CHƯƠNG 29
Faz bước tới cánh cửa kính trượt, nhìn ra một cái sân sau nhỏ bé với một bể bơi hình bầu dục và vài cái cây, những cành cây nặng trĩu những quả chanh hoặc bưởi.
“Ông làm gì với tất cả chỗ chanh này thế?” Faz hỏi.
Adams đưa cho Faz một cốc trà đá. “Làm nước chanh, mứt chanh, tất cả những thứ đại loại thế. Ông có muốn lấy một ít không? Nhà tôi dùng không xuể.”
“Tôi không nghĩ mình sẽ đem chúng lên máy bay đâu.”
Họ ngồi trên bộ bàn ghế bằng da màu đỏ. Sàn nhà lát đá và phong cách bài trí kiểu Tây Nam. “Ông nói cái chết của Jason Mathews có vài điểm nghi vấn. Tôi được biết đó là một tai nạn săn bắn.”
“Đó chính là điểm nghi vấn.” Faz nói. “Chúng tôi được biết ông ta từng là một khách quen ở quán rượu của ông.”
“Trong một thời gian. Ông biết rằng Cedar Grove đã cử một sĩ quan đến sau khi Mathews chết để tìm hiểu xem liệu Mathews có gây thù chuốc oán với ai ở quán rượu không chứ?”
“Ông ta có gây thù chuốc oán với ai ở đó không?”
“Theo những gì tôi biết thì không.”
“Ông biết gì về ông ta?”
“Không nhiều. Ông ta thường đến và ngồi thui thủi một mình, trừ khi ông ta uống quá say. Khi đó, ông ta có thể ồn ào và khiến người khác cảm thấy khó chịu.”
“Theo kiểu như thế nào?”
“Vợ cũ của ông ta thường là mục tiêu cho những lời lèm bèm của ông ta. Mà tôi hỏi ông một điều nhé. Lúc ở bên ngoài, ông nói chuyện này có liên quan đến hai vụ án. Vụ án thứ hai là gì vậy?”
“Cô gái trẻ đã mất tích dọc theo con đường quận lộ vào năm 1993. Họ đã tìm thấy thi thể của cô ấy được chôn vùi một phần trong tuyết.”
“Tôi đã nghĩ có thể là vụ đó mà.”
“Tại sao ông lại nghĩ thế?”
“Bởi vì ông ta chẳng hề kín miệng về chuyện đó.”
“Ai cơ? Chính xác là về chuyện gì?”
“Mathews. Tôi nhớ ông ta đang làm việc gì đó cho gia đình cô gái ấy hoặc ít nhất là ông ta nói như vậy.”
“Ông còn nhớ được thêm điều gì không?”
“Tôi nhớ ông ta nói ông ta đã biết được một điều gì đó, một điều mà cảnh sát không công bố. Có lẽ đó chỉ là lời nói nhảm. Ông ta là kiểu người như vậy mà.”
“Ông ta có nói đó là điều gì không?”
“Dù ông ta có nói thì tôi cũng chẳng nhớ. Cũng phải năm, sáu năm rồi.”
“Còn về bất cứ ai khác trong quán rượu thì sao, một người mà ông ta có thể đã nói chuyện cùng, một bạn nhậu?”
“Không có ai thường xuyên nói chuyện với ông ta. Như tôi đã nói đấy, ông ta không được yêu mến lắm. Tôi đã từng phải gọi điện cho cảnh sát đến can thiệp khi ông ta không ngừng nói xấu vợ cũ. Ông ta đã sử dụng một số lời lẽ khá là thô tục để miêu tả bà ấy.”
“Đó là khi nào?”
“Khi tôi gọi cảnh sát á? Tôi không biết.”
“Ông có thể áng chừng thời điểm sự việc đó xảy ra dựa vào cột mốc là thời điểm ông ta chết không? Ông ta chết vào tháng Mười năm 2013.”
“Tôi không thể; tôi xin lỗi. Tôi cho rằng cảnh sát có thể có một báo cáo về việc đó.”
“Cảnh sát ở Silver Spurs à?” Faz hỏi.
“Tôi đã gọi điện cho cảnh sát ở Silver Spurs, nhưng họ lại gọi điện cho cảnh sát ở Cedar Grove vì đó là nơi Mathews sinh sống. Tôi cho rằng cảnh sát ở Cedar Grove nghĩ rằng Mathews thuộc trách nhiệm của họ và nếu ông ta cần được chở về nhà thì họ chính là người nên làm điều đó. Ông ta đã say. Đến mức bất tỉnh ở quầy bar.”
“Ông có nhớ tên của viên cảnh sát đã tới đưa ông ta về nhà không?”
“Chắc chắn rồi. Đó là Finlay Armstrong. Anh ta sau này trở thành cảnh sát trưởng của Cedar Grove.”
Tracy đã kể cho Faz điều này, nhưng ông hy vọng việc nhớ lại sự kiện ấy có thể khuấy động một điều gì đó khác trong trí nhớ của Adams. “Ông chắc chứ?”
“Chắc chắn. Finlay đã đi vào trong quán rượu và hộ tống Mathews ra ngoài.”
“Ông có nói chuyện với anh ta không? Với Finlay ấy.”
“Chẳng có gì ngoài Ông ta kia , ông biết đấy.”
“Ông nói ông Mathews này có cái tật nói năng bừa bãi. Ông ta có bao giờ nói chuyện về cô gái trẻ nọ hoặc chuyện ông ta đang làm gì cho gia đình cô ta không? Bất cứ điều gì?”
“Với tôi thì không, nhưng có thể ông ta đã nói với ai đó, nhưng tôi không thể khẳng định cụ thể là ai. Ông ta là kiểu người đó. Ông ta nói chuyện như thể mình là một nhân vật tầm cỡ vậy.”
“Tôi cá rằng mắt nhìn người của ông đã được trui rèn rất tốt sau khi làm chủ một quán rượu bao nhiêu năm như thế.” Faz nói, muốn tâng bốc Adams để ông ta tiếp tục nói.
“Cũng không tệ. Nhưng tôi đã trở nên mệt mỏi với việc đó. Đó là lý do tôi bán béng nó đi.”
“Ông có nhớ bất cứ điều gì mà Mathews nói về cô gái ấy không?”
“Tôi xin lỗi. Tôi chỉ nhớ ông ta nói cha mẹ cô gái đã thuê ông ta và có lẽ cái gã mà họ nghĩ rằng đã giết cô ấy thực ra không phải là hung thủ. Đại loại vậy. Dù sao đi nữa, tôi chỉ nhớ được đến thế. Tôi nghĩ lúc đó ông ta chỉ đang cô đơn và cố lôi kéo mọi người chú ý đến ông ta mà thôi.”
“Và ông ta không bao giờ bóng gió gì đến thông tin mà ông ta đã phát hiện được?”
“Chưa bao giờ.” Adams nói.
“Và dường như không có ai khác trong quán rượu có mối quan hệ với Mathews? Một người có thể được ông ta kể cho nghe chi tiết hơn về chuyện đó?” Faz thử hỏi lại lần nữa.
Adams lắc đầu. “Như tôi đã nói đấy, ở đó không có ai yêu quý ông ta lắm. Tôi xin lỗi, giá mà tôi có thể cung cấp nhiều thông tin hơn.”
“Có bất cứ điều gì bất thường hoặc kỳ lạ không? Ông có nhớ bất cứ điều gì như vậy không?”
“Chà, có một chuyện. Tôi không chắc liệu nó ý nghĩa nhiều không nhưng...”
Faz, vào lúc này, sẽ lắng nghe bất cứ điều gì. “Đó là chuyện gì?”
“Một tối nọ, có một người đi vào trong quán rượu, và ông ta ngồi nói chuyện cùng Mathews ở một bàn ở phía trong cùng.”
“Ông có biết người đó không?”
“Có chứ.” Adams nói, nở một nụ cười.
“Người đó đến từ Silver Spurs à?”
“Không. Ông ta đến từ Cedar Grove.”
Jason Matheus ngồi ở cái bàn phía trong cùng của quán rượu Bốn Nhánh, cái bàn cách xa bàn bi a và bàn chơi đẩy đĩa nhất, nơi ông ta có thể mong đợi mình sẽ có một chút riêng tư. Hôm nay ông ta cần thực hiện một cuộc đàm phán. Gia đình Johansen có thể không muốn kiếm lợi từ cái chết của con gái họ, nhưng Matheus thấy không có lý do gì mà ông ta không nên làm vậy cả. Ông ta ngờ rằng ông bà Johansen sẽ thay đổi suy nghĩ khi ông ta nói với họ rằng ông ta biết ai đứng sau cái chết của con gái họ. Thế nếu họ không như thế thì sao? Điều đó thực sự chẳng ảnh hưởng gì đến Matheus. Ông ta sẽ càng kiếm được nhiều tiền hơn.
Ông ta nhấm nháp cốc vodka tonic. Ông ta không chắc mình đã uống bao nhiêu để giữ cho đầu óc được bình tĩnh và tỉnh táo. Ông ta thậm chí còn diện một trong ba bộ com lê mà ông ta vẫn giữ từ ngày còn hành nghề luật ở Montana. Những bộ khác đã bị chật hoặc sờn mòn. Ông ta đã đem quyên góp chúng cho một tổ chức từ thiện ở địa phương trước khi rời khỏi Montana. Một sự giải thoát.
Cánh cửa quán rượu mở ra và vị khách của ông ta bước vào, dừng lại một lát để đôi mắt thích nghi với thứ ánh sáng tù mù chủ yếu tỏa ra từ những ngọn đèn neon được treo trên các ô cửa sổ và ngự trên bức tường đằng sau quầy bar.
Vị khách trông như đang định tiến lại chỗ quầy bar. Matheus đẩy ghế ra sau và đứng dậy, gật đầu với người đàn ông ấy. Họ chưa từng chính thức gặp nhau, nhưng Matheus đã gây đủ ồn ào xung quanh Cedar Grove đến nỗi ông ta khó mà tin nổi người đàn ông này không biết Matheus trông như thế nào. Việc người đàn ông ấy đến quán rượu này đã chứng tỏ rằng ông ta biết rõ Matheus là ai. Đó là một dấu hiệu tốt. Nó cho Matheus biết mình đang đi đúng đường.
Matheus chìa tay ra qua bàn khi người đàn ông nọ lại gần. “Ông Witherspoon. Tôi là Jason Matheus.”
Ed Witherspoon lờ đi bàn tay đang chìa ra ấy, kéo ra một cái ghế gỗ ở phía đối diện với Matheus và ngồi xuống. Một người phụ nữ tiến lại, thảy một miếng lót cốc lên bàn. Trên miếng lót cốc có in hình cái đầu hươu, một con hươu đực với bộ gạc có bốn nhánh. “Whisky. Jim Beam hoặc Wild Turkey, có đá.” Witherspoon nói.
“Một vodka tonic nữa.” Matheus nói. Rồi ông ta cũng ngồi xuống.
“Ông nói ông có thông tin mà tôi sẽ muốn nghe. Tôi đang lắng nghe đây.” Witherspoon nói. Ông ta ngồi ngả ra sau, mỉm cười, cố gắng tỏ ra vênh váo.
“Ông không muốn uống trước sao? Tôi nghĩ ông có thể muốn như vậy.”
“Nghe này. Tôi biết ông là ai, và tôi biết ông đang làm gì. Tôi biết mọi thứ về mọi người ở Cedar Grove. Vì thế hãy dẹp hết mấy lời tào lao và đi thẳng vào vấn đề chính đi. Tôi đến đây để làm gì?”
“Nếu ông biết mọi thứ, có lẽ tôi mới nên là người hỏi ông câu hỏi đó.” Matheus nói, nghĩ rằng đó là một lời đối đáp thông minh.
“Ông say rồi sao, ông Matheus? Phải chăng tôi đã bị gọi ra khỏi nhà trong đêm tối bởi một gã say?”
“Nếu biết trước là thế thì ông có đến không?”
“Không, tôi sẽ không đến.”
“Tuy nhiên ông đang ngồi ở đây rồi đấy thôi, ông Thị trưởng. Sao lại thế?”
“Tôi không còn là thị trưởng nữa, và tôi đến đây vì ông nói ông có thông tin về cái chết của Heather Johansen mà tôi sẽ muốn nghe.”
“Chắc là cô ấy có nhiều ý nghĩa với ông lắm thì ông mới rời khỏi ngôi nhà ấm áp của mình như thế nhỉ.”
“Cô ấy từng làm việc cho tôi.”
“Chỉ thế thôi sao?” Matheus cười nhăn nhở.
“Chính xác thì có chuyện gì vậy, ông Matheus?” Witherspoon nói. “Tôi mệt mỏi với việc vòng vo tam quốc rồi.”
Cô phục vụ mang đồ uống của họ tới. Matheus xua tay với Witherspoon, mặc dù ông ta không hề thò tay vào ví của mình. “Để tôi mời.” Sau khi cô phục vụ rời đi, Matheus nói: “Vậy chúng ta vừa xác định rằng Heather từng làm việc cho ông.”
“Tôi vừa nói với ông điều đó.”
“Tôi tin rằng cô ấy vẫn làm việc cho ông đến tận khi cô ấy qua đời vào tháng Hai năm 1993, đúng không?” “Qua đời” là một từ hay ho. Ông ta thích nó. Tế nhị hơn từ “chết” nhiều.
“Tôi nhắc lại, tôi vừa nói với ông là cô ấy từng làm việc cho tôi.”
Matheus đung đưa trên ghế của mình. “Tôi nghe đồn hồi đó ông có tổ chức một bữa tiệc Giáng sinh rất hoành tráng.
“Chúng tôi tổ chức một bữa tiệc Giáng sinh ở văn phòng cho các nhân viên và khách hàng của chúng tôi.”
“Tôi cho rằng Heather đã có mặt ở bữa tiệc đó vào đêm đó, vì lúc bấy giờ cô ấy đang làm việc cho ông.”
“Tôi đã nói với ông cô ấy là một nhân viên của tôi mà. Bữa tiệc ấy dành cho các nhân viên. Mà ông đang nói đến năm nào vậy?”
“Tháng Mười hai năm 1992.”
“Tôi không biết. Nếu hồi đó cô ấy đang làm việc cho tôi, tôi cho rằng cô ấy có tham dự bữa tiệc. Vậy thì sao?”
“Cha mẹ cô ấy có tới đó không?”
“Xin nhắc lại, tôi cho rằng họ có đến. Nhiều người đến rồi lại đi. Đó là bữa tiệc mà ai cũng có thể ra vào. Tôi đã cố gắng hết sức, nhưng tôi không thể và không tiếp được hết mọi người. Chúng ta vào chuyện chính được không?”
Matheus giơ một bàn tay lên. “Khoan đã. Khoan đã. Đừng sốt ruột. Ông bà Johansen nói họ đã rời khỏi bữa tiệc của ông để đến một bữa tiệc khác vào đêm hôm đó.”
“Tôi không biết chuyện đó.”
“Họ nói Heather đã ở lại.” Matheus nói.
“Có thể cô ấy đã ở lại. Tôi cũng không biết nữa.”
“Ồ, ông biết cô ấy có ở lại mà, ông Thị trưởng. Ông biết rất rõ điều đó là khác.”
“Hồi đó có rất nhiều người đến tham dự bữa tiệc. Và vào những thời điểm khác nhau.”
“Tôi cho rằng mọi người đã uống nhiều rượu?”
“Hồi đó người ta không có ý thức về việc không được uống rượu khi lái xe như bây giờ.”
“Tôi nghĩ con người thì vẫn là con người, hồi đó hay bây giờ cũng chẳng khác gì nhau.”
“Ông nói thế là có ý gì?”
“Ý tôi là một cô gái trẻ uống quá nhiều rượu ở một bữa tiệc... Cô ấy có thể trở nên dễ dãi, đúng không?”
Witherspoon không trả lời nhưng yết hầu của ông ta trông như một cái phao câu cá trên mặt hồ khi một con cá vược đớp mồi.
Matheus tiếp tục. “Heather đã say và chỉ có một mình. Bị kẹt lại, không có ai đưa về nhà.”
Witherspoon ngả người về đằng trước và hạ thấp giọng, nhưng sự gay gắt thì không hề giảm bớt. “Ông đang buộc tội tôi điều gì sao, ông Matheus? Bởi vì tôi đã ở nhà với vợ tôi. Ông có thể hỏi bà ấy. Bà ấy sẽ làm chứng tôi đã ở đâu đêm đó. Chúng tôi đã nói toàn bộ chuyện này với cảnh sát. Ông có thể hỏi họ. Ngoài ra, ông có thể đến...”
“Ồ, tôi chắc chắn Barbara sẽ xác nhận điều đó. Và tôi biết ông cảnh sát trưởng cao lớn ấy đã hỏi ông câu này. Nó nằm trong báo cáo của ông ấy. Nhưng đó là trước khi một thông tin gây chấn động xuất hiện.”
“Thông tin gây chấn động?” Witherspoon nhấp cốc rugu của mình nhưng Matheus nghĩ Witherspoon làm vậy chỉ để cho môi và bàn tay bớt run mà thôi.
“Ông biết thông tin gây chấn động ấy đấy. Suy cho cùng, ông nói ông biết mọi thứ về mọi người trong thị trấn của ông mà. Tôi chắc chắn ông biết rõ về chuyện của Heather, đúng không?”
“Ông muốn gì, Matheus? Có phải ông đang cố tổng tiền tôi không?”
“Tống tiền? Chà, từ đó chỉ thích hợp nếu tôi đang nói chuyện với một người có tội thôi, đúng không nào?”
Witherspoon lóng ngóng. “Dường như ông đang dẫn dắt câu chuyện theo hướng đó.”
“Tôi đang dẫn dắt câu chuyện theo hướng đó, Thị trưởng Witherspoon ạ, nhưng tôi không cho rằng đó là tống tiền.”
“Tôi đã nói với ông rồi mà; tôi không còn là thị trưởng nữa. Và nếu đây không phải là tống tiền thì là gì?”
“Bồi thường, thưa ông. Bồi thường.”
Faz tựa người vào lưng ghế xô pha. Ông cảm thấy mồ hôi ở nách đang toát ra mặc dù hơi lạnh từ điều hòa nhiệt độ giúp ngôi nhà được mát mẻ.
“Ông có nói với cảnh sát về cuộc gặp giữa Mathews và Ed Witherspoon trong quán rượu không?”
“Tôi thực sự đã không nghĩ đến chuyện đó. Cô cảnh sát ấy hỏi tôi liệu Mathews có gây thù chuốc oán với ai trong quán rượu không. Hồi đó tôi thực sự không nghĩ đến cuộc gặp ấy giữa hai người đó.”
“Tôi cho rằng ông chưa bao giờ nói chuyện với ông thị trưởng ấy? Chưa bao giờ hỏi ông ta về mục đích ông ta đến gặp Mathews?”
“Tôi thực sự không quen biết ông ta, vì tôi là người ở Silver Spurs mà. Tôi chỉ đoán rằng có lẽ ông ta và Mathews quen biết nhau.”
“Nhưng ấn tượng của ông về cuộc trò chuyện tối hôm đó... đã thay đổi?”
“Tôi cho rằng vậy. Có lẽ thế. Tôi vốn không biết về mối quan hệ của họ. Tôi chỉ biết những gì mắt tôi nhìn thấy thôi. Trông ông thị trưởng chẳng vui vẻ gì khi ở đó, và càng lúc ông ta càng tỏ ra khó chịu hơn. Cuộc trò chuyện của họ không đến mức gay gắt. Ý tôi là không có la hét, quát tháo hay bất cứ thứ gì tương tự như thế, nhưng khi ông thị trưởng rời khỏi quán rượu, trông ông ta... Chà, trông ông ta khá bực tức.”
“Còn Mathews thì sao?”
“Theo tôi nhớ thì Mathews nán lại một lúc, nhâm nhi món đồ uống của mình. Tôi cũng nhớ trông Mathews thật... tự mãn.”
“Tự mãn ư?”
Adams cố gắng miêu tả rõ hơn. “Trông ông ta giống như một con mèo vừa mới nuốt con chim hoàng yến vậy.”