CHƯƠNG 9
Finlay lại nhìn Tracy. Cô cố gắng không thể hiện bất cứ phản ứng gì nhưng trong lòng cô, quá nhiều lá cờ đỏ đang vẫy vẫy đến nỗi cứ như đang có một cuộc diễu hành vậy. Tracy lần lượt nhặt từng lá cờ lên. “Ông ta đã trả lời ra sao?”
“Ông ta nói ông ta không biết.” Finlay lại nhún vai, rồi nhăn mặt. “Ông ta nói ông ta đã kể với Eric và Ingrid về những gì được viết trong báo cáo pháp y, và họ đều trông như vừa bị một chiếc xe tải đâm phải, đặc biệt là Eric. Tôi không nghi ngờ điều đó. Họ đều là những người sùng đạo và Heather là cô con gái nhỏ của họ.”
“Và họ không thuê ông ta nữa?” Tracy hỏi.
“Ông ta nói họ đã đề nghị ông ta đi ra khỏi nhà họ, và đó là lần cuối cùng ông ta làm việc cho họ, mặc dù ông ta cũng nói với tôi rằng ông ta chẳng quan tâm. Ông ta nói Eric đã hoàn thành số đồ nội thất trị giá hai nghìn đô la. Như tôi đã nói, ông ta không phải là người đáng mến.”
“Cậu chưa bao giờ kể với Roy chuyện này?”
Finlay lắc đầu.
“Tại sao lại không kể?”
“Chị biết lý do mà. Trước hết, nếu thông tin đó nằm trong báo cáo pháp y, vậy thì bác Roy đã biết về nó rồi, nhưng bác ấy đã quyết định không tiết lộ, có lẽ là để không làm tổn thương ông bà Johansen một cách không cần thiết, và thứ hai, vì đó là một thông tin mà chỉ có cha của đứa trẻ - và có lẽ là kẻ đã sát hại Heather - biết được.”
“Thế rồi Jason Mathews bị bắn, và cậu đã nghĩ việc đó có thể biến cậu thành một nghi phạm lần nữa.”
“Tôi không muốn trải qua những gì mà tôi đã phải trải qua khi Heather chết. Bác Roy lúc ấy đang tính đến chuyện nghỉ hưu và tôi được đề cử thay thế bác ấy. Tôi cũng cho rằng những gì mà Mathews nói là ông ta biết thực sự chẳng quan trọng, ít nhất là đối với tôi.”
“Tại sao lại không?”
Finlay trở nên kích động. Giọng nói anh ta cao lên. “Bởi vì tôi không bắn ông ta, Tracy. Tôi không giết Heather và tôi không bắn Mathews.”
“Cậu có lo lắng mình có thể là cha đứa bé không?”
“Chắc chắn rồi.” Finlay nói. “Ý tôi là, tôi đã giữ khoảng cách với Heather sau khi bác Roy ra mặt giải quyết chuyện tôi quấy rối cô ấy, nhưng tôi cũng không biết cô ấy mang thai bao nhiêu tuần.”
Tracy gật đầu. Rồi cô nói: “Tại sao bây giờ cậu lại kể với tôi chuyện này, Finlay?”
“Tôi cho rằng nếu chị điều tra vụ này thì chị sẽ phát hiện ra thôi.”
“Bằng cách nào?”
“Bằng cách nào ư? Bác Roy đã đưa hồ sơ cho chị, đúng chứ?”
“Không. Ý tôi là làm thế nào tôi có thể phát hiện ra rằng Mathews đã kể với cậu? Mathews đã chết rồi, và chủ quán rượu Bốn Nhánh bây giờ chưa chắc vẫn là chủ quán rượu năm ấy.”
Finlay nhún vai. “Chị đã đọc báo cáo pháp y chưa?”
“Rồi.”
“Và khi chị đọc nó, tôi chính là người đầu tiên chị nghĩ đến. Đúng không?”
Cô gật đầu. “Đúng.”
Finlay nhún vai.
“Mathews bị bắn sau cuộc gặp giữa cậu và ông ta bao lâu?”
“Cái hôm tôi lôi ông ta từ quán rượu về là một ngày nào đó trong tháng Mười.” Anh ta nói. “Sau khi chị trở lại thị trấn. Ông ta bị bắn vào mùa săn.”
Một tháng. Tracy không rời mắt khỏi Finlay. Finlay cũng vậy. “Cậu có biết Heather hẹn hò với ai sau khi hai người chia tay không?”
Finlay lắc đầu. “Không. Và tôi có thể nói với chị rằng Kimberly cũng không biết.”
“Làm sao cậu biết điều đó?”
Finlay nhăn mặt. “Bởi vì Kimberly đã xem hồ sơ vụ án, và cô ấy đã hỏi tôi chính những câu mà chị đang hỏi. Liệu tôi có phải là cha đứa bé không, và ai có thể là cha đứa bé?”
“Heather đã không nói với cô ấy?”
“Vâng. Và Kimberly nói rằng cô ấy không biết gì về bất cứ mối quan hệ tình cảm nào của Heather.”
Tracy suy nghĩ về điều đó. Trường trung học Cedar Grove có khoảng bốn mươi học sinh mỗi khối, vào thời của cô thì còn ít hơn. Heather không thể hẹn hò với một người bạn cùng lớp được. Vì như thế cô ấy sẽ không thể giấu kín chuyện tình cảm của mình.
“Cậu chưa bao giờ nghe thấy tin đồn nào sao?”
“Tin đồn cô ấy mang thai ư? Không cho đến khi Mathews ngồi trong xe tôi chiều hôm đó.”
“Cậu có nghi ngờ cha đứa bé là ai không?”
Anh ta nhún vai và lắc đầu. “Như tôi đã nói đấy, tôi chẳng nghe được tin gì và Kimberly cũng vậy. Kimberly chẳng có manh mối gì để đoán được cha đứa trẻ có thể là ai, còn tôi lúc ấy đã đi học ở nơi khác. Thực ra, Kimberly tin rằng nếu Heather mang thai, Heather sẽ kể với cô ấy - họ thân thiết đến thế cơ mà - vì thế cô ấy không nghĩ rằng Heather có thai. Cô ấy nói cô ấy nghĩ chuyên viên pháp y hẳn đã nhầm lẫn.”
“Không thể nào.”
“Tôi chỉ đang nói với chị suy nghĩ của Kimberly thôi.”
“Cậu không có suy đoán nào sao?”
Finlay ngập ngừng.
“Gì thế?”
“Chẳng có gì.”
“Không. Không phải là không có gì. Cậu không có bất cứ suy đoán nào sao?”
“Tôi không có. Cho đến khi Kimberly lấy được hồ sơ và nói với tôi rằng báo cáo pháp y viết là Heather đang mang thai bảy đến tám tuần.”
“Và cậu đã nghĩ gì?”
Finlay lại thở dài. “Đây chỉ là suy đoán thôi.”
“Tôi hiểu.”
Finlay ngồi thẳng dậy. “Lúc đấy Heather đang làm việc cho Ed Witherspoon. Tôi không biết chị còn nhớ không nhưng năm nào Ed cũng tổ chức một bữa tiệc Giáng sinh cho các nhân viên và khách hàng của mình ở văn phòng bất động sản.”
“Tôi nhớ.” Tracy nói. Cha mẹ cô cũng tổ chức một bữa tiệc Giáng sinh, và cha cô nói Ed đã tức điên lên khi bữa tiệc của cha mẹ cô có nhiều người tham dự hơn bữa tiệc của ông ta.
“Sau khi tính toán thời gian, tôi đã tự hỏi liệu có thể có chuyện gì xảy ra ở bữa tiệc đó hoặc sau đó không. Người ta thường uống rượu thả phanh trong những bữa tiệc như vậy, và chẳng ai kiểm tra thẻ căn cước hay gì cả.”
“Cậu đã bao giờ chia sẻ suy đoán này với bác Roy chưa?”
Finlay lắc đầu. “Như tôi đã nói đấy. Đó là suy đoán của tôi sau khi Kimberly lấy được hồ sơ vụ án. Hồi đó, chúng ta vẫn tin rằng Edmund House đã sát hại Heather.”
“Còn bây giờ thì sao?”
Finlay lắc đầu và thốt ra một tiếng thở dài. “Tôi không biết gì hơn, Tracy ạ. Tôi không biết. Nhưng tôi sẽ nói với chị điều này, Heather không đi bộ đến tận Silver Spurs vào một đêm mà ai cũng biết là sắp có bão như thế. Tôi không tin điều đó. Cô ấy ăn mặc không hề phù hợp với việc đi bộ trong thời tiết ấy.”
“Cậu nghĩ ai đó đã chở cô ấy đến bệnh viện để phá thai ư?”
“Và người có khả năng làm việc đó nhất, nếu không phải là cha mẹ cô ấy hay Kimberly, chính là cha của đứa bé. Hắn chính là kẻ có lý do để thuyết phục Heather từ bỏ cái thai đầy rắc rối trong bụng cô ấy bằng cách trả tiền cho việc phá thai.”
“Vậy tại sao cô ấy lại đi bộ về nhà một mình?”
“Tôi không biết. Tôi chỉ biết cô ấy đã không phá thai. Báo cáo pháp y khẳng định điều đó. Có lẽ kẻ chở cô ấy đến bệnh viện đã cãi nhau với cô ấy bởi vì cô ấy không chịu làm thủ thuật, và Heather đã xuống xe, bắt đầu đi bộ. Hoặc có lẽ kẻ đó chỉ thả cô ấy ở bệnh viện và lái xe đi, nghĩ rằng cô ấy sẽ thực hiện việc đó.”
“Có bất cứ bằng chứng nào củng cố cho giả thuyết đó không?”
“Báo cáo pháp y, dữ liệu của bệnh viện, và sự thật là Heather đã ở trên con đường quận lộ, một mình, khi một cơn bão đang trút xuống cô ấy.”
“Còn bất cứ điều gì quan trọng mà cậu nghĩ là tôi cần biết không?”
“Không.” Finlay nhấp ngụm cà phê. Rồi anh ta nói. “Thực ra, có một chuyện. Tôi nghĩ Mathews có vẻ là một tay bịp bợm.”
“Sao cậu lại nghĩ như vậy?”
“Tôi nghĩ ông ta nhận lời điều tra vụ này để được Eric Johansen làm đồ gỗ miễn phí cho.”
“Tại sao cậu lại nói thế?”
“Bác Roy có nói với chị rằng Mathews từng bị Hiệp hội luật sư Montana khiển trách vì tội tham ô tiền của khách hàng, thiếu trách nhiệm, đại loại thế không? Bác Roy đã điều tra chuyện đó. Hầu hết đều liên quan đến thói rượu chè của Mathews. Bác Roy có kể với chị rằng bác ấy đã nói chuyện với vợ cũ của ông ta không?”
Tracy gật đầu.
“Vậy thì chị biết những điều mà tôi biết rồi đấy.”
“Làm thế nào mà cậu biết được chuyện Mathews đang làm lúc đó? Cậu đã nói với chủ quán rượu Bốn Nhánh rằng cậu biết Mathews đi loanh quanh trong thị trấn.”
Finlay cười. “Đây là Cedar Grove mà, chị Tracy. Ai nấy đều để ý đến bất cứ người nào mà họ chưa từng nhìn thấy. Và hồi ấy tôi đang được trả lương để làm việc đó mà, đặc biệt là sau vụ Edmund House.”
“Cậu còn biết ai khác biết được chuyện Mathews đang điều tra vụ sát hại Heather Johansen không?”
“Như tôi đã nói, tôi cho rằng hầu hết mọi người ở Cedar Grove đều biết chuyện đó, nhưng cụ thể là những ai thì tôi không rõ. Tôi chỉ chắc chắn là có tôi, bác Roy và ông bà Johansen là biết chuyện thôi.”
“Cậu đang ở đâu vào buổi chiều Mathews bị bắn?”
Armstrong gật đầu. “Tôi đã đoán là cuối cùng chị sẽ hỏi câu này mà. Hồi đó là tháng Mười, chị Tracy. Tôi đã ở nơi mà tôi luôn đến vào những ngày nghỉ trong mùa săn hươu. Chính cái nơi mà cha chị thường tới vào những ngày nghỉ của ông ấy. Tôi đã đi săn.”
“Một mình à?”
Armstrong nhún vai. “Không nhiều chàng trai ở Cedar Grove được nghỉ làm vào giữa tuần.”
“Cậu đã đi săn ở đâu?”
“Chỉ cách nơi người ta tìm thấy xác Mathews vài dặm.” Anh ta đặt cốc cà phê của mình xuống và một lần nữa có vẻ kích động. “Để tôi nói một cách đơn giản cho chị nghe nhé. Tôi có thể đã lái xe đến khu vực nơi bác Roy và tôi nghĩ là địa điểm Mathews bị bắn. Nhưng tôi thường lau chùi súng của mình sau mỗi lần bắn và mỗi lần đi săn, bất kể tôi có dùng đến hay không. Đó là một thói quen mà tôi học được từ cha tôi. Vì thế, ngay cả khi tôi có bắn Mathews đi chăng nữa thì khẩu súng săn của tôi vẫn sạch sẽ.”
“Cậu có làm điều đó không?”
“Làm điều gì cơ?”
“Bắn Mathews?
“Không.” Finlay nói, cao giọng. “Và tôi cũng không giết Heather... hay vợ mình.”
Tracy dành cho anh ta chút thời gian để bình tĩnh lại. Rồi cô nói: “Có những ai biết lúc ấy cậu đang đi săn?”
“Người duy nhất mà tôi biết chắc là Kimberly. Và dù có nhắm mắt, tôi cũng có thể bắn trúng mục tiêu với khoảng cách từ một trăm đến một trăm năm mươi thước, giống như cú bắn nhắm vào Mathews mà bác Roy đã ước lượng.”
“Cậu có nghe thấy tiếng súng không?” Tracy biết tiếng súng săn sẽ được nghe thấy từ một khoảng cách xa. “Khi cậu đi săn, cậu có nghe thấy âm thanh nào như thế không?”
“Nếu có nghe thấy thì tôi cũng không nhớ đâu.”
“Cậu nghe tin về cái chết của Mathews vào lúc nào?”
“Bác Roy đã đến nhà tôi sau khi tôi về nhà. Bác ấy đã hỏi tôi rất nhiều câu giống với những câu mà chị đang hỏi.”
Tracy đoan chắc Roy đã làm vậy. Cô giở một trang trong cuốn sổ tay của mình ra. “Tôi xin lỗi, Finlay. Tôi cần hỏi cậu về Kimberly.”
“Tôi biết.”
Anh ta không nói với cô rằng chuyện đó không thành vấn đề, rằng anh ta hiểu cô chỉ đang làm nhiệm vụ của mình. Anh ta không giúp cô cảm thấy thoải mái hơn. Anh ta chỉ ngồi ngả người ra sau, như một đấu sĩ say đòn đang chờ cú đấm tiếp theo, không còn bận tâm đến việc giơ găng lên hay cố gắng tự vệ nữa.“Lúc ấy cậu đang làm việc à?”
“Tôi đang đi tuần.”
“Hàng xóm của cậu nhớ là đã nhìn thấy một chiếc xe cảnh sát đỗ ở đường dẫn vào nhà cậu.”
“Đó là Alice Brentworth, sống ở bên kia đường. Tôi thường về nhà ăn trưa để tiết kiệm ít tiền, và hôm đó cũng không ngoại lệ. Thi thoảng Kimberly sẽ đến đón tôi nếu cô ấy làm việc ở tòa soạn tờ Towne Crier, nhưng thường thì cô ấy ở nhà để viết báo, và hôm đó là một trong những ngày như vậy. Tôi về nhà chừng một tiếng đồng hồ.”
“Còn can xăng mà người ta tìm thấy trong nhà cậu thì sao?”
“Đó là của tôi. Tôi đã mua đầy xăng vào thứ Bảy tuần trước đó bởi vì hôm ấy tôi cần sử dụng máy xén cỏ. Tôi để can xăng ở nhà kho đằng sau nhà.”
“Có những ai biết điều đó?”
Anh ta lại nhún vai. “Tôi không biết, nhưng có ai mà không để một can xăng trong nhà kho chứ? Có ai không có một cái máy xén cỏ, một cái máy xén tỉa hàng rào chạy bằng xăng, hoặc một cái máy thổi lá chứ?”
Tracy nhớ rằng hồi cô còn nhỏ, trong nhà kho của nhà cô đúng là có những can xăng được dùng cho những loại dụng cụ như vậy.
“Câu hỏi tiếp theo...” Finlay nói. “Phải chăng là có thể có ai đó đã đến nhà tôi mà hàng xóm không nhìn thấy không?”
“Có thể không?”
“Chị cứ lái xe qua tàn tích của nhà tôi mà xem. Giống như rất nhiều ngôi nhà khác ở Cedar Grove, bất cứ ai cũng có thể đỗ xe cách đó một, hai dãy nhà và đi bộ vào qua sân sau của nó.”
“Trong báo cáo của cảnh sát viết rằng không có dấu hiệu của sự đột nhập bằng vũ lực.”
“Thứ nhất, chúng tôi không khóa cửa khi ở nhà. Vì thế, một người có thể đi vào trong, đánh vào đầu Kimberly rồi tưới xăng. Hoặc, thứ hai, Kimberly có thể biết người đó, vì thế cô ấy sẽ không giật mình hay cảnh giác, ít nhất là ngay lúc ấy. Tôi nghĩ suy đoán thứ hai có nhiều khả năng hơn.”
“Tại sao?”
“Kimberly không bị tấn công tình dục và không có thứ gì bị đánh cắp. Điều đó có nghĩa là kẻ đã đến nhà tôi hôm đó có một mục đích khác. Tôi tin rằng mục đích đó là giết Kimberly và hủy hoại công trình nghiên cứu của cô ấy về vụ sát hại Heather Johansen.”
“Kimberly đã điều tra đến đâu rồi?”
Finlay chỉ ngón tay vào cuốn sổ của Tracy. “Đây là lúc chị nên vẽ một dấu sao, hay thứ gì đó đại loại thế, bên cạnh những gì tôi phải nói, bởi vì nó nghe thật khó tin, ngay cả đối với chính tôi.”
Tracy nhìn anh ta, một lần nữa ngần ngại.
“Câu trả lời là, tôi không biết. Kimberly và tôi không nói chuyện về cuốn sách ấy, ngoài những gì có trong bản báo cáo pháp y.”
“Không bao giờ ư?”
Finlay lắc đầu. “Kimberly biết đó là một chủ đề nhạy cảm, thậm chí nó càng nhạy cảm hơn sau khi cô ấy đọc bản báo cáo pháp y. Cô ấy cũng chỉ là con người thôi, chị Tracy; cô ấy cũng có những mối lo lắng giống như chị đã bộc lộ. Đứa trẻ ấy có thể là con của tôi không? Chúng tôi đã nói chuyện về vấn đề đó, và cô ấy nói rằng đó là một lý do nữa để viết cuốn sách. Để lấy lại thanh danh cho tôi.”
Một giọt nước mắt lăn xuống trên mặt Finlay và anh ta lau nó đi. Tracy không chắc đó là giọt nước mắt sinh ra từ nỗi buồn hay niềm hối tiếc. Có thể là từ sự giận dữ. Finlay giơ một tay lên như muốn nói “Vậy đấy”, và Tracy hiểu được những gì Finlay không nói ra. Anh ta không nói rằng vợ anh ta, mẹ của các con anh ta, đã đọc bản báo cáo pháp y và có những mối nghi ngờ đối với người đàn ông mà cô ấy đã kết hôn, rằng khi Kimberly đọc được thông tin Heather đang mang thai, Finlay chính là cái tên đầu tiên xuất hiện trong đầu cô ấy.
“Kimberly đã có những mối nghi ngờ.” Tracy nói.
Finlay đặt ngón trỏ lên trán, như thể anh ta đột nhiên đau đầu. “Có lẽ vậy.” Anh ta lẩm bẩm.
Trong sự im lặng diễn ra sau đó, Tracy nghe thấy tiếng lách tách của lò sưởi, tiếng ro ro của cái tủ lạnh nhỏ và tiếng phành phạch của chiếc quạt trên đầu. “Finlay?”
“Hửm?” Anh ta nói mà không nhìn cô.
“Cậu đã biết tin về đám cháy như thế nào?”
Kimberly Armstrong lật giở các trang của một trong bốn bìa kẹp hồ sơ trên giá của cô. Chiếc máy sưởi mini trong góc phòng làm việc kêu lách tách, và cô ngửi thấy mùi cháy của những thanh sưởi màu da cam. Phòng làm việc tại nhà của cô đã được các chủ cũ cơi nới không phép. Với những chiếc cửa sổ chỉ có một lớp kính và sự cách nhiệt kém, căn phòng này chẳng bao giờ đủ ấm vào mùa thu và mùa đông. Mệt mỏi vì cái lạnh, cô đã mua cái máy sưởi mini này ở cửa hàng đồ cũ. Finlay không hài lòng về chuyện đó. Anh nói cái máy sưởi ấy là một vật dễ gây cháy và số giấy tờ trong phòng làm việc của Kimberly quá đủ để tạo nên cả một vụ cháy rừng.
Kimberly giở sang một trang khác và tiếp tục đọc. Cô đang điều tra về cái chết của Heather Johansen - và cái chết của Jason Matheus diễn ra sau đó. Cuộc điều tra đã có tiến triển, thậm chí đôi lúc cô còn có cảm giác mình sắp sửa tìm hiểu được chuyện gì đã xảy ra, nhưng cô vẫn chưa đến được đích. Cô còn thiếu một thứ gì đó, và gần đây cô còn bận rộn với một câu chuyện khác cũng thu hút như vậy. Cô chỉ trở lại với cái chết của Heather Johansen khi thời gian cho phép. Chẳng hạn như hôm nay.
Matheus đã nói với bất cứ ai chịu lắng nghe rằng ông ta đã biết được một thông tin chấn động, một thông tin mà Roy Calloway không công bố. Nhưng cô cũng quyết định rằng Matheus là một gã say và có thể chỉ đang cố gây sự chú ý - nghĩa là tất cả những gì ông ta nói có thể chỉ là nhảm nhí.
Thế rồi Matheus bị bắn.
Cảnh sát - Cảnh sát trưởng Calloway - đã nói với Kimberly, người đang viết bài cho tờ Cedar Grove Towne Crier, rằng có vẻ như cái chết của Matheus là một tai nạn săn bắn. Ông nói Matheus đã nhặt những cành cây gãy chắn ngang đường, và một thợ săn đang rình một con hươu ở khu vực ấy đã nhầm những cành cây đó là gac hươu.Điều đó nghe có vẻ giống với mấy lời tào lao mà Roy luôn cố cung cấp cho báo chí. Ông cựu cảnh sát trưởng ấy vốn có tai tiếng là che giấu sự thật, thậm chí còn ngụy tạo bằng chứng để buộc tội Edmund House sát hại Sarah Crosswhite.
Có lẽ Calloway nghĩ Kimberly sẽ dễ dàng tin theo lời ông và đăng tin như những gì ông đã cung cấp cho cô. Nhưng vẫn có những điều khiến cô băn khoăn, một trong số đó là chẳng có người đi săn nào đứng ra nhận trách nhiệm về “vụ tai nạn” ấy. Có thật là đã có người nào đó bắn nhầm không?
Cô cũng đã lái xe tới hiện trường nơi Matheus bị bắn, thậm chí còn trèo lên sườn đồi liên kề với con đường. Đó là khi cô thực sự biết được. Chẳng thể có người đi săn nào nhầm những cành cây là sừng hươu hoặc Matheus là một con hươu cả. Và nếu cô đoán không nhầm, điều đó có nghĩa là Matheus đã bị phục kích - và có lẽ người phục kích ông ta chính là kẻ đang cố khiến cho ông ta im miệng về chuyện Heather Johansen mang thai lúc cô ấy chết.
Cô có linh cảm mình sắp khám phá một tin tức lớn, có thể là một tin tức chấn động. Cô cũng biết mình sẽ phải thuyết phục tổng biên tập đăng nó. Atticus Pelham khác xa với viên luật sư can đảm trong cuốn tiểu thuyết Giết con chim nhại mà cha mẹ ông ta đã lấy tên để đặt cho ông ta. Pelham không thích những chủ đề gây tranh cãi, đặc biệt là sự tranh cãi có liên quan đến Cảnh sát trưởng hay Sở Cảnh sát. Pelham sợ Roy Calloway. Kimberly thì không. Cô không thích việc Calloway lợi dụng cô để đưa tin Matheus có thể đã chết trong một tai nạn săn bắn. Cô nói với Pelham rằng cô muốn gửi đơn đến Sở Cảnh sát yêu cầu cung cấp những thông tin có thể công khai trong hồ sơ vụ án của cả Heather Johansen và Jason Matheus. Hồ sơ vụ án của Johansen đã được đóng lại, do đó nó có thể được công khai. Hồ sơ vụ án của Matheus cũng đến lúc phải đóng lại rồi, vì Roy Calloway tuyên bố ông đã kết luận Matheus chết trong một tai nạn săn bắn. Khi Pelham còn đang ngần ngại, lo lắng về những phản ứng tiêu cực mà họ có thể nhận được, Kimberly đã nói với ông ta rằng tờ báo này là tiếng nói của sự thật ở Cedar Grove. Cô thậm chí còn dẫn lời của cố Tổng thống Thomas Jefferson nổi tiếng mà cô đã học được trong một khóa học báo chí, đó là “Tự do của chúng ta phụ thuộc vào tự do của báo chí.” Khi điều đó không thuyết phục được Pelham, cô đã dọa đem câu chuyện này sang tờ Bellingham Herald.
Cuối cùng, Pelham đành chấp thuận - dù chỉ ở một mức độ nào đó. Ông ta nói với Kimberly là cô có thể gửi đơn yêu cầu Sở Cảnh sát cung cấp bản sao các hồ sơ vụ án, nhưng ông ta không hứa sẽ đăng bất cứ thứ gì cô viết nếu nó không có căn cứ vững chắc. Kimberly cho rằng thôi thì đến đâu hay đến đó.
Tuy nhiên, quyết tâm của cô đã phải trả giá. Nó đã tạo nên một sự rạn nứt với Finlay. Anh đã bảo cô rằng cô sẽ đẩy anh vào một tình thế khó xử, vì bây giờ anh đang là cảnh sát trưởng.
Khi hai hồ sơ cuối cùng cũng được gửi đến tòa soạn, muộn hơn ba tuần so với quy định, Kimberly những tưởng sẽ thấy chúng bị chỉnh sửa và thiếu trang. Trước sự ngạc nhiên của cô, các hồ sơ có vẻ đầy đủ. Cô đem cả hai về nhà và đóng cửa phòng làm việc của mình, và đó là khi cô nhận ra tầm vóc đồ sộ của thứ cô đang cầm trong tay.
Hồ sơ đầu tiên không chỉ là một hồ sơ bình thường.
Nó lưu giữ những tài liệu về vụ sát hại người bạn thân nhất của cô, người đã cùng cô lớn lên.
Kimberly cầm hồ sơ vụ án của Heather như một vật tạo tác thiêng liêng có sức mạnh lớn lao. Hai bàn tay cô run rẩy, và cô tựhỏi có khi nào cô không hề muốn viết về câu chuyện này, không muốn biết chuyện gì đã xảy ra. Cô đã suy ngẫm về câu hỏi đó trong hơn một tiếng đồng hồ trước khi tự nhủ rằng cô phải đọc hồ sơ này, không chỉ vì tự do của báo chí hay Thomas Jefferson.
Cô phải đọc nó vì Heather.
Nếu Jason Matheus bị kẻ nào đó cố ý nhắm bắn - và cô chẳng mấy nghi ngờ về điều đó - vậy thì phải có một lý do. Cô không nghĩ một người bị ông ta chọc tức ở quán rượu lại căm phẫn đến mức giết chết ông ta, mặc dù chuyện đó cũng có thể xảy ra. Cô nghĩ lý do hợp lý hơn cho việc ông ta bị bắn là vì một điều gì đó mà ông ta đọc được trong hồ sơ của Heather. Đó là một sự trùng hợp quá ngẫu nhiên nên không thể là lý do khác được, đúng không? Ở trường báo chí, Kimberly đã được dạy phải loại bỏ những sự trùng hợp ngẫu nhiên. Sự thật. Các phóng viên tìm kiếm sự thật, không phải sự suy đoán hay sự trùng hợp.
Cô đã hít một hơi thật sâu, mặc dù điều đó chẳng xoa dịu được mấy cảm giác rối bời trong lòng cô, và mở bìa hồ sơ ra. Cô đã đọc từng dòng chữ, nghiên ngẫm nội dung của nó một cách chậm rãi, thi thoảng có cảm giác như cô đang xâm phạm vào sự riêng tư của người bạn thân. Cô tìm thấy các báo cáo của cảnh sát, biên bản thẩm vấn và những bức ảnh. Cô không xem những bức ảnh ấy. Cô chưa chuẩn bị tinh thần để làm điều đó, nhưng cô đã đọc tất cả những thứ khác, bao gồm báo cáo pháp y. Cô chưa bao giờ ngờ đến mình lại tìm thấy một thứ tồi tệ hơn bất cứ thứ gì mà cô có thể tưởng tượng ra như vậy.
Nhưng cô đã thấy thứ đó.
Jason Matheus đã không nói nhăng nói cuội.
Cô đã thấy thông tin mà ông ta tuyên bố là mình đã tìm ra. Cô đã thấy thông tin mà Roy Calloway không nói với Eric và Ingrid Johansen - hay bất cứ ai khác. Cô nhớ mình đã có cảm giác tê liệt. Thế rồi cô bắt đầu run lên và cuối cùng bật khóc.
Lúc bị sát hại, Heather đang mang thai.
Lòng Kimberly càng thêm rối bời, cho đến khi cơn buồn nôn trào dâng khiến cô không thể chịu đựng nổi. Cô rời khỏi bàn làm việc, chạy dọc theo hành lang tới nhà vệ sinh và nôn thốc nôn tháo hết bữa trưa của mình. Quỳ gối trên nền đá lát lạnh lẽo, trán lạnh toát, cô đã nói ra thật to suy nghĩ của mình, cái suy nghĩ đã khiến cô buồn nôn.
Heather đã hẹn hò với Finlay. Họ đã chia tay. Nhưng họ đã từng hẹn hò.
Và tâm trí cô bắt đầu suy đoán. Finlay, một cảnh sát ở Cedar Grove, sẽ dễ dàng xem được báo cáo pháp y, đúng không? Finlay sẽ biết cái thông tin mà Jason Matheus tuyên bố là ông ta đã đọc được trong báo cáo pháp y, đúng chứ? Chỉ riêng thông tin đó thôi cũng khiến người ta nghi ngờ kết luận của cảnh sát rằng Edmund House đã sát hại Heather, cái kết luận vốn thiếu bằng chứng xác đáng. Nhưng bây giờ... bây giờ đã có bằng chứng mới.
Nhỡ đâu đứa bé là con của Finlay thì sao? Nhỡ đâu đó là lý do khiến Heather đi trên con đường quận lộ vào đêm hôm đó? Bệnh viện nằm ở Silver Spurs. Có lẽ nào cô ấy đến đó để phá thai? Và... và... Không. Dừng lại. Cô phải dừng lại.
Cô đứng dậy, nhìn bóng phản chiếu của mình trong tấm gương phòng tắm. Trông cô xám ngoét và ốm yếu. Cô đang nghĩ cái quái gì vậy?
Đây đâu phải là người đàn ông xa lạ nào. Đây là Finlay mà.Cô đã ngần ngại không muốn hẹn hò với anh bởi vì quá khứ của anh với Heather, nhưng cuối cùng họ đã vượt qua được trở ngại đó. Họ đã hẹn hò bốn năm bởi vì cô muốn chắc chắn. Và cô đã chắc chắn. Cô đã yêu Finlay. Anh là một người đàn ông tốt, một người đàn ông lịch thiệp. Đây là chồng cô. Cha của các con cô. Finlay không phải là một kẻ sát nhân. Finlay là người tốt bụng và ăn nói dịu dàng.
Nhưng những ý nghĩ khác cứ ập đến với cô, những ý nghĩ mà cô đã gạt bỏ nhiều năm trước. Những ý nghĩ về những gì đã xảy ra khi Heather chấm dứt mối quan hệ với Finlay và làm tan vỡ trái tim Finlay. Cô nhớ anh đã giận dữ ra sao và gọi Heather là đồ nọ đồ kia như thế nào.
Không.
Cô cúi xuống bồn rửa và vã nước lạnh lên mặt, hy vọng nó sẽ giúp đầu óc cô tỉnh táo hơn. Finlay đã thay đổi. Anh không còn là cậu bé học trung học nữa. Anh đã học được bài học từ sai lầm của mình. Chẳng phải ai cũng từng có một người bạn gái hoặc bạn trai cũ khiến họ hành xử tồi tệ sao? Đó là một phần của quá trình trưởng thành. Một phần của chuyện hẹn hò. Không. Finlay đã thay đổi. Anh đã rời khỏi Cedar Grove. Anh đã gia nhập lực lượng cảnh sát. Anh đã học được bài học từ Roy Calloway, người đã chỉ đường dẫn lối và dạy dỗ anh.
Nhờ thế mà anh có thể dễ dàng lấy được hồ sơ của Heather Johansen.
Có lẽ đó chính là lý do khiến anh phản đối Kimberly viết về câu chuyện này - viết về những gì mà Kimberly sẽ biết được từ hồ sơ đó.
Một ý nghĩ khác khiến cô lạnh cả người, lần này cái lạnh thấm sâu đến nỗi khiến toàn thân cô run rẩy và cô phải khoanh hai tay lại trước ngực.
Ngày Jason Matheus bị bắn, Finlay đã đi săn.
Đúng vào lúc đó, cô đã quyết định rằng mình không có sự lựa chọn. Cô phải hỏi Finlay. Cô phải hỏi chồng mình. Cô không thể sống như thế này được. Cô không thể sống trong nỗi ngờ vực.
Khi Finlay về nhà vào tối hôm đó, Kimberly đã thăm dò anh. Cô kể cho anh những gì cô vừa được biết từ báo cáo pháp y. Finlay yên lặng lắng nghe. Anh không giận dữ. Anh không la hét. Nhưng cô có thể nhìn thấy nỗi đau trên mặt anh, và cô biết những câu hỏi của cô đã làm anh tổn thương sâu sắc.
“ Anh không giết Heather.” Hôm đó, anh đã nói. “Và anh cũng không giết Jason Matheus.”
Kimberly đã cảm thấy vô cùng nhẹ nhõm. Cô nói với anh rằng cô tin anh. Cô nói với anh rằng cô sẽ để câu chuyện này ngủ im, rằng cô đã tìm thấy một đề tài khác để viết, đó là thông tin từ Sở Xây dựng quận Whatcom, có thể là tin tốt lành cho toàn bộ Cedar Grove. Cô nói cô thậm chí không tin vào báo cáo pháp y về Heather. Heather đã là bạn thân nhất của cô. Cô ấy sẽ kể cho Kimberly nghe một chuyện quan trọng như thế. Heather sẽ nhờ Kimberly giúp đỡ. Vì thế cô sẽ không tin vào điều đó. Cô sẽ không tìm hiểu chuyện này nữa.
Dĩ nhiên cô vẫn tiếp tục tìm hiểu.
Nhưng không phải vì Heather.
Không phải vì Finlay.Và càng không phải vì Cedar Grove.
Cô tiếp tục tìm hiểu vì chính bản thân cô. Và các con của cô.
Cô tiếp tục tìm hiểu bởi vì cô không thể sống với nỗi ngờ vực về người đàn ông mà cô đã kết hôn, người đàn ông ngủ chung với cô trên một chiếc giường, người đàn ông là cha của các con cô.
Cô tiếp tục tìm hiểu vì nếu cô có bất cứ nỗi nghi ngờ nào, nếu cô nghĩ dù chỉ có một tí ti sự thật rằng Finlay có thể là tên sát nhân thô bạo, đầy tính toán đã sát hại người bạn thân nhất của cô, vậy thì làm thế nào cô có thể sống tiếp với anh dù chỉ thêm một phút?
Bỗng Kimberly nghe thấy một tiếng động vang lên từ đâu đó trong ngôi nhà, nhưng cô không thể xác định được ngay đó là tiếng động gì. Họ không nuôi chó hay mèo; Kimberly bị dị ứng với lông thú vật. Và bọn trẻ không có nhà vào giờ này.
Finlay lại về nhà sao? Họ vừa mới ăn trưa cùng nhau mà. Anh quên thứ gì chăng? Cô đóng bìa kẹp hồ sơ lại, đứng dậy và cất nó trở lại giá sách. Rồi cô gọi to. “Finlay? Anh về đấy à? Anh quên gì sao?”
Không có tiếng trả lời.
Cô đi từ phòng làm việc ra hành lang, giật nẩy người và giơ một tay lên ôm ngực. “Giật cả mình.” Rồi cô nói. “Khoan đã. Có... có chuyện gì thế?”
Vào đúng giây phút đó, cô nghĩ ra tiếng động mà mình vừa nghe thấy là gì - tiếng ai đó trượt mở cánh cửa kính ở mặt sau của ngôi nhà. Cô ngửi thấy mùi gì đó nồng nặc và nhìn xuống sàn.
“Đó là xăng đúng không?”
“Lúc ấy, tôi đang đi tuần.” Finlay nói. “Hôm ấy thật yên ắng. Chỉ có vài cuộc gọi từ tổng đài.” Anh ta ngừng lại. “Rồi có tiếng lạo xạo phát ra từ trong loa: Nhận được cuộc gọi từ 2b10. Cháy nhà.” Anh ta nhìn Tracy qua bàn. “Tôi nhớ là mình đã nghĩ rằng cháy nhà vào thời điểm đó trong năm, cuối tháng Chín, thì có thể là một thảm họa. Mùa hè vừa rồi nóng bất thường. Nhiệt độ lên đến ba mươi mấy độ mười ba lần, trong đó có năm ngày vượt quá ba mươi tám độ, và khu rừng khô như rang. Tệ hơn, những con bọ thông núi cánh cứng đã phá hoại một lượng lớn cây thông - biến chúng thành đám củi nhen lửa màu nâu gỉ. Chúng tôi đã cảnh giác cao độ, và có lý do chính đáng để làm vậy. Nhìn thấy lửa và khói đen, sĩ quan trực tổng đài đã nói.” Finlay nói câu tiếp theo như thể đang tự nói với chính mình. “Số 372 đường Bisby. Giao với đường Số Bốn.”
“Nhà cậu.” Tracy nói.
Finlay gật đầu. “Tôi đã với lấy micro để đề nghị sĩ quan trực tổng đài nói rõ ràng hơn. Cô ấy nhắc lại địa chỉ ấy. Chị biết cảm giác khi ta không biết mình phải làm gì chứ?”
Tracy biết. Cô đã cảm thấy như tê liệt vào buổi sáng cha cô gọi điện hỏi tại sao cảnh sát lại tìm thấy xe tải của cô trên con đường quận lộ nhưng không thấy Sarah.
“Tôi đã không thể cử động.” Finlay nói. “Tôi nhớ là tôi đã nghĩ rằng mình đã cảnh báo Kimberly về cái máy sưởi mini trong phòng làm việc của cô ấy, rằng nó có thể bốc cháy. Ban đầu, các điều tra viên hỏa hoạn đã nghĩ như vậy. Bởi vì ngọn lửa khởi phát từ trong phòng làm việc của Kimberly. Họ nghĩ có lẽ ổ cắm điện bị lỗi, và nó đã phát nổ.”
Tracy lắng nghe, không xen ngang.“Và rồi tôi nhớ ra. Kimberly lúc ấy đang ở nhà. Chúng tôi đã ăn trưa cùng nhau.” Anh ta lại nhìn Tracy. “Đó là lúc tôi thực sự sợ hãi.” Khuôn mặt anh ta nhăn lại. Anh ta mím môi cho đến khi chúng gần như biến mất. Tracy cảm thấy lòng mình thắt lại. Finlay hít một hơi. Một giọt nước mắt lăn xuống gò má anh ta. “Khi tôi về tới nơi, ngôi nhà bị bao trùm trong lửa và đang tỏa ra khói đen. Tôi đã tìm kiếm Kimberly trong đám đông tụ tập bên kia đường. Tôi đã hỏi hàng xóm. Tôi đã hỏi bất cứ ai liệu họ có nhìn thấy cô ấy không. Họ chỉ liên tục...” Anh ta nhắm mắt lại. Nước mắt tiếp tục tuôn trào, lăn xuống gò má anh ta. “Họ chỉ liên tục lắc đầu. Không ai nhìn thấy cô ấy. Tôi đã nhìn quanh và thấy xe cô ấy, chiếc Honda, đỗ ở nhà để xe.” Anh ta thổi phù một hơi và ngừng lại một lát. “Tôi đã lao như bay qua thảm cỏ tới cửa trước và cố gắng vượt qua những ngọn lửa. Các nhân viên cứu hỏa đã tóm tôi lại. Tôi không nhớ bộ đồng phục của tôi có bị bắt lửa không hay có bao nhiêu lính cứu hỏa đã khống chế được tôi. Có những lúc chuyện đó không quan trọng. Họ đã kéo tôi ra xa và tôi đứng ở đó. Tôi đứng ở đó, bất lực, nghe tiếng những ngọn lửa gào rú. Và tôi biết Kimberly đang ở bên trong.”
Tracy đợi một lát, cho Finlay chút thời gian để bình tĩnh lại. Rồi, với giọng nhẹ nhàng, cô nói: “Cậu có nghĩ rằng có thể có kẻ nào đó đang đổ tội cho cậu không, Finlay?”
Anh ta có vẻ suy nghĩ về câu hỏi của cô, nhưng rõ ràng đây không phải là lần đầu tiên anh ta làm thế. “Tôi đã không nghĩ đến điều đó khi Heather bị sát hại. Tôi chỉ coi mình là một nạn nhân của hoàn cảnh. Tôi đã hẹn hò với cô ấy. Tôi đã cư xử như một thằng ngốc khi chúng tôi chia tay. Khi Jason Mathews chết.. tôi đã nghĩ tôi đã nghĩ có kẻ đang cố giữ một bí mật, một bí mật mà Mathews đã đến quá gần, nhưng tôi không nghĩ cái chết của ông ta được sắp đặt để hướng điều tra nhắm vào tôi.”
“Còn bây giờ?”
Anh ta ngước mắt lên. “Khi báo cáo của đội điều tra hỏa hoạn nói rằng họ tìm thấy bằng chứng về một chất dẫn lửa là xăng, và họ tìm thấy can xăng của tôi giữa đống hoang tàn...”
“Kẻ nào muốn đổ tội cho cậu nhỉ?”
“Tôi không biết.” Anh ta nói.
Tracy lại nghĩ đến những người biết chuyện Finlay từng bám đuôi Heather Johansen. Cô nghĩ đến những người biết Jason Mathews có hồ sơ của cảnh sát, và kết luận của bác sĩ pháp y rằng Heather Johansen đang mang thai. Những ai biết Kimberly gửi đơn yêu cầu Sở Cảnh sát cung cấp cả hai hồ sơ ấy nhỉ?
Chắc chắn là Finlay và...
Tracy rùng mình. Và Roy Calloway.