CHƯƠNG 32
Hai tuần sau, Dan cố gắng làm dịu đi sự bồn chồn trong lòng khi anh đứng bên cạnh Larry Kaufman ở bàn luật sư trong Tòa Thượng thẩm quận Whatcom. Họ cùng nhau quan sát thẩm phán Doug Harvey bước vào phòng xử án, trên người mặc chiếc áo chùng đen lụng thụng, và ngồi xuống chỗ ngồi của mình. Bên trái Dan, ở phía bên kia bục trình bày, Lynn Milne, một luật sư đồng sáng lập của hãng luật Hogan, Milne và Peek, đứng bên cạnh hai cộng sự của mình. Milne đã đệ đơn yêu cầu hoãn lại phiên tòa quyết định về phán quyết giản lược một tháng, với lý do cô ta cần thêm thời gian để tìm hiểu về vụ kiện này. Dan trả lời rằng phiên tòa này diễn ra là để xử lý đơn kiến nghị về phán quyết giản lược của Cedar Grove. Nếu Milne chưa chuẩn bị sẵn sàng để bảo vệ cho nó thì Cedar Grove không nên đệ trình bản kiến nghị ấy làm gì. Anh tranh luận rằng nếu Cedar Grove bỏ đơn kiến nghị đó, Milne sẽ tha hồ có thời gian để chuẩn bị cho vụ kiện. Đó là một thách thức mà anh hy vọng Milne sẽ không chấp nhận.
Và cô ta đã không chấp nhận.
Dan đã chỉnh sửa đơn kiện để bổ sung thêm một nguyên nhân tố tụng, đó là cáo buộc Cedar Grove tội âm mưu dân sự. Nói một cách đơn giản, điều đó có nghĩa là hai hoặc nhiều người cùng nhau hành động để đạt được một mục đích phi pháp, hoặc hành động để đạt được một mục đích hợp pháp nhưng phương thức thực hiện lại trái với pháp luật. Washington là bang chỉ yêu cầu người ta thông báo về nguyên nhân tố tụng khi đâm đơn kiện nên Larry Kaufman chỉ cần đưa ra các cáo buộc của mình. Ông không cần phải cung cấp các chi tiết cụ thể. Cáo buộc về tội âm mưu dân sự đã mở rộng phạm vi khiếu kiện của ông, và Dan sẽ dựa nhiều vào sự mở rộng đó để biện minh cho những câu hỏi của anh ở phiên tòa. Anh chắc chắn Milne sẽ phản đối rằng những câu hỏi của anh là không liên quan, nhưng anh hy vọng nguyên nhân tố tụng mới và sự tò mò của Thẩm phán Harvey sẽ thúc đẩy ông ta cho phép Dan được làm theo ý mình.
Harvey đã cho Milne một tuần để trả lời đơn kiện sửa đổi và kiến nghị của Dan về việc lấy lời khai nhân chứng trực tiếp. Cô ta và các cộng sự của mình đã đệ trình các văn bản biện hộ và tài liệu dài hơn năm mươi trang, đưa ra những lời bào chữa biện minh mới và nhấn mạnh vào nguyên nhân tố tụng mới là tội âm mưu dân sự - như Dan đã hy vọng. Milne sẽ khó có thể phản đối rằng những câu hỏi của Dan là không liên quan khi cô ta đã dành quá nhiều thời gian để bác bỏ cáo buộc về tội âm mưu trong các giấy tờ tài liệu của mình.
Dan đã đệ trình một văn bản phản hồi ngắn gồm hai trang, phản biện rằng mặc dù những lý lẽ của Milne là thích đáng, nhưng chúng không có sức thuyết phục. Mặc dù códáng điệu tự tin, song anh hoàn toàn không chắc chắn mình có những lập luận pháp lý tốt hơn. Anh chắc chắn không có nhiều tài liệu đáng tin cậy để làm căn cứ chứng minh cho quyền được tiến hành lấy lời khai trực tiếp của mình, nhưng Leah Battles đã tìm hiểu được một điều không có trong án lệ hoặc các quy chế. Cô ấy đã tìm hiểu được rằng Thẩm phán Harvey từng là một luật sư tranh tụng thiện chiến nổi tiếng với việc vượt qua các giới hạn của luật pháp - không chỉ viện dẫn các điều luật mà còn tạo ra chúng. Tên tuổi của ông ta gắn liền với cả tá vụ phúc thẩm.
Harvey đặt các hồ sơ lên bàn mình, mái tóc bạc của ông ta nổi bật dưới ánh đèn huỳnh quang sáng rực. Những tấm ván ốp và đồ đạc bằng gỗ sồi tạo cho phòng xử án hiện đại này một vẻ mềm mại hơn so với những phòng xử án cũ ọp ẹp ở Seattle, nhưng nó vẫn là nơi dành cho các “đấu sĩ”.
Trước khi Harvey kịp rời mắt khỏi đống giấy tờ của mình và ngước nhìn lên, Milne đã cất tiếng. “Thưa quý tòa, tôi là Lynn Milne, đại diện cho Cedar Grove.” Milne mặc một chiếc váy màu xanh hải quân và chiếc áo khoác dáng vuông tôn lên vóc dáng khỏe khoắn - bờ vai rộng và vòng eo thon nhỏ. Cô ta có mái tóc ngắn màu nâu mà cô ta có thói quen vén ra sau tai. “Bị đơn phản đối việc nguyên đơn muốn thực hiện việc lấy lời khai trực tiếp tại phiên tòa này. Chúng tôi đã đề nghị để cho những người mà luật sư bên nguyên mời ra tòa được cung khai bằng văn bản, nhưng ông ấy đã từ chối.”
Harvey đang chăm chú đọc một văn bản, ông ta nói mà không nhìn lên. “Sự phản đối bằng lời của bà ở tòa có bất cứ luận cứ nào khác ngoài những luận cứ đã được viện dẫn trong văn bản biện hộ dài hơn năm mươi trang của bà không?”
“Không, thưa quý tòa. Chúng tôi tin rằng...”
Harvey bỏ kính ra và liếc nhìn về phía Milne bằng đôi mắt xanh sắc bén. “Vậy bà đang cho rằng tôi không đọc văn bản biện hộ của bà?”
“Không phải thế, thưa quý tòa...”
“Vậy bà đang cho rằng tôi đã đọc văn bản biện hộ của bà nhưng tôi không có đủ khả năng thấy được những lý lẽ đã được trình bày trong đó?”
“Không phải thế, thưa quý tòa. Chúng tôi chỉ...”
“Bà chỉ muốn nhắc lại những lý lẽ mà bà đã nêu lên trong văn bản biện hộ của bà để bảo vệ quyền kháng cáo của mình nếu kết quả của phiên tòa này là một quyết định không có lợi cho bị đơn.”
Milne trông có vẻ bối rối. Dan không thốt ra một âm thanh nào.
“Những lời phản đối của bà đã được lưu ý và bác bỏ. Chúng được bảo lưu cho việc kháng cáo nếu thân chủ của bà quyết định chọn cách đó.” Harvey đeo kính vào trở lại và quay sang Dan. “Ông O'Leary, đây là ‘màn trình diễn’ của ông. Hãy bắt đầu đi.”
“Vâng, thưa quý tòa. Nguyên đơn xin gọi Rav Patel.”
Nhân viên giữ trật tự tại tòa án bước ra hành lang và giữ cánh cửa mở. Rav Patel bước vào, anh ta mặc một bộ com lê màu nâu bùn, lông mày cau lại khi anh ta đi tới bục nhânchứng. Các luật sư thường là những nhân chứng tồi nhất, vì họ tin rằng vị trí của mình là ở phía bên kia của bục nhân chứng, là người hỏi chứ không phải là trả lời các câu hỏi. Sau khi thư ký tòa cho Patel thề sẽ nói sự thật, vị luật sư của thành phố Cedar Grove ngồi xuống.
Dan giới thiệu nhanh chóng rằng Patel là luật sư đại diện cho thành phố Cedar Grove từ năm 2013, khi Gary Witherspoon trở thành thị trưởng, và Patel cùng Witherspoon đã quen biết nhau từ rất lâu, thuở hai người còn học đại học.
“Hai người cùng ở trong hội huynh đệ Tau Kappa Epsilon?”
“Vâng, đúng vậy.”
Cảm thấy Harvey muốn anh đẩy nhanh tốc độ, Dan chuyển sang vấn đề trước mắt. “Trong quá trình làm luật sư đại diện cho thành phố, ông có dịp nào thay mặt thành phố Cedar Grove chuẩn bị các hợp đồng mua bán không?”
“Có.” Patel nói, tiếp tục trả lời một cách ngắn gọn.
“Ông có chuẩn bị hợp đồng mua bán để Cedar Grove mua rạp chiếu bóng Hutchins không?”
“Có.”
Dan đánh dấu tài liệu đó và đưa nó vào làm bằng chứng rồi mở nó lên trên laptop của mình, khiến nó hiện lên trên các màn hình máy tính của phòng xử án. Patel nhìn tài liệu ấy và xác nhận nó. Dan lặp lại quá trình ấy với các hợp đồng mua bảy cơ sở kinh doanh khác trên phố Chợ. Patel xác nhận rằng anh ta đã thay mặt thành phố thảo từng bản hợp đồng.
“Và khi ông nói ‘thành phố’, thì khách hàng mà ông đang nói đến cụ thể là ai?”
“Thành phố hành động thông qua thị trưởng và các thành viên hội đồng thành phố.” Patel nói.
“Thị trưởng Gary Witherspoon?” Dan hỏi.
“Vâng, và các thành viên hội đồng thành phố.”
“Ông cũng chuẩn bị các hợp đồng để bán những cơ sở kinh doanh trên phố Chợ đó cho những người chủ tư nhân?”
“Vâng.”
Dan đánh dấu từng hợp đồng và Patel xác nhận chúng. Anh hướng Patel vào bản hợp đồng bán rạp chiếu bóng Hutchins cho một người chủ mới, Barry Sewell.
“Ông Sewell có cố vấn pháp lý trong việc mua rạp chiếu bóng Hutchins không?”
“Tôi không biết.”
“Ông có giao dịch với một luật sư đại diện cho ông Sewell không?”
Patel hơi lúng túng. “Không.”
“Ông đã làm việc trực tiếp với ông Sewell sao?”
“Tôi không nói chuyện với ông ta, nếu đó là điều ông muốn hỏi.”
“Ông có gặp ông ta không?”
“Không!”
“Ông liên lạc với ông ta bằng cách nào?” Dan hỏi.
“Thư ký của tôi có địa chỉ email của ông ta và đã gửi hợp đồng qua email. Ông ta ký hợp đồng và gửi trả lại.”
“Và thư ký của ông là ai?”
“Sunnie Witherspoon.”
“Cô ấy có liên quan gì đến Thị trưởng không?”
“Sunnie là vợ của Gary Witherspoon.”
“Tôi hiểu rồi.” Dan nhận thấy đôi lông mày của thẩm phán Harvey chau lại. “Và Barry Sewell có chỉnh sửa bất cứ điều gì trong hợp đồng mua bán không?”
“Không!”
Dan lặp lại những câu hỏi ấy với các hợp đồng khác mà Patel đã soạn thảo để bán các cơ sở kinh doanh khác và nhận được những câu trả lời tương tự - Patel chưa bao giờ gặp hay liên lạc với bất cứ ai ngoài Sunnie Witherspoon. Từng bản hợp đồng đều do Sunnie gửi tới những người chủ mới, họ ký rồi gửi trả lại chúng mà không chỉnh sửa gì.
“Ông có ngạc nhiên không khi chẳng một người nào trong số họ muốn chỉnh sửa gì trong hợp đồng?”
“Không.” Patel nói. Nghe giọng ông ta có vẻ chắc chắn.
“Tại sao lại không?”
“Bởi vì họ đã mua các cơ sở kinh doanh ấy với cái giá một đô la. Cedar Grove đã bán từng cơ sở kinh doanh với cái giá tượng trưng để những người chủ mới có thể sử dụng tiền của họ vào việc sửa chữa các tòa nhà theo quy chuẩn xây dựng hiện hành.”
“Quả là một thương vụ rất hời.” Dan nói. Patel nhún vai. “Tôi cho rằng vậy.”
Dan cảm ơn Patel và ngồi xuống. Milne không buồn hỏi Patel bất cứ câu hỏi nào, và Thẩm phán Harvey cho anh ta lui. Khi Patel rời khỏi ghế nhân chứng, anh ta đi tới một hàng ghế dành cho những người đại diện cho Cedar Grove ở bên dưới.
“Ông OLeary, hãy gọi nhân chứng tiếp theo.” Thẩm phán Harvey nói.
“Nguyên đơn xin gọi luật sư Zack Metzger.”
Nếu Patel có hoảng hốt khi nghe thấy tên của Metzger thì ông ta cũng đã che giấu rất tốt sự lo lắng của mình. Metzger bước vào phòng xử án và leo lên bục nhân chứng như thế đang vội vã cung cấp lời khai cho xong để có thể tiếp tục xử lý những vấn đề giúp ông ta kiếm được tiền đóng học phí cho những đứa con. Ông ta mặc một cái áo khoác màu hạt dẻ với một cái cà vạt len trông như bị cắt cụt ở chỗ khóa thắt lưng. Ông ta đã kéo nút thắt cà vạt trễ xuống và cởi khuy cổ áo của chiếc sơ mi trắng.
Đầu tiên, Dan cũng giới thiệu qua về Metzger. Rồi anh hỏi: “Ông có bao giờ được đề nghị làm thủ tục thành lập các công ty trách nhiệm hữu hạn cho những người đang muốn mua các cơ sở kinh doanh ở Cedar Grove không?”
“Có.”
“Ông có thay mặt cho Barry Sewell làm thủ tục thành lập một công ty trách nhiệm hữu hạn để mua rạp chiếu bóng Hutchins không?”
“Có.”
Dan đánh dấu các giấy tờ thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn ấy và đưa nó vào làm bằng chứng, hiển thị nó trên các màn hình máy tính. Một lần nữa, Milne không phản đối. Dan ngờ rằng cô ta chỉ đang cố gắng nắm bắt được vấn đề.
“Ông có nói chuyện với Barry Sewell về việc thay mặt ông ta thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn ấy không?”
“Không. Giống như tôi đã nói với ông khi chúng ta gặp nhau.” Metzger nói. “Tôi nhận tài liệu giấy tờ từ một thư ký ở thành phố Cedar Grove.”
“Ông có nhớ tên của thư ký đó không?”
“Tôi vốn không nhớ, nhưng tôi đã tìm tên của người đó cho ông khi chúng ta trở lại văn phòng của tôi. Tên của cô ấy là Sunnie Witherspoon. Cô ấy làm việc ở văn phòng của luật sư đại diện cho thành phố Cedar Grove. Ít nhất thì đó là những gì cô ấy nói với tôi.”
Một lần nữa, phản ứng của Harvey thật khó nắm bắt. Ông ta ngồi ngả ra sau, đung đưa chiếc ghế của mình.
“Và ông chỉ liên lạc với Sunnie Witherspoon thôi?”
“Vâng, nhưng không nhiều. Cô ấy gửi cho tôi tên của các thành viên trong mỗi công ty trách nhiệm hữu hạn mà tôi làm thủ tục thành lập. Cô ấy nói các thành viên ấy muốn nhờ một luật sư trợ giúp trong quá trình đó.”
“Cô Witherspoon có nói làm thế nào cô ấy biết đến ông không?”
“Cô ấy không nói.”
“Ông gửi tất cả các giấy tờ thành lập đi đâu sau khi đã chuẩn bị xong?”
“Tôi gửi chúng lại cho cô ấy. Cô ấy nói cô ấy sẽ chuyển chúng đến cho các chủ cơ sở kinh doanh. Tôi có giữ các bản sao trong văn phòng của tôi.”
Dan mở một tài liệu nữa trên màn hình máy tính của mình. “Nếu tôi hỏi ông về bảy công ty trách nhiệm hữu hạn khác mà ông đã làm thủ tục thành lập, liệu những câu trả lời của ông có giống hệt như vừa rồi không? Nghĩa là, có phải ông chỉ liên lạc với một mình Sunnie Witherspoon, một thư ký của luật sư đại diện cho thành phố Cedar Grove?”
“Những câu trả lời của tôi sẽ vẫn giống hệt như vậy.”
“Ông chưa bao giờ thực sự gặp bất cứ ai trong số những người đã trở thành thành viên của các công ty trách nhiệm hữu hạn mà ông đã làm thủ tục thành lập, đúng không?”
“Đúng. Tôi chưa từng gặp họ.”
“Và ông cũng không nói chuyện với họ qua điện thoại?”
“Đúng, tôi chưa từng nói chuyện điện thoại với họ.”
Dan đề nghị Milne đồng ý chấp nhận cho anh không cần phải diễn giải về chỗ giấy tờ thành lập do chính quyền bang xét duyệt của các công ty trách nhiệm hữu hạn còn lại nữa. Sau đó, anh đặt một tấm bảng khổ to lên một giá đỡ của phòng xử án, trên đó có tên của từng công ty trách nhiệm hữu hạn, và bên dưới tên công ty là tên của từng thành viên trong mỗi tổ chức. Anh muốn những cái tên đó xuất hiện trước mặt Thẩm phán Harvey trong suốt phiên xử.Dan bước tới bên sườn của bục nhân chứng, nơi anh có thể quan sát Rav Patel. “Có phải ông cũng đã làm thủ tục thành lập cho Công ty TNHH Phát triển Cedar Grove không?”
Một lần nữa, Patel không có phản ứng gì. Milne thì trông có vẻ bối rối, lật giở các tài liệu trong một bìa kẹp hồ sơ, tìm kiếm tên công ty ấy.
Metzger xác nhận ông ta đã làm thủ tục thành lập Công ty TNHH Phát triển Cedar Grove, nhưng một lần nữa lại nói rằng ông ta chưa bao giờ gặp trực tiếp bất cứ thành viên nào trong công ty.
“Ông liên lạc với họ bằng cách nào?” Dan hỏi.
“Tất cả đều được thực hiện qua Internet.” Metzger nói.
“Cô Witherspoon có liên quan đến chuyện này không?”
“Không.”
Dan đặt một tài liệu khổ to khác lên một cái giá đỡ, tài liệu này được Dan lấy từ văn phòng chính quyền bang, liệt kê danh sách các thành viên của Công ty TNHH Phát triển Cedar Grove.
Một lần nữa, Milne không hỏi gì Metzger. Dan cứ tưởng Metzger sẽ rời đi như thể được bắn ra từ một khẩu đại bác, nhưng viên luật sư ấy lại ngồi vào một hàng ghế trong phòng xử án bên phía của Dan. Ông ta cũng có vẻ tò mò muốn biết cuộc tranh biện của Dan sẽ đi đến đâu.
Thẩm phán Harvey ngả người về đằng trước, chăm chú nhìn những tấm bảng. Chỉ một lát nữa thôi, tên của từng thành viên trong các công ty trách nhiệm hữu hạn do Kinsington Rowe - cộng sự của Tracy - tìm hiểu được sẽ có tầm quan trọng biết nhường nào.
“Hãy gọi nhân chứng tiếp theo của ông.” Thẩm phán Harvey nói.
“Thưa quý tòa, nguyên đơn xin gọi Atticus Pelham.”
Pelham bước vào phòng xử án, vẫn mặc chiếc quần đen và một cái áo khoác lông vũ màu xanh đen. Ông ta cởi áo khoác, để lộ một cái áo sơ mi trắng cộc tay. Sau khi thư ký tòa cho ông ta tuyên thệ, Dan giới thiệu rằng Pelham là tổng biên tập của tờ Cedar Grove Tone Crier.
“Ông Pelham...”
“Anh có thể gọi tôi là Atticus, Dan. Mọi người đều vậy.”
Thẩm phán Harvey ngả người về đằng trước. “Đây là một phiên xử chính thức, ông Pelham, không phải một cuộc gặp gỡ tình cờ ở một tiệm cà phê. Ông hiểu điều đó, đúng không?”
“Ồ, vâng, thưa ngài. Tôi hiểu.”
“Vậy hãy xưng hô bằng họ, hoặc ông có thể gọi luật sư là ‘luật sư’.”
Dan đi đi lại lại, dù không đi xa khỏi bục nhân chứng. “Ông Pelham, ông đã là chủ của tờ Tozne Crier trong hai mươi năm, đúng không?”
“Hơn hai mươi năm một chút, nhưng đúng là cũng tầm đó.”
“Và tờ Toune Crier duy trì hoạt động bằng cách nào? Ông trả lương cho mình và trả lương cho nhân viên bằng cách nào?”
“Chà, có vài tháng tôi không trả lương cho mình.”
“Còn những tháng khác?”
“Chúng tôi bán báo với giá một đô la năm mươi xu mỗi tờ, nhưng thực sự thì nguồn thu chính của chúng tôi đến từ quảng cáo.”
“Những ai quảng cáo trên tờ Towne Crier ?”
“Có một vài cá nhân, nhưng chủ yếu là các cơ sở kinh doanh.”
“Các cơ sở kinh doanh ở Cedar Grove quảng cáo trên tờ báo của ông sao?”
Milne đứng dậy, có lẽ chỉ để cho tòa biết là cô ta vẫn còn sống. “Phản đối. Thưa quý tòa, tôi thấy loạt câu hỏi này không liên quan gì đến phiên xử này.”
“Bác bỏ. Tôi chấp nhận loạt câu hỏi này. Ông O'Leary, làm ơn ngắn gọn thôi.”
“Vâng, thưa quý tòa. Các cơ sở kinh doanh ở Cedar Grove quảng cáo trên tờ báo của ông sao, ông Pelham?”
“Một số, nhưng không nhiều.”
“Ông có biết tại sao lại không có nhiều không?”
“Các cơ sở kinh doanh trên phố Chợ không kiếm ra tiền. Hầu hết đã đóng cửa. Chỉ có hiệu thuốc, cửa hàng kim khí Kaufman, nhà hàng Trung Quốc và tiệm The Daily Perk là vẫn hoạt động. Họ ủng hộ tờ báo, nhưng họ không có tiền để quảng cáo.”
“Gần đây, điều đó đã thay đổi phải không?”
“Vâng. Chúng tôi đã bắt đầu kiếm được tiền quảng cáo từ các cơ sở kinh doanh mới đang mở trên phố Chợ - chủ yếu là những bài thông báo rằng họ sắp khai trương, đại loại vậy.”
“Ông đã từng có một phóng viên phụ trách việc đưa tin về các cơ sở kinh doanh đang mở cửa trên phố Chợ ở Cedar Grove, đúng không?”
Pelham toan trả lời, rồi trông như đã nuốt lại lời nói sắp ra khỏi miệng. Ông ta hắng giọng. “Vâng, đã từng.”
“Phóng viên đó là ai?
“Kimberly Armstrong.”
“Và Kimberly Armstrong có xác định được bất cứ thay đổi nào trong hoàn cảnh của Cedar Grove mà có thể giải thích được lý do tại sao người ta lại mua những cơ sở kinh doanh thất bại trên phố Chợ và bắt đầu quảng cáo không?”
“Tôi biết cô ấy đang theo đuổi một giả thuyết.”
“Một giả thuyết để viết bài cho tờ báo?”
“Chà, tôi chưa đồng ý đăng nó, nhưng đúng là vậy.” Dan gật đầu.
“Và giả thuyết của cô ấy là gì?”
Milne đứng bật dậy. “Phản đối. Thưa quý tòa. Đó chỉ là nghe nói. Ông O'Leary nên gọi Kimberly Armstrong đến để cung cấp lời khai về những gì cô ấy đã làm và những gì cô ấy đã tin.”
“Ông O'Leary?” Harvey hỏi.
Dan gần như biết ơn Milne vì đã mở màn. “Thưa quý tòa, tôi xin lỗi. Đáng lẽ tôi phải giải thích rằng Kimberly Armstrong đã qua đời. Cô ấy thiệt mạng trong một vụ cháy nhà ở Cedar Grove.”
“Tiếp tục đi.”
“Ông nói Kimberly có một giả thuyết phải không, ông Pelham?” Dan hỏi lại.
“Kimberly tin rằng khu đất trên những ngọn đồi ở Cedar Grove sẽ được quy hoạch lại.”
“Nó đã từng được quy hoạch sao?”
Pelham giải thích về lịch sử của địa điểm đó. “Kimberly nói sự hiện diện của Công ty Phát triển Cedar Grove mới này cho thấy khu đất ấy sẽ được quy hoạch thành một khu nghỉ dưỡng, như Cascadia, và đây là lý do những người chủ mới sẵn sàng nhận lấy cơ hội mở các cơ sở kinh doanh mới o Cedar Grove.”
Dan nói với Pelham. “Kimberly Armstrong có thành công trong việc tiếp cận những người là thành viên của Công ty Phát triển Cedar Grove để đặt ra các câu hỏi cho họ không?”
“Theo những gì tôi biết thì không.”
“Còn về bất cứ người chủ mới nào của các cơ sở kinh doanh trên phố Chợ thì sao?” Dan nói, chỉ vào danh sách trên tấm bảng. “Cô ấy có nói với ông rằng cô ấy đã nói chuyện với những người là thành viên của các công ty trách nhiệm hữu hạn đó không?”
“Không, cô ấy không nói với tôi điều đó.”
“Tôi xin hỏi ông một câu nữa, ông Pelham, với tư cách là tổng biên tập của tờ Towne Crier trong hơn hai mươi năm, và là người có nhiều kinh nghiệm về doanh thu quảng cáo, theo ý kiến của ông, liệu giá trị của các cơ sở kinh doanh mới trên phố Chợ có tăng lên nếu có một dự án phát triển mới giống như khu nghỉ dưỡng Cascadia được triển khai trên những ngọn đồi của Cedar Grove?”
Milne đứng bật dậy. “Phản đối - câu hỏi này không liên quan. Ông Pelham cũng không phải là một chuyên gia về việc định giá các cơ sở kinh doanh, vì thế câu hỏi này nằm ngoài hiểu biết cá nhân của ông ấy.”
Đôi mắt Harvey nheo lại. “Tôi sẽ chấp nhận câu hỏi đó. Tòa sẽ lưu ý rằng ông Pelham không phải là một chuyên gia về việc định giá các cơ sở kinh doanh.”
Pelham có vẻ bối rối.
“Ông có thể trả lời câu hỏi này.” Dan nói.
“Tôi không biết về giá trị của những cơ sở kinh doanh đó, nhưng tôi có thể nói với ông rằng họ sẽ có nhiều tiền hơn để quảng cáo nếu xuất hiện một khu nghỉ dưỡng kiểu như Cascadia. Trời ạ, đó chỉ là kiến thức thông thường thôi mà. Sẽ có vài nghìn người đến dự án phát triển đó và vào trong thị trấn vào những ngày cuối tuần hoặc trong các kỳ nghỉ và những người đó sẽ tiêu tiền.”
“Theo những gì ông biết, Kimberly Armstrong đã bao giờ xác định được tiến độ của Công ty Phát triển Cedar Grove trong việc triển khai một khu nghỉ dưỡng mới chưa?”
“Theo những gì tôi biết thì chưa.”
“Kimberly qua đời khi nào?”
“Không lâu sau khi cô ấy nói với tôi về dự án phát triển mới này.”
Dan ngừng lại để tạo sức nặng cho thông tin ấy. Rồi anh nói: “Ngoài Kimberly, ông có bao giờ nói với bất cứ ai về dự án tái phát triển có khả năng được triển khai ấy không?”
“Không.” Pelham nói.
“Ông có bao giờ nói chuyện với Thị trưởng của Cedar Grove, ông Gary Witherspoon không?”
“Ồ. Có, nhưng chỉ qua loa thôi. Gary nói với tôi ông ấy chẳng biết gì về nó.”
Milne lại đứng bật dậy. “Đề nghị bác bỏ. Đó chỉ là nghe nói.”
“Chấp nhận.” Harvey nói.
Dan không quan tâm. Thông tin này đã lộ ra. Dan cảm ơn Pelham và ngồi xuống. Milne nhân cơ hội khẳng định rằng Pelham không có chuyên môn trong việc định giá các cơ sở kinh doanh. Rồi cô ta cũng ngồi xuống. Chiến thuật của cô ta có vẻ là càng ít nói càng tốt.
Dan cũng biết rằng anh vẫn chưa gây bất lợi cho việc tố tụng của cô ta, và anh sẽ phải làm vậy, nếu không họ sẽ đều bị tống cổ ra khỏi phòng xử án.