CHƯƠNG 35
Milne có vẻ háo hức giống như Rex và Sherlock mỗi lần Dan nhắc đến từ “đi dạo”. Cô ta gần như nhảy dựng lên, và rõ ràng cô ta đã chờ đợi cơ hội này để “tấn công”. Dan tự hỏi phải chăng vẻ mặt giống như con hươu trước ánh đèn pha của cô ta lúc nãy chỉ là giả vờ.
“Thưa quý tòa.” Milne nói. “Chúng ta đã ở đây cả buổi sáng và nghe những lời khai về giá trị của bất động sản, về một nhà đầu tư phát triển được cho là sẽ phát triển một dự án ở những ngọn đồi thấp dưới chân núi tại Cedar Grove, và suy đoán rằng các cơ sở kinh doanh ở Cedar Grove sẽ tăng giá trị. Không lời khai nào trong số những lời khai ấy cho thấy một thành phố đang tham gia một giao dịch kinh doanh riêng tư, hoặc phạm phải tội âm mưu. Trái lại, việc thành phố mua các cơ sở kinh doanh đang ngắc ngoải và bán lại chúng cho những người sẵn sàng thử sức với nó, thậm chí là những người có thể hưởng lợi từ một dự án tái phát triển có thể sắp được triển khai, sẽ là một điều tốt cho toàn bộ Cedar Grove, đó cũng chính là những gì mà thị trưởng và hội đồng thành phố phải làm - hành động vì lợi ích tốt nhất của toàn thể công dân của mình. Ông O'Leary đã không chứng minh được việc thành phố có các giao dịch kinh doanh riêng tư; ông ấy chỉ cho chúng ta thấy việc áp dụng nguyên tắc công vụ trong trường hợp này là hoàn toàn đúng đắn. Giờ thì ông ấy lại gọi cựu Cảnh sát trưởng của Cedar Grove lên bục nhân chứng, vì mục đích gì thì tôi không biết, nhưng tôi không thấy nhân chứng này có thể đóng góp gì thêm cho việc chứng minh rằng thành phố có tham gia vào một giao dịch riêng tư.”
Harvey nhìn Dan. Đây là lời phản đối mà Dan đã lường trước. Anh đã biết ngay từ đầu rằng việc đưa Calloway lên bục nhân chứng sẽ là cái ngưỡng then chốt đầy khó khăn mà anh cần vượt qua, và anh không thể dựa vào sự tò mò của Harvey để làm lợi thế cho mình được.
“Thưa quý tòa, chúng tôi đã chứng minh được rằng thành phố Cedar Grove đang mua và bán các bất động sản, đó không phải là một hành động truyền thống của thành phố. Chúng tôi cũng đã chứng minh được rằng một công ty trách nhiệm hữu hạn có tên là Công ty Phát triển Cedar Grove đã mua và bắt đầu quá trình phát triển một khu nghỉ dưỡng trên những ngọn đồi ở Cedar Grove, điều này có thể khiến cho các cơ sở kinh doanh, bao gồm cửa hàng của thân chủ tôi, có giá trị hơn nhiều so với số tiền mà thành phố đã chi trả cho họ. Hơn nữa, như tôi đã nói, các âm mưu không được thực hiện công khai, chúng được thực hiện trong một căn phòng với những cánh cửa đóng chặt và rèm che kín mít.”
“Vâng, nhưng để bác bỏ đơn kiến nghị về phán quyết giản lược, ông cần mở rèm che ra và để cho một ít ánh sáng lọt vào, thưa luật sư. Tôi đồng ý với bà Milne. Trong căn phòng ấy vẫn còn khá tối.”
Dan khăng khăng. “Nãy giờ chúng tôi đã chứng minh rằng Cedar Grove mua lại các cơ sở kinh doanh với cái giá bèo bọt và bán chúng cho các đơn vị có thể sẽ thu được lợi nhuận lớn nhờ việc kinh doanh hoặc bán lại các cơ sở kinh doanh ấy - nếu và khi nào khu nghỉ dưỡng trên núi được triển khai.”
“Vậy thì sao? Đó là lợi ích của những người chủ mới, một nước đi kinh doanh thông minh của họ.”
“Nhưng nếu thị trưởng và hội đồng thành phố biết về khu nghỉ dưỡng đó khi họ mua lại các cơ sở kinh doanh ấy và không nói với những người chủ ban đầu của chúng thì đó lại là một vấn đề khác.”
“Thành phố không có nghĩa vụ phải nói cho những người chủ cũ về một dự án phát triển tiềm năng có thể sẽ không bao giờ được triển khai.” Milne nói. “Những người chủ cũ có nghĩa vụ xác định giá trị của các cơ sở kinh doanh mà họ bán. Nếu họ không làm vậy thì đó là lỗi của họ. Tôi thấy lời khai này không chứng minh được rằng chúng ta không thể áp dụng nguyên tắc công vụ trong trường hợp này.”
“Tôi xin lỗi, ông O'Leary, nhưng tôi đã cho ông nhiều cơ hội rồi...” Harvey bắt đầu nói.
“Thưa quý tòa, tôi đồng ý rằng tòa đã kiên nhẫn. Nhưng như tôi đã nói, nếu một âm mưu được chứng minh dễ dàng thì sẽ không có âm mưu nào cả. Tôi xin trình bày với tòa rằng chúng tôi đang gần đi đến hồi kết, và đến lúc đó, tôi sẽ không phải giải thích những gì mà chúng tôi có thể chứng minh với tòa hay với luật sư bên bị nữa. Tôi định nhấn mạnhvấn đề với ngài như Moe trong nhóm hài kịch Ba chàng ngốc . Nó sẽ rất rõ ràng. Tôi chỉ còn hai nhân chứng nữa thôi, sau đó, chúng tôi xin để tòa quyết định về vấn đề này.”
Harvey mỉm cười. “Hồi nhỏ, tôi xem hài của nhóm Ba chàng ngốc suốt đấy, luật sư ạ.” Rõ ràng Harvey đang cân nhắc xem nên nghiêng về bên nào. Nếu ông ta không cho phép Calloway và Faz lên bục nhân chứng, vậy thì Larry Kaufman sẽ thua. Hơn nữa, Tracy và Calloway có thể không bao giờ xác định được kẻ nào đã giết Heather Johansen, Jason Mathews và Kimberly Armstrong, nếu hung thủ là cùng một người.
“Tôi sẽ cho ông thêm một cơ hội nữa, nhưng đừng khiến tôi trông như Joe DeRita đấy nhé. Tôi muốn là một trong các anh em nhà Howard hơn.”
Dan kìm nén một tiếng thở phào nhẹ nhõm. “Tôi sẽ không làm thế đâu, thưa Thẩm phán.”
Milne lắc đầu và ngồi xuống.
Calloway bước lên bục nhân chứng, hôm nay ông mặc thường phục. Dan nhanh chóng giới thiệu về ông và đi vào vấn đề chính. “Có phải ông đã điều tra về cái chết của Kimberby Armstrong không?”
“Phải. Tôi đã gọi điện đến Seattle và yêu cầu một chuyên gia về hỏa hoạn đến điều tra.”
“Ông nghĩ rằng vụ hỏa hoạn khiến Kimberly Armstrong thiệt mạng là một vụ cố ý phóng hỏa?”
“Tôi biết đó là một vụ cố ý phóng hỏa. Chúng tôi đã tìm thấy một can xăng và có thể ngửi thấy mùi xăng trong những phần bị cháy của ngôi nhà. Ngôi nhà cũng cháy bùng lên như một đống rơm, khói đen bốc lên cuồn cuộn hàng chục mét trên bầu trời, cho thấy đã có chất dẫn cháy. Tôi đã muốn xác nhận mối nghi ngờ của mình.”
Dan giới thiệu báo cáo của nhân viên điều tra hỏa hoạn. Milne phản đối với cái cớ nó không liên quan, nhưng Harvey chấp nhận nó. “Ông có tiến hành thêm bất cứ cuộc điều tra nào không?”
“Tôi đã gọi một chuyên viên pháp y từ Seattle đến để giải phẫu tử thi của Kimberly Armstrong bởi vì tôi nghi ngờ cô ấy không chết vì hỏa hoạn.”
“Chuyên viên pháp y đã xác định được điều gì?”
“Chuyên viên pháp y đã xác định rằng Kimberly Armstrong chết vì vết thương do một vật tù tác động vào sau đầu trước khi đám cháy khởi phát. Hung thủ đã phóng hỏa để che giấu bằng chứng về việc Kimberly bị sát hại.”
Sau khi ông nói xong hai câu này, có cảm giác như ai đó đã hít hết không khí trong phòng. Dan nhìn Harvey. Harvey không còn đọc hay ghi chú nữa. Ông ta đang nhìn chằm chằm Cảnh sát trưởng Calloway.
“Cảnh sát trưởng Calloway, ông có tìm thấy bất cứ tờ giấy ghi chú hoặc bìa kẹp hồ sơ nào chứa những tài liệu có liên quan đến bất cứ câu chuyện nào mà Kimberly Armstrong đang tìm hiểu vào thời điểm cô ấy bị sát hại không?” Dan hỏi.
“Không. Nhân viên điều tra hỏa hoạn nói rằng đám cháy khởi phát trong phòng làm việc tại nhà của Kimberly, phòng làm việc ấy đã được tưới đẫm xăng, và chồng cô ấy nói rằng tất cả các nghiên cứu của Kimberly, bao gồm máy tính của cô ấy, đã cháy ra tro hết.”
“Ông có cố gắng xác định xem Kimberly Armstrong đang theo đuổi đề tài nào cho những bài báo của cô ấy vào thời điểm cô ấy bị sát hại không?”
“Tôi đã nói chuyện với Atticus Pelham, tổng biên tập của cô ấy ở tờ Towne Crier, và tôi biết được rằng Kimberly đang điều tra một đơn vị đã mua ba lô đất được hiển thị trên bản đồ đằng kia. Một công ty có tên là Phát triển Cedar Grove.”
Dan chờ đợi, dù chỉ trong một giây, nhưng trong một giây ngắn ngủi đó, ta có thể nghe thấy những người đằng sau anh đang xì xầm. Rồi anh nói: “Cảnh sát trưởng Calloway, ông nói ông nghi ngờ rằng Kimberly Armstrong không chết vì hỏa hoạn trước cả khi ông nhận được báo cáo khám nghiệm tử thi và báo cáo điều tra hỏa hoạn. Tại sao ông lại nghi ngờ như thế?”
“Phản đối.” Milne nói.
“Bác bỏ.” Harvey nói trước cả khi Milne đứng thẳng người dậy từ ghế của mình. “Tiếp tục đi, Cảnh sát trưởng Calloway.”
“Bởi vì tôi biết Kimberly cũng đang điều tra vụ sát hại một cô gái trẻ vào năm 1993, Heather Johansen. Trong lúc điều tra, Kimberly đã lấy một bản sao hồ sơ vụ án từ chỗ cảnh sát chúng tôi, và cô ấy đang thu thập các tin đồn về vụ sát hại Johansen cũng như đặt ra nhiều câu hỏi cho mọi người quanh thị trấn.”
“Và ông đã nghĩ vụ sát hại Kimberly Armstrong có liên quan phần nào đến cuộc điều tra của cô ấy về cái chết của Heather Johansen?”
“Đúng vậy.”
“Tại sao?”
“Bởi vì từ hồ sơ của cảnh sát, Kimberly Armstrong đã biết được rằng Heather Johansen đang mang thai vào thời điểm cô ấy tử vong. Chúng tôi chưa bao giờ tiết lộ thông tin đó. Chúng tôi cũng không tiết lộ rằng, theo ý kiến của chuyên viên pháp y, Heather Johansen bắt đầu mang thai vào dịp lễ Giáng sinh. Ngoài ra, giống như Kimberly, Heather cũng bị sát hại bởi một cú đánh vào sau đầu bằng một vật tù. Vì thế tôi đã tiến hành điều tra với giả thuyết kẻ sát hại Heather năm xưa có thể cũng đã sát hại Kimberly Armstrong để ngăn cô ấy điều tra vụ án mạng của Heather.”
Milne đứng dậy, lần này tỏ ra phẫn nộ. “Chúng ta đang lạc đề. Ngài đã bảo luật sư lấy lời khai đúng trọng tâm, nhưng ông ấy đã đi chệch tận đâu đâu.”
“Bác bỏ.” Harvey khẽ nói, thậm chí không buồn nhìn về phía Milne. “Tiếp tục đi.”
“Cảnh sát trưởng Calloway, ai là nghi phạm chính trong cái chết của Heather Johansen và Kimberly Armstrong?”
“Nghi phạm chính trong vụ Heather Johansen là người bạn trai cũ thời trung học của Heather, Finlay Armstrong. Nghi phạm chính trong vụ sát hại Kimberly Armstrong là chồng của Kimberly, người tiếp quản chức vụ của tôi, Finlay Armstrong.”