tới đây.” Chủ quán nói. Ông ta tự giới thiệu mình là Pete Adams. “Chúng tôi sẽ chẳng cần phải làm phiên đến các anh nếu mọi chuyện chỉ như thế này, nhưng trước khi ông ta bất tỉnh, ông ta đã càm ràm về bà vợ cũ, rồi phụ nữ nói chung. Tôi nghĩ anh hiểu ý tôi là gì.”
“Tôi đã hình dung ra được.”
“Chúng tôi sẽ rất biết ơn nếu anh có thể chở ông ta về nhà, và có lẽ nói chuyện với ông ta nữa. Ở đây chúng tôi có cả đàn ông và phụ nữ, và chúng tôi phải cố gắng giữ cho không khí thật yên bình.”
“Tôi sẽ cố hết sức.”
Finlay gõ mạnh khớp đốt ngón tay lên quầy bar. Đầu Matheus bật ngóc dậy như thể chiếc ghế của ông ta bị nhiễm điện. Trông ông ta có vẻ ngơ ngác.
“Ông Matheus?”
“Anh là ai?” Matheus nheo mắt, hỏi.
“Tôi là một cảnh sát của Cedar Grove. Ông có đi lại được không?”
“Có, tôi có thể đi lại được. Anh hỏi thế là có ý gì đấy?”
“Đó là câu mà một cảnh sát sẽ hỏi một người đàn ông đã uống quá nhiều rượu.”
Matheus nhìn bộ đồng phục của Finlay chăm chú hơn.
“Tôi đang định đề nghị ông xuống khỏi cái ghế đó và đi ra ngoài với tôi.”
“Tại sao?”
“Như tôi đã nói, ông đã uống quá nhiều. Ông đã bất tỉnh trên quầy bar.”
“Có luật nào cấm điều đó sao?”
Finlay nén lại một tiếng cười khẩy. “Ông là luật sư mà. Ông nói tôi nghe xem.”
Matheus nhìn Finlay như thể dòng suy nghĩ của ông ta đã bị đứt đoạn. Ông ta tuột xuống khỏi cái ghế ở quầy bar. Finlay tóm lấy bắp tay ông ta để đỡ ông ta đứng vững, và họ cùng nhau đi ra cửa. Khi Finlay đẩy cửa mở ra, Matheus nheo mắt và giơ một bàn tay lên để che luồng ánh nắng chói gắt.
“Ông có kính râm không?” Finlay hỏi, đeo kính râm của mình lên.
“Trong xe tải của tôi.”
“Chà, ông sẽ không đi về bằng xe tải của ông.”
“Tại sao chứ?”
“Bởi vì ông đang say và vâng, có một điều luật cấm lái xe khi ông say xỉn. Tôi sẽ chở ông về nhà và gửi đến ông một lời cảnh cáo mà tôi hy vọng là sẽ đủ sức thuyết phục để ông không lặp lại chuyện này lần nữa. Được chứ?”
“Được.”
“Ông có buồn nôn không đấy?”
“Cái gì cơ?”
“Ông có cảm giác là mình sắp nôn không?”
“Không. Tôi ổn.”
“Tôi không chắc về điều đó.” Finlay lẩm bẩm. Rồi anh ta nói. “Ông mà nôn ra chiếc xe cảnh sát của tôi là ông sẽ phải lau chùi nó đấy. Đó là quy tắc. Ông hiểu chứ?”
“Hiểu.”
Finlay mở cửa sau của xe và giơ bàn tay bên trên đầu Matheus để ngăn ông ta bị cộc đầu và chảy máu ra ghế ngồi. “Thắt đai an toàn vào đi.” Finlay nói.
“Còn chiếc xe tải của tôi thì sao?”
“Tôi nghĩ là ông sẽ phải quay trở lại đây để lấy nó sau.”
Một lát sau, Finlay đã lùi xe ra khỏi bãi đỗ để đi ra đường. Anh ta bật bộ đàm lên và cập nhật cho văn phòng Sở Cảnh sát về cuộc gọi từ Silver Spurs. Anh ta nói với sĩ quan trực tổng đài rằng mình đang chở Matheus về nhà rồi bỏ micro về chỗ cũ. Anh ta nhìn vào gương chiếu hậu để đảm bảo rằng Matheus, đang ngồi sau tấm lưới chắn, sẽ không chuẩn bị nôn mửa.
“Ông là luật sư đại diện cho gia đình Johansen à?” Anh ta hỏi.
Matheus nhìn Finlay như thể ông ta không hiểu câu hỏi. Rồi ông ta đáp: “Đã từng.”
“Bây giờ thì không còn nữa ư?”
Matheus lắc đầu.
Finlay chờ đợi.
Sau một thoáng, Matheus nói: “Họ không thích điều tôi đã nói với họ.”
“Không thích ư?
“Đúng.”
Lại một thoáng ngừng. Lần này, Finlay phải cất tiếng hỏi. “Thế ông đã nói gì với họ mà họ không thích vậy?”
“Đó là bí mật giữa luật sư và thân chủ.” Matheus nói, líu ríu. “Được rồi.”
Họ lái xe vài phút nữa. Matheus tự lên tiếng. “Tôi đã biết được một chuyện mà không ai biết.”
Finlay không đáp lời, nghĩ rằng Matheus là một trong những kẻ chỉ muốn đối phương nghĩ rằng ông ta có thông tin quan trọng. Toàn là những lời lảm nhảm vớ vẩn của một kẻ say.
“Anh có muốn biết không?” Matheus nói.
Finlay không trả lời ngay. Anh ta ngả người vào lưng ghế. “Có chứ. Nói tôi nghe đi.”
“Cô gái đó. Tên cô ta là gì ấy nhỉ? Heidi... Ingrid...”
“Heather?”
“A. Đúng rồi. Heather.” Matheus nhìn ra ngoài cửa sổ, như thể ông ta đã quên những gì mình đang định nói.
Finlay cảm thấy tim mình lỡ nhịp. “Heather làm sao?” Anh ta hỏi.
Matheus nhìn vào gương chiếu hậu. “Hóa ra cô ta đã làm một chuyện nhơ nhớp.”
Finlay cảm thấy mặt mình đỏ dừ. “Thế à?” Anh ta cố gắng nói. “Vâng. Hóa ra cô ta đã mang thai.”
Finlay nhìn chằm chằm vào gương chiếu hậu, đánh giá Matheus. Gã luật sư này đang cười toe toét, mặc dù ánh mắt ông ta vẫn lơ đãng. Một tiếng còi xe vang lên. Finlay nhìn lên. Anh ta đã đi chệch khỏi làn đường trung tâm và nhanh chóng đánh lái trở lại. Anh ta dành vài giây để tự trấn tĩnh. Rồi anh ta hỏi. “Làm sao ông biết điều đó?”
“Nó được viết trong hồ sơ cảnh sát.” Matheus nói. “Báo cáo pháp y.”
Finlay chưa bao giờ xem hồ sơ của Heather Johansen. Roy Calloway đã cất nó trong bàn làm việc có khóa của ông, nơi ông cất một vài hồ sơ vụ án khác, chẳng hạn như vụ Sarah Crosswhite. Roy đã kết luận rằng Edmund House đã sát hại Heather Johansen, cũng như Sarah Crosswhite.
“Trong đó còn viết gì nữa không?” Finlay hỏi. “Trong hồ sơ ấy. Còn có thông tin gì nữa không?”
Matheus lắc đầu sang trái rồi lại sang phải. Đầu ông ta trông lỏng lẻo như chực rơi xuống đến nơi. “Không.”
“Ông không phát hiện thêm điều gì nữa sao?”
“Chẳng hạn như...” Ông ta nói, đầu vẫn lắc lư. “Cha đứa trẻ là ai?”