- 4 -
Đối với người nông dân, thời vụ vô cùng quan trọng. Xuống giống trễ một ngày cũng để lại hậu quả khó lường. Sự thù tạc đối với láng giềng, bà con cũng thế! Được mời mà không dự là mích lòng ghê lắm! Thế nhưng chỉ cần đưa lý do là đang có khách thì được thông cảm ngay.
Người ta sẵn sàng hy sinh tất cả để ở nhà tiếp khách với một tấm lòng đầy hân hoan.
Cái tính hiếu khách số một ấy, chắc chỉ có ở nông thôn mà thôi!
Vợ Tư Chắc lộ vẻ bịn rịn, căn dặn:
-Đáng lẽ phải cầm anh chị ở lại ăn một bữa cơm, mà thấy gấp đi quá nên không dám ép. Mùa nước nhớ ghé lại thăm tụi tui nghe! Lúc đó bông điên điển trổ đầy đồng, cá linh, lươn, tép... nhiều lắm. Tui hái rồi đổ bánh xèo tép, nấu canh chua cá linh, trộn ghém ăn mắm kho... Phải đãi anh chị ăn ngập mặt mới phỉ cái bụng của tui!
Vợ Ba Rum cũng rũ:
-Khi nào qua mùa lúa, anh chị quởn quởn công việc, theo ghe tui xuống Sài Gòn một chuyến. Tụi tui sẽ dắt anh chị đi coi cãi lương với vô sở thú cho biết, vui lắm!
Ba Rum thì nói nhỏ với Tư Chắc:
-Cái hủ rượu thuốc của anh tui thấy hiệu nghiệm lắm đó! Chuyện kia chưa biết chớ cái lưng cúa tui bớt nhức dữ lắm!
Tư Chắc nghe nói vậy thì đâm đầu chạy lên nhà bưng hủ rượu xuống tặng liền. Ba Rum từ chối:
-Anh giữ giùm để mai mốt tui còn ham ghé! Đem cái nầy theo tui cầm lòng chẳng đặng, ngày nào cũng uống rồi chèo ghe quay mòng mòng hoài. Bà tức mình cấm tiệt là khổ!
Rồi không để Tư Chắc tốn công năn nỉ, y và vợ vọt lẹ.
Ba Rum kéo đòn mỏng gác lên mui ghe, gắn mái chèo vô cột trước rồi mới nhổ cây sào và chống thật mạnh. Chiếc ghe dang ra thật xa để bắt cho được dòng nước chảy mạnh.
Trên bờ, vợ Tư Chắc đang đi bỗng chợt nhớ ra, kêu lên thất thanh:
-Còn thằng nhỏ nữa ông ơi!
Tư Chắc ba giò bốn cẳng chạy bay xuống bờ sông, khum tay làm loa gọi ầm ỉ:
-Còn thằng Hên nữa anh Ba ơi!
Ba Rum nghe một chữ "Hên" là giật mình chới với, bà vợ cũng kêu lên thảng thốt:
-Trời đất ơi! Quên mất tiêu thằng nhỏ rồi!
Chiếc ghe lại cặp bến lần nữa. Tư Chắc cười hềnh hệch. Ba Rum chữa thẹn:
-Tui tính cho ở rễ trước mà anh hổng chịu thì thôi!
Y định nhảy lên bờ thì Tư Chắc can:
-Anh lên làm chi cho mắc công để tui đi kêu nó giùm cho.
Rồi vừa đi vừa gọi to:
- Chọn ơi! Hên ơi!
Kêu hai ba lần mà chẳng nghe chúng đáp, ông đâm lo. Nhìn quanh quất chẳng thấy hai đứa nó đâu, hai vợ chồng cùng con Trơn, ba người chạy ba hướng để tìm.
Ba Rum cũng căng cả hai lỗ tai, không nghe tiếng đứa nào trả lời thì phát hoảng. Ông không kịp bắc cây đòn mỏng để đi mà phóng cái vù lên bờ liền.
Thằng Chọn đang rình con chím se sẻ trên cây me nước. Con chim nầy y như người đàn ông hai vợ, cứ liên tục chuyền từ cành nầy sang cành khác, hồi lâu thấm mệt mới chịu dừng lại thở.
Hai đứa nó không ở xa nhà lắm! Tiếng gọi chui vào tai chúng một cách dễ dàng. Chúng quá để tâm vào con chim nhỏ ấy nên không nghe, hay nghe mà không dám đáp vì sợ nó giật mình bay mất?
Khi con chim sẻ không còn cảnh giác, đứng im ru thì cái thân hình bất động của thằng Chọn mới nhúc nhích. Nó kéo căng cái ná thun hết mức, sắp sửa buông tay thì giật mình cái độp. Hai ngón tay của Tư Chắc kẹp cứng cái lỗ tai của nó, xách lên và quát:
-Mầy đứng đây sao tao kêu mà không dạ hả?
Tiếng quát đó đánh động con chim và làm lệch đường bay của viên đạn. Con chim thoát chết. Nó sợ đến nổi vừa bay vù đi, vừa xón một cục phân nhỏ xíu xuống tàu lá chuối.
Sáng hôm ấy, như thường lệ, Sung bật dậy khi gà gáy chập hai. Nhìn bên cạnh không thấy Còi, Sung liền chui ra khỏi mùng để kiếm. Gọi hai ba tiếng không thấy nó trả lời, Sung đi thẳng ra cái hầm cá vồ, anh nghĩ:
-Chắc thằng nầy đi trút bầu tâm sự.
Anh xé mấy miếng lá chuối khô cầm tay, vừa đi vừa xoa chúng vào nhau cho sạch. Đến nơi chẳng thấy ai, tưởng nó hụp đầu núp sau tấm vách lá của cái cầu tiêu để giỡn với mình. Anh bèn rón rén bước thật nhẹ lên cây cầu, sao cho hai khúc tre không rung rinh, định hù một phát cho nó rớt xuống hầm chơi. Bên trong trống trơn. Anh điếng hồn, trực giác cho biết đã xảy ra biến cố, cái nhu cầu cấp thiết bỗng biến mất tiêu, anh ném nắm lá chuối xuống nước rồi chạy đi tìm nó tới tối tăm mặt mũi.
Mọi ngóc ngách quanh nhà đều không có, anh chạy xuống bến, chiếc bè và cây sào đều biến mất!
Sung thở phào một cách nhẹ nhỏm, nói một mình:
- Vậy là nó đã chống bè về thăm nhà rồi! Mình khỏi mắc công nhờ người đưa giúp.
Không đủ thời gian để làm chiếc bè và cây sào mới, Sung đeo cái rộng lên cổ, bơi qua con mương để thăm mấy cái lộp. Hai con tôm càng xanh, một con cá trê và bốn con cua là thành quả của anh hôm đó. Sung cho tôm và cá vào rộng còn cua thì đập chết, thả lại vào lộp để làm mồi nhử mấy con tôm.
Anh vừa bơi trở về vừa nghĩ đến bữa nhậu chiều nay vơi Hai Móm mà lòng lâng lâng vui sướng, đâu có biết rằng trong lúc đó, thằng Còi đang nằm chết giấc trên cái bè chuối trôi vù vù.
Và cũng trong lúc đó, cả cái xóm Cầu ván đang chìm trong bầu không khí bi thương, tang tóc. Mọi công tác tìm kiếm đều không có kết quả, người ta đành dừng lại, chờ mấy ngày sau cái xác nổi lên rồi vớt.
Má thằng Còi khóc mãi không thôi. Bà đau lòng khi nhớ ra, nó chết khi bụng trống rổng bởi chưa kịp ăn bữa cơm chiều. Nghĩ đến cảnh con mình biến thành ma đói, đi lang thang, bị các cô hồn to khỏe, giàu kinh nghiệm khác hành hạ khiến bà đau như cắt ruột.
Cảnh xôn xao vào mỗi sáng khi mọi người gọi nhau ra đồng và tiếng thúc giục mấy con bò cũng trở nên khẽ khàng hết sức!
Má con Ý cũng không đứng trước cửa réo inh ỏi cho nó dậy đi học. Bà chịu khó tháo dây cho cái mùng úp lên mặt để nó ngộp thở mà chui ra lẹ lẹ.
Cái không khí ảm đạm đó len lỏi đến tận lớp học. Cái bàn ba, nơi thằng còi ngồi giữa bị bỏ trống hoàn toàn. Thằng Cà Reo và Của Em đã ôm tập xuống bàn chót mà ngồi với nhau.
Giờ ra chơi, tụi nó không còn hăng say ăn thua đủ với nhau nữa. Những trò chơi bỗng không còn đủ sức để hấp dẫn chúng. Bên cạnh mỗi đứa, dường như có một bóng ma đang lảng vảng. Đứa nào cũng tự vấn lương tâm, xem ngày xưa mình đắc tội với nạn nhân đến cỡ nào và sắp phải chịu hình phạt gì?
Người trong xóm bỗng nhớ ra vô số sự kiện để chứng minh rằng cái chết ấy đã được báo trước, bắt đầu từ bà nội thằng Còi. Bà cứ luôn miệng tự dằn vật:
-Tội nghiệp thằng cháu của tui. Hôm trước nó xin tiền ăn cà lem, tui không cho, nó mới nói "nội cho con lần nầy thôi, từ rày con không xin nữa đâu". Tui mà biết có ngày hôm nay là dốc túi để nó ăn hàng cho đã!
Dì Út Em, chủ cây xoài nghệ mà tụi nhỏ trong xóm ưa thích nhứt, nói bằng cái giọng ăn năn:
-Hôm bữa nó cầm cục đá chọi trái xoài rồi làm bể một tấm ngói. Tức mình tui xách chổi rượt, nó nói "Dì Út đừng có rượt nữa, từ giờ tới chết con không dám chọi cây xoài của dì nữa đâu!"
Xét ra đây là một lời hứa rất bình thường của mấy đứa con nít, nhưng vì thằng Còi lỡ chết nên người ta bèn coi đó như một lời trăng trối vậy!
Bến cây sung, nơi cả đám con nít trong xóm thường tập trung lại để biểu diễn trò nhảy cầu khi tắm, ngày trước nước luôn đục vì hết tốp tới tốp khác luân phiên khuấy đảo, giờ im ru suốt ngày. Tụi nhỏ không còn ham tắm sông. Nếu mình mẩy hôi rình bị má ép đi tắm thì rủ thêm vài đứa, rồi kéo nhau đi thật xa mà tắm. Chúng cũng chẳng dám tắm lâu, chỉ hụp cho ướt cái đầu rồi ba chưn bốn cẳng chạy lên nhà. Mấy bà, mấy chị cũng bưng thau đồ, rỗ chén dời qua các bến khác để giặt, rửa.
Như vậy đã thôi đâu! Ba hôm sau, thằng Cà Reo bỗng sốt li bì rồi nói mê, nói sảng. Nó cứ gọi tên thằng Còi và xin tha mạng. Có lẽ bởi lúc trước hay ăn gian, ăn hiếp thằng Còi trong các trò chơi nên giờ bị ám ảnh.
Mấy đứa nào trong xóm được chứng kiến việc thách đố, biết nó là tác nhân chính tạo ra cái chết oan ức của thằng Còi, bèn kể cho ba má chúng nghe. Vì vậy nên bà con trong xóm mới cho rằng chứng bịnh của thằng Cà Reo là do thằng Còi phạt.
Ba má thằng Cà Reo không đưa nó đi nhà thương, cũng không rước ông thầy Tư Công tới nhà để hốt thuốc bắc cho nó uống. Họ mời ông Năm Bốn, thầy pháp trong làng, đến cúng kiến và ém xi bùa để giúp thằng Cà Reo hết bịnh. Ông Năm lên xác, nói bằng cái giọng giống y thằng Còi, đòi phải cúng một cái đầu heo mới chịu trả ba hồn, bảy vía lại cho thằng Cà Reo.
Người ta làm một chiếc tàu tống rất đẹp bằng bẹ chuối. Trên tàu treo cả chục lá cờ hình tam giác đủ màu. Có hai hình nhơn bó bằng rơm cầm chèo, một ở trước mũi và một ở sau lái.
Trong tàu có: Một cái đầu heo luộc, một dĩa gạo và muối, ba chén cháo, một dĩa trái cây, một bịt bánh men, ba cây nhang cùng hai cây đèn cầy cháy đỏ.
Trước khi tống tàu đi xa, có người nhớ ra là thằng Còi chơi tán hưng rất hay nên vội vàng bỏ theo tàu hai khúc tre, một dài một ngắn.
Thằng Còi đã giữ lời hứa, cúng xong là thằng Ca Reo hạ sốt, hết nói mê và mấy hôm sau thì hoàn toàn bình phục.
Một tuần lễ sau, cô Út Đẹp bỗng dời cái nhà lá nhỏ xíu của mình ra tuốt sau hè. Người ta rỉ tai nhau rằng ngày nào cổ cũng nghe tiếng thằng Còi rơi tỏm xuống sông, có khi nghe nó khóc. Một đôi lần nó còn trèo lên nóc nhà vạch mấy tấm lá ra nhìn xuống.
Có người còn thấy thằng Còi đu từ cây dừa qua cây sung. Báo hại mấy trái dừa trôi lều bều không ai dám rớt. Bọn con gái hết dám trèo cây sung đó để hái mấy trái chín đỏ vò nát làm sưng sa, hoặc chấm muối ớt ăn với nhau.
Nghe nói cái tàu tống trôi tới xóm mương lấp thì bị một thằng nhỏ tinh nghịch cầm cục đá chọi vào. Thế là tối đó nó bị bịnh giống hệt thằng Cà Reo. Phải mời ông Năm Bốn cúng mới hết bịnh.
Thằng Còi nổi tiếng linh thiêng từ đó!
Ở nông thôn việc người cõi âm tham dự vào mọi sinh hoạt của cõi dương là chuyện hết sức bình thường.
Xét về mặt y tế thì điều nầy đem lại nhiều hậu quả xấu, nhưng nó lại giúp ích ở một vài mặt khác, như trật tự trong xã hội chẳng hạn.
Người ta cho rằng người cõi âm biết tuốt mọi việc và rất ghét những kẻ hung hăng bạo ngược. Chỉ trừ một số ác thần, chuyên xúi giục làm điều bậy bạ.
Những nông dân ở xóm Cầu Ván đa số đều hiền lành chất phác. Sự tin tưởng vào tính toàn tri của các đấng thiêng liêng giúp họ có được một lương tâm trong trẻo, sống rất đàng hoàng và cư xử hết sức tử tế với mọi người.
Nếu có bị ức hiếp hay hiểu lầm, họ tin rằng ông trời sẽ thấu hiểu, từ từ lấy lại công bằng cho mình nên cũng chẳng bức rức nhiều.
Đa số họ đều là người ít chữ nên hiến pháp- cái nền tảng giúp xã hội ổn định- chẳng thể thẩm thấu vào tâm trí. Khắp làng chẳng có lấy một vị đại diện luật pháp - Cái người được gọi là cảnh sát ấy, chỉ có mặt ở những tỉnh lỵ, quận lỵ. Họ mặc bộ đồng phục trắng bóc, đội mũ lưỡi trai, chân mang giày da được đánh xi đen bóng, tay cầm dùi cui, nhìn mọi người bằng đôi mắt dò xét, làm như biết đủ thứ nhưng thật ra đâu biết chi nhiều- Thế nhưng đời sống ở đây lại hết sức an ninh, bởi hòa hiếu là bản chất tự nhiên của hết thảy bà con.
Họ không thích tranh cãi để áp đặt người khác theo ý mình. Cái câu "một điều nhịn chín điều lành" được dùng làm phương châm trong cách sống của họ. Ngoài ra câu " có đức mặc sức mà ăn" khiến họ sốt sắng làm điều tốt và giúp đỡ những người xấu số.
Nhờ có đức tin và kiêng sợ sự trừng phạt của các đấng ấy, các mầm mống tội lỗi bị tiêu diệt ngay trong trứng nước. Trong xóm, cho tới lúc đó, chưa có một người nào bị giam trong các nhà tù. Cuộc sống thanh đạm, ít dục vọng giúp họ có một tinh thần lành mạnh, tâm lý ổn định.
Những cuộc gây gổ hiếm khi xảy ra, nếu nghi ngờ nhau họ chỉ cần đứng giữa trời, chỉ thẳng ngón tay (hành động nầy có thể xem như mời gọi một đấng tối cao đang ngự trên trời, ngó xuống mà chứng giám), thề độc một câu, là mọi sự được giải quyết. Quan hệ giữa họ sẽ trở nên bình thường như cũ.
Nếu phải nhờ đến sự phân xử của con người, họ cũng không cần phải lôi nhau ra tòa, rầy rà cho mất công, mất sức. Họ sẽ nhờ một vị hương lão trong xóm, một người có uy tín và được mọi người kính nể quyết định. Như cái lần anh Hía chun vô mùng của chị Thơm:
Chẳng là lần đó nhà cậu Sáu Lý gặt lúa. Miếng ruộng của cậu xa mút tí tè nên mấy người thợ gặt phải ở lại, chờ gặt xong mới về. Đêm ấy trời nóng quá cỡ, chị Thơm bèn rủ chị Mị đem chiếu trải lên đống lúa rồi giăng mùng ngủ cho mát. Chưa tới nửa đêm, chị Mị thấy khó ngủ quá nên bỏ vô chòi ngủ chung với chị Cà.
Anh Hía nghĩ là chị Thơm có tình ý với mình nên lén tốc mùng chui vô. Chị Thơm ngủ ngon nên chẳng biết ất giáp gì hết. Tới chừng có người ôm nhột quá chị mới giựt mình, tưởng chị Mị nên chị chỉ xô ra. Nhè đâu trúng cái đầu tóc ngắn ngủn, mấy chân tóc đâm tay nên chị biết ngay là một người đàn ông bèn la làng chói lói.
Sáng hôm sau ba chị Thơm đến nhà anh Hía mét ba má ảnh. Họ dắt nhau đến nhà ông Út nhờ giải quyết giùm. Ông Út xử bằng cách phạt gia đình ảnh phải đền cho chỉ một đôi bông tiền điếu.
Kể từ hôm đó anh Hía cạo cái đầu trọc lóc và cố tránh mặt mọi người. Anh ra đồng rất sớm và về nhà rất trễ. Cái giá anh trả không nhỏ, chẳng những là nổi hổ thẹn mà về sau còn không cưới được người cùng xóm, phải lấy một cô gái lỡ thì ở tuốt miệt dưới. Cho dù cái tội ấy được má anh biện hộ rằng anh bị con(thằng) ma cây gáo nhập hồn.
Bà con trong xóm hể gặp tai ương, cũng đều được giải thích rằng do trời sắp đặt. Cho nên mọi oán hận đưa đến thâm thù, đáp trả đều không thể xảy ra, bởi ai hơi đâu mà giận ông trời cho mệt! Do vậy mà những vết thương cho dù chí mạng cũng rất mau lành.
Phải nói là họ hơi nịnh nọt, lấy lòng các vị khuất mặt ấy. Có lần con heo nái của má thằng Mum bỏ ăn, cả nhà lo sốt vó. Má nó vừa nấu một mâm cơm cúng ông chuồng, bà chuồng, vừa nhờ cậu Tư Khá chích giùm mấy mũi thuốc. Khi con heo hết bịnh, má nó lại nấu một mâm cơm cúng tạ ơn ông bà, phủi công cậu Tư một cái rột.
Và khi con bò nhà dượng Tám Mới bị đi cà nhắc thì ổng nói là tại nó giẫm lên chòm mã. Cho dù vẫn hái lá thuốc cứu đem sao rồi đắp cho nó. Ổng cũng vẫn cho rằng sở dĩ nó đi đứng bình thường trở lại là được những người nằm bên dưới xí xóa, bỏ qua giùm.
Mỗi lần trời mưa những đứa bé tính tinh nghịch, hay bị đòn rất lo lắng. Chúng thường bới một chén cơm rồi ngồi ăn từng hột, sao bữa ăn kéo dài cho hết cơn mưa, để né cái búa của ông thiên lôi. Chỉ tại mỗi lần sấm nổ một cái rầm là người lớn lại nói: "Chắc có đứa nào bất hiếu nên bị thiên lôi đánh". Cái chữ bất hiếu nầy theo như chúng biết là tất cả những cái tội, cái lỗi làm cha mẹ chúng tức tối, khiến chúng chúng bị ăn đòn, như ăn vụng, làm đổ cơm, nói dối, mê chơi, trốn học...v...v...
Thằng Còi vốn là một đứa bé rất gầy gò, nhút nhát. Nó thường bị lép vế trước biết bao nhiêu đứa khác. Cái chết bi thương đó giúp nó nổi tiếng như cồn. Cái vầng hào quang ấy ngoài sự đóng góp của cô Út Đẹp, thằng Cà Reo, ông Năm Bốn... Còn có sự trợ lực của cây dừa như: Cho trái rụng vào lúc nửa đêm, thả tàu dừa rơi làm tróc mái nhà cô Út Đẹp...
Sau cuộc trò chuyện với gia đình Tư Chắc. Ước mơ rời khỏi cuộc sống lênh đênh, về với đồng ruộng trở nên thôi thúc hơn bao giò hết trong lòng vợ chồng Ba Rum. Trong đầu họ cứ quanh đi quẩn lại với những suy tính, đắn đo, khiến cả hai chẳng thể tập trung vào công việc.
Ông cầm cây chèo trên tay mà cảm thấy nó nặng hơn ngày thường gấp đôi, vung một cách uể oải. Cũng may nước xuôi nên chiếc ghe vẫn lướt bon bon.
Bà cảm thấy cái bếp túm húm ngày thường sao mà quá bất tiện. Công việc nấu ăn do vậy không còn thấy hào hứng mà chỉ ráng làm cho xong.
Bưng cái mâm đặt lên chòi, bà gọi:
-Hên! ra mời ba vô ăn cơm.
Bữa cơm khá thịnh soạn với dĩa cà tím nướng chan mỡ hành. Tô canh mướp nấu với tôm khô. Con cá trê vừa dính câu, được chiên giòn chan nước mắm gừng bay mùi thơm phức. Thằng Còi đã bắt mùi từ nãy giờ nên ngồi đợi sẵn. Nó hăng hái bới cơm ra ba cái chén.
Bà lập lại lần nữa:
-Con ra mời ba vô ăn liền cho nóng
Nó bị mấy món ăn hớp hồn, ngồi ôm cái mâm mà gọi lớn:
-Ba ơi! vô ăn cơm.
Chỉ nghe cái giọng thôi cũng đủ biết nó đang nôn ăn dữ lắm!
Ông lật đật gác cây chèo lên, vói tay xuống sông khoác nước rữa mặt, kéo cái chàng đội trên đầu xuống lau, rồi mới leo lên mui bước lại mâm cơm.
Thằng Còi ráng chờ ba, má nuôi cầm đũa trước rồi liền xắn cái đuôi cá, gắp cho vào miệng mà nhai rau ráu. Cái cách nó ăn khiến bà nghe mát bụng làm sao! Thấy nó quá ưu ái món chiên, hai vợ chồng bèn nhường cái quyền săn sóc con cá trê cho nó.
Ông gắp một đũa cà lên ăn trước rồi nói:
-Cà mới hái ngọt quá!
Húp thêm một muỗng canh rồi khen tiếp:
-Ngon!
Bà cười:
-Mình mà tự tay trồng thì ăn còn ngon hơn nữa?
Rồi nói thêm bằng giọng buồn buồn:
-Phải chi mình có được cái cơ ngơi như vậy?
Câu nói đó đã gieo vào đầu thằng Còi một niềm nhớ tiếc. Nó nhớ tới cái mảnh vườn ở nhà với dây đậu rồng trổ hoa tim tím, trái cong cong núp sau lưng những trái bầu, trái mướp dài thòn.
Đêm đó nó cũng trằn trọc không sao ngủ được. Tuy mới quen thằng Chọn có mấy tiếng đồng hồ nhưng cứ nghe lòng ngập tràn một niềm quyến luyến, không thể tả xiết.
Ngôi nhà, mảnh vườn đó sao mà quen thuộc quá! Khiến vừa đặt chân lên là nó nghe thương mến liền. Nó có cảm giác như cái xóm Cầu Ván đang gần xịt một bên. Nếu được ở lâu hơn thì không chừng cha, má, những người thân và bạn bè của nó sẽ lần lượt xuất hiện từng người.
Chao ơi! Nếu được như vậy thì hay biết mấy! Nó sẽ nói với má mình rằng nó nhớ bà cho đến nổi phải ôm cái khăn của má nuôi mà ngủ. Khoe với cha rằng nó đã biết chèo ghe, biết chống bè, đang học võ và đọc truyện ro ro. Mấy thằng bạn chắc chắn sẽ thèm đến chảy nước miếng khi nghe kể về những món bánh, kẹo mà nó được hưởng. Chúng cũng sẽ phục sát đất khi xem nó đi mấy đường quyền.
Đang hân hoan trước viễn cảnh đó! Bỗng hình ảnh con Mén người mềm quặt ngã xuống đất, gương mặt giận dữ của con Ý cùng bốn chữ "ở tù rục xương" làm nó bàng hoàng. Cái giấc mơ kia tắt lịm ngay như cục than đỏ nhúng vào thau nước.
Hình như ba má nuôi của nó cũng đang thao thức. Nó nghe bà tằng hắng một cái rồi hỏi:
-Ông còn thức hông ông?
Ông trả lời:
-Còn, chi vậy bà?
Bà đáp một cách e dè:
-Tui tính như vầy, đâu ông nghe coi có được hông!
Ông hỏi:
-Tính cái gì đâu nói thử nghe chơi?
Bà nói:
-Hồi sáng tui có nói chuyện với vợ Tư Chắc. Đất ở đó rẻ lắm ông à! Bằng vào số tiền hai vợ chồng mình để dành được chắc sắm hơn năm công. Nếu trời phật phù hộ, bán cái ghe được giá thì cũng đủ mua thêm một cặp bò với cất cái nhà nhỏ nhỏ.
Ông cười:
-Hổng ngờ bà còn tính lẹ hơn tui.
Bà chắc lưỡi:
-Hổng lẹ sao được? Mình phải gấp gấp để tựu trường tới là thằng Hên kịp đi học.
Ông thở dài:
-Tui cũng nghĩ y như bà vậy. Có điều mình đang làm ăn được mà bỏ ngang thì uổng lắm! Cái chuyện làm ruộng cũng năm ăn, năm thua, lỡ thất mùa là sất bất, sang bang. Còn cái chuyện nầy nữa...
Nói tới đó ông ngưng ngang. Bà hỏi:
-Có chuyện gì vậy ông?
Ông kề tai bà nói nhỏ:
-Bà coi thằng Hên ngủ chưa?
Nó nghe ông ba nuôi hỏi vậy thì liền hót bụng, nín thở, không dám nhúc nhích, như thể vừa bị ai điểm trúng huyệt.
Bà nhích gần sát vào nó, nghe ngóng giây lát rồi nói:
-Nó nằm im ru hà, chắc ngủ rồi.
Ông nói với vẻ thận trọng:
-Cái chuyện thằng Hên bị đóng bè thả trôi làm tui bán tín, bán nghi quá bà. Đâu có cha mẹ nào mà độc ác dữ vậy? Tui coi bộ, đây là chuyện ơn oán, thù hằn gì đó. Thằng nhỏ nầy hổng chừng bị bắt cóc rồi cố ý thả trôi sông cho chết chìm để phi tang. Rủi khi cha mẹ hay người quen của nó tìm gặp, coi chừng mình bị nghi là kẻ chủ mưu, rồi mang gông, đeo xiềng đó bà ơi!
Bà chới với:
-Sao ông nói nghe y như tuồng hát vậy?
Ông chắt lưỡi:
-Thì cũng có tuồng người ta làm từ chuyện thật mà bà.
Bà lo lắng hỏi:
-Vậy thì ông tính làm sao?
-Tui định để ý hỏi thăm mấy chủ ghe ở miệt đó coi họ có biết tin gì hông? Rồi ghé nhà việc trình cho họ biết là mình có vớt được một đứa nhỏ bị đóng bè thả trôi. Sau nầy nếu xảy ra chuyện nầy, chuyện nọ, họ cũng biết là mình vô can.
Bà sụt sịt:
-Nghe ông nói sao tui thương nó quá! Tội nghiệp! Còn nhỏ xíu mà phải gánh chịu thù oán của người lớn. Có khi nào nó là con của bà vợ bé, bị vợ lớn bắt lén hông ông?
Ông rầy:
-Đó là mình tỷ dụ vậy thôi! Biết có đúng hông mà bà khóc.
Bà chưa chịu từ bỏ giả thuyết của mình, giọng còn ngậm ngùi hơn:
-Mình mà trưng nó ra, chưa chắc nó được yên thân đâu. Đây rồi họ cũng tìm kế bắt lại, lần nầy hổng chừng giết cho nó chết rồi đem vùi mất xác. Thôi ông ơi! Mình làm ơn thì phải làm cho trót, gọt thì gọt cho trơn. Tù tội gì để một mình tui chịu, đã coi nó như con rồi thì phải ráng che chở tới cùng.
Những câu nói của ba má nuôi đều chui vào tai thằng Còi không sót một chữ. Nó nghe thương họ quá chừng! Nếu không nhớ là đang giả bộ ngủ, chắc nó đã quay sang ôm bà một cái thật chật để bày tỏ tấm lòng của mình.
Đêm đó nó trằn trọc miết. Nỗi nhớ nhà và lo sợ bị phát hiện cùng liên tục dày vò khiến nó chậm đi vào giấc ngủ. Đã vậy còn không dám trở mình mới khổ!
Hằng ngày má nuôi nó thường dậy sớm nhứt. Bà nấu cháo, nấu xôi hoặc chiên cơm cho cả nhà ăn lót lòng. Sáng hôm ấy bà dậy muộn. Nó bèn lục nồi, bới tô cơm nguội ăn với tán đường móng trâu, vẫn thấy ngon quá xá!
Ăn xong không chờ được nhắc nhở như mọi bữa mà lấy ngay cuốn tập ra, lật úp lại để đọc bảng cữu chương in trên cái bìa sau.
Hôm nay nó quyết học thuộc hết cái bảng cữu chương nầy cho ba, má nuôi vui bụng. Vừa đọc nó vừa liếc nhìn, tìm những biểu hiện tích cực và chờ nghe lời khen tặng.
Nó đã không thất vọng. Bà nhìn nó bằng gương mặt rạng rỡ với nét hài lòng ngập tràn trong mắt, còn vói tay xoa đầu nó mấy cái.
Ông đang bóc một nhúm thuốc trong cái gói vừa lấy từ túi ra, cho vào tờ giấy quyến vấn. Gương mặt hơi cúi nghiêng như cố tập trung vào hai bàn tay để se cho tròn điếu thuốc. Hai gò má đang bình thường bỗng nhô lên nên nó biết rằng ông đang cười.
Nó bèn đọc to hơn nữa, làm một mạch từ bài hai đến bài chín. Đọc đi đọc lại hơn một chục bận, rồi nhắm mắt lập lại. Mỗi lần bị vấp lại đọc lại từ đầu. Lát sau thấy đã thuộc làu làu, bèn xếp tập lại, thò đầu xuống coi bà làm bếp.
Thấy bà không kéo cái rộng lên, nó nhắc:
-Sáng nay ba thăm câu, thăm lưới dính cá nhiều lắm đó má!
Bà đáp:
-Hồi tối má quên nói với ổng, bữa nay là ngày vía, cả nhà phải ăn chay đừng có bắt cá.
Chao ơi là buồn! Nó đang hy vọng bà làm mấy món thiệt ngon để thưởng công nó học thuộc mấy bài cữu chương. Nào ngờ chỉ được ăn rau, thứ mà nó ghét nhứt.
Bà đi guốc trong bụng nó, nên nói:
-Để một chút má nướng cho con một cặp lạp xưởng nghe?
Nó đáp liền bằng giọng khấp khởi:
-Dạ!
Rồi cầm bảng cữu chương lên đọc ro ro.
Bà lấy cái nồi cơm ra, vét hết cơm nguội ra chén. Cơm bám trên vá được bà kê miệng cạp sạch. Không rửa nồi mà đong hai lon sữa bò gạo vào luôn. Nó bèn hỏi:
-Sao má hổng rửa cái nồi cơm vậy má?
Bà cười:
-Hổng phải má làm biếng đâu! Cái nồi nhỏ xíu rửa cái một, đâu có tốn công, tốn sức gì nhiều. Chỉ tại má sợ đổ bỏ mấy hột cơm còn dính mang tội.
Thấy bà cặm cụi lượm thóc, nó nói:
-Má để con lượm cho!
Bà đặt nồi đang ngồi trên cái rế cũ lên cái rế tre mới tinh rồi đưa cho nó, còn dặn vói theo:
-Coi chừng lọ nghẹ dính tay nghe con!
Rồi đưa cho nó cái lon chao rổng, có chừng một nắm lúa bên trong, nói:
-Bỏ thóc vô đây nè con!
Nó hỏi:
-Má để dành chi vậy? Nhà mình đâu có nuôi gà?
Bà cười:
-Bỏ tội lắm con à! Để khi nào ở không, má lấy dao gọt cái vỏ nó ra.
Bà mở cái nấp hầm ở khoang cuối, lấy một trái bầu khá to ra gọt vỏ rồi rửa sạch. Thấy bà cắt bầu thành từng cục nhỏ chớ không bầm và bỏ ruột như nhà nó thường làm, nó bèn hỏi:
-Sao má hổng bầm thành từng sợi hả má?
Bà trả lời:
-Má luộc chấm chao chớ đâu có nấu canh mà xắt sợi.
Suy nghĩ một lát rồi bà hỏi:
-Con có thấy ai bầm bầu chưa?
Nó đáp
-Con thấy rồi!
Bà làm ra vẻ tự nhiên, hỏi tiếp:
-Ai vậy?
Nó trả lời một cách miễn cưỡng:
-Má con!
Bà hỏi thêm:
-Má con ở đâu?
Nó đáp lí nhí:
-Ở nhà.
Bà cố lần cho ra manh mối nên cứ tiếp tục:
-Nhà con có mấy người?
Giọng nó yếu hẳn đi:
-Năm người?
-Ai với ai?
-Cha con, má con, con với con Đèo con Đẹt.
-Con tên gì?
Nó suy nghĩ một chút rồi mới trả lời:
-Con tên thằng Thiệt.
Bà gặng:
-Con có hay bị đòn hông?
-Có.
-Nhiều hông?
-Nhiều.
-Nhà con ở đâu?
Nó lắc đầu, đáp một cách do dự:
-Con hổng biết!
Thấy nó có vẻ không thích trả lời nên bà thôi, không hỏi thêm một câu nào nữa.
Cách đó một hôm, sau khi suy tính kỹ càng. Tối lại chờ thằng Còi nằm im ru bà mới rù rì với ông. Lần nầy thì nó ngủ thiệt nên không ghe được một lời nào.
Bà kể cho ông nghe từng câu hỏi, đáp, giữa bà và nó. Vẫn tin vào sự ứơc đoán của mình, nên bà kết luận bằng cái giọng chắc lọi như đinh đóng cột:
-Tui dám cá với ông, nó không phải là con ruột của họ. Hổng chừng là con rơi, con rụng của ông chồng, bà vợ phải bấm bụng mà nuôi chớ hổng có thương yêu chút xíu nào hết ráo.
Ông hỏi liền:
- Sao bà biết?
Bà đáp không do dự:
- Tui nghe nó nói là bị đòn nhiều lắm! Chắc bả tức ông chồng nên ghét thằng nhỏ. Nó bị bả hành hạ quá cỡ, chịu hết xiết nên phải bỏ trốn đó ông.
Ông chắt lưỡi:
-Hèn chi nó ốm nhom, ốm nhách, đèo teo, đèo ngắt. Tội nghiệp quá, bỏ nhà đi mà trên mình chỉ có mỗi một bộ đồ cũ xì dính da. Hai bàn chưn thì nức nẻ hết trơn.
Rồi ông can:
-Biết tới đây được rồi, đừng có hỏi thêm mà nó tủi. Có khi còn khiến nó sợ rồi bỏ trốn lần nữa.
Bà cãi lại:
-Bộ nó đui hay sao mà hổng thấy tui với ông cưng nó quá trời, quá đất? Nó ở với tụi mình đâu có bao lâu mà đã có da có thịt, không còn ốm nhách, ốm nhom, lòi mấy cái ba sườn. Mặt mũi cũng phổng phiu, sáng sủa. Tay chưn sạch sẽ, tóc tai gọn gàng. In là cũng có cao thêm một chút.
Ông nói với giọng tự hào:
-Nhờ tập võ mỗi ngày đó bà. Mấy cái bài quyền đó nếu nó siêng năng, chịu khó tập một ngày mấy bận là giãn gân, giãn cốt, cao lớn cấp kỳ.
Bà nói như để nhắc khéo cho ông nhớ, là trong chuyện nầy công của mình không phải nhỏ:
-Cái thằng nầy cũng ngộ. Cái bụng lép xẹp vậy mà ăn không thua gì ông. Một mình nó ăn ba bốn chén cơm ém đầy vun. Bữa nào có món canh chua, tui nấu thêm nửa lon gạo vậy mà nó cũng vét nồi sồn sột. Cái bữa dính mấy con tôm, tui làm món tôm kho tàu, nó ăn như bị bỏ đói ba ngày. Ngó thấy thương quá nên tui nhường hết cho nó, hổng đụng một đũa nào. Trong trách còn có một chút xíu nước kho hà! Vậy mà nó cũng vét hết cơm bỏ vào ăn cho tới sạch bách. Chắc lúc ở nhà, nó ăn uống kham khổ lắm ông há!
Hiểu ý bà nên ông vội vuốt đuôi:
-Cái tài nấu ăn của bà thì khỏi nói. Nhứt là cái món canh chua với cá kho tộ. Tui còn mê nói chi nó.
Ông ít khi khen ngợi bà hẳn hoi như vậy. Trong các bữa ăn, nếu gặp món khoái khẩu ông chỉ gật gù cái đầu. Cho dù không mê uống rượu cũng buông một câu: "Cái món nầy mà có ly rượu đế uống sương sương là số dzách", để khen bà một cách gián tiếp.
Bà nghe mà nở từng khúc ruột. Chợt nhớ ra cái chậu bạc hà, bẹ đã to bằng cườm tay rồi, phải ăn liền kẻo héo, hết ngon. Bà định bụng sáng dậy sẽ kêu ông tấp vô cái chợ nào đó để mua khóm, giá, cà gió với cá lóc. Bà định nấu một nồi canh chua cho thiệt là ngon. Phải lựa một con cá lóc mập nhứt, to nhứt cỡ mười khía trở lên thịt mới ngọt và chắc.
Bà sẽ làm cái ruột cá thiệt sạch, lấy cái mật sao cho khéo để nó còn nguyên không bị giập, ăn mới không đắng, khỏi làm hư cái món mà ông ưa nhứt hạng. Phải xẽ banh cái ruột ra cạo hết cái chất xanh xanh, trắng trắng bên trong. Lộn cái bao tử tròng vô ngón tay trỏ để cạo cho sạch nhớt mới ăn được. Cái đầu với khúc đuôi thì nấu canh, còn khúc giữa thì cắt từng khoanh bằng lóng tay, để kho với tiêu hành tóp mỡ...
Hai cha con nó mới ăn chay hôm qua, gặp món nầy chắc sẽ vét tới thủng nồi, trôi rế. Nghĩ vậy nên bà tủm tỉm cười, trông cho trời mau sáng.
Câu và lưới hôm qua không kéo nên hôm nay cá dính nhóc ké. Có một con cá vồ bự. Mấy con trộng trộng gồm: Ba con cá ét da đen thui, hai con cá mè lúi, hai con rô biển... Còn lại là một mớ cá lụn vụn.
Đang là con nước xuôi nên khi đi ngang một cái chợ chồm hổm bà bảo:
-Ông tấp vô đây cho tui mua mấy trái khóm, trái cà, để nấu canh chua. Mua miếng mỡ để thắng lấy tóp bỏ cá kho cho nó ngon.
Ông bèn từ chối thẳng thừng:
-Thôi thôi, có thứ gì xài thứ nấy. Nấu canh chua với bạc hà, bỏ rau tần là đủ ngon rồi. Con cá vồ trong bụng đầy nhóc mỡ, sao hổng lóc ba cái mỡ đó mà thắng cho giòn bỏ rồi cá.
Bà cự lại:
-Mỡ cá thì thắng làm sao cho giòn, cho ngon như mỡ heo được?
Ông vẫn nằng nặc:
-Dỡ một chút không sao! Tui phải chèo cho kịp để cặp chiếc tàu Dòng. Tới trễ quá ba trái dừa lên mộng hổng ai mua, tui cho bà ngồi nạo rồi thắng dầu tới cụp xương sống cho biết thân!
Tàu dòng là loại tàu không lớn lắm nhưng gắn cái máy bự bành ky. Nó không dùng để chở hàng hóa hay hành khách, mà chỉ dùng để kéo những chiếc ghe đi trên sông lớn. Những chiếc ghe nhỏ, cho dù có gắn máy đuôi tôm, cũng không dám một mình qua những chỗ ngã năm, ngã bảy vì sóng rất lớn, hay xuất hiện mấy cái xoáy nước, có thể nhận chìm ghe.
Mỗi chiếc tàu dòng dư sức kéo đến ba, bốn chục chiếc ghe cà dom.
Bà nghe ông nói vậy thì riu ríu nghe theo, không dám kèo nài thêm một tiếng nào.
Món canh chua được nấu với con cá rô biển và cái đầu cá vồ( mình và đuôi của nó không cho vào luôn mà để lại làm món kho).
Con cá mè lúi, xương nhiều nên phải khứa xương (khứa liền dao, thật nhuyễn), đem chiên ngập mỡ cho thật giòn, giầm nước mắm tỏi ớt mới ngon.
Cá ét thịt nhão và hôi. Bà định bỏ nhưng tiếc, bèn đem đánh vảy, bỏ đầu, xẻ bụng, ướp muối phơi khô để dành lúc thắt ngặt mới đem ra xài.
Càng đi về phía hạ nguồn, con sông càng rộng và có thêm nhiều nhánh nhỏ.
Những cù lao cũng xuất hiện nhiều hơn. Có cái hình như bị bỏ hoang bởi chẳng thấy bóng nhà, bóng người, thế nhưng mặt đất vẫn được bao trùm bởi một màu xanh của lúa.
Còi hỏi:
-Chỗ nầy hổng thấy ai ở, sao có lúa mọc tốt quá vậy ba?
Ba Rum chỉ tay vào cái rặng cây ở mút tầm mắt nói:
-Có chớ con. Họ ở trong cái hàng cây đó đó!
Còi nhướng mắt nhìn chầm chập hồi lâu rồi nói:
-Con hổng thấy cái nhà nào hết trơn.
Ba Rum cười:
-Nhà thấp lắm, bị cây lấp, con làm sao mà thấy!
Còi không tin, hỏi ráng:
-Sao họ không cất sát bờ sông? Ở xa như vậy thì làm sao mà đi tắm với gánh nước?
Ba Rum kiên nhẫn giải thích:
-Chỗ đó cũng chạy dọc theo bờ sông đó con. Chắc có đường lộ nên họ xúm nhau cất nhà ở đó cho vui, cho tiện. Chắc cũng có chợ và trường học nữa.
Chiếc ghe đang đi vào một con rạch. Trên bờ đất thấp lè tè chỉ có mỗi một căn nhà sàn với mấy cây cột tràm ốm nhom, nằm thêu lêu sát bờ sông. Ngay sau lưng nhà là một cây cầu làm bằng tấm giạt tre, nối liền cửa sau xuống bến nước. Nhà bếp chắc đang đỏ lửa vì những làn khói cứ đùn nhau trồi lên từ cái mái lá thấp chũm.
Một chiếc xuồng nhỏ, loại xuồng câu cặp gần cây cầu. Trời có gió nên mặt nước gờn gợn sóng, khiến nó luôn lắc lư, cứ cụng đầu qua lại, giữa cây cầu và cây sào. Một sợi dây lòi tói to bằng ngón tay, cột từ chân cây sào tới cái mũi nhọn hoắc của chiếc xuồng.
Còi lại hỏi:
-Sao người ta không chịu cột chiếc xuồng vào cây cầu luôn, mà cột vô cây sào làm chi cho mắc công vậy ba?
Ba Rum tuy nghĩ trong bụng: " Cái thằng nầy thiệt là rầy rà, gặp thứ gì cũng hỏi ". Thế nhưng ông không hề tỏ ra bực bội, vẫn ôn tồn cắt nghĩa:
-Cái xuồng lắc lư hoài, đâu có chịu đứng yên. Gặp gió to, sóng lớn, cây cầu chịu đâu có nổi. Sập tới, sập lui, làm đi, làm lại hoài, mắc công lắm! Người ta cắm thiệt sâu cây sào xuống đất, có khi thả thêm cục đá bự làm neo xuống nước cho nó đứng một mình, không ảnh hưởng tới cây cầu.
Một đứa bé trai ở trần, mặc quần xà lỏn đen bỗng xuất hiện đột nhột trong khung cửa trổ ra cầu. Nó chạy ra mút đầu cầu để nhìn cho rõ chiếc ghe. Còi đưa tay ngoắc và cười với nó một cái. Nó đáp lại bằng một nụ cười bẽn lẽn, không ngoắc trả mà chỉ đứng nhìn theo mãi miết.
Còi cảm thấy tội nghiệp cái thằng nhỏ ấy hết sức! Nó cho rằng thằng bé nầy chắc không có bạn và đang buồn lắm! Đột nhiên từ sau lưng thằng bé kia, lại xuất hiện thêm ba đứa nhỏ hơn, chắc là mấy đứa em của thằng bé đó. Còi bỗng nghe mừng khơi khơi!
Qua khỏi căn nhà một đỗi, chừng non cây số lại là một căn nhà khác. Cũng y hệt như căn nhà kia, với tấm giạt tre làm cầu và chiếc xuồng câu cột vào cây sào. Có điều trên cây cầu thay vì những đứa bé con, lại là một phụ nữ đang ngồi với cái rỗ to trong đựng giá trong tay. Cô ta vừa nghiêng cái rỗ cho lớp vỏ đậu xanh trôi ra ngoài, vừa liếc ngang để nhìn theo chiếc ghe một cách kín đáo.
Má nó bỗng hỏi:
-Trong nhà có bí rợ hông chị, bán cho tui một trái.
Người phụ nữ đáp:
-Có! Chị ghé vô đi!
Má nó lắc đầu:
-Tụi tui đi gấp lắm! Ghé không tiện. Chị chịu khó bơi xuồng theo nghe, tui trả tiền rồi tặng thêm mấy trái dừa khô đền công, chị chịu hông?
Người phụ nữ không đáp, lật đật để cái rỗ lên cầu, chạy bay vô nhà. Lát sau đã thấy cô ta ôm trái bí rợ thiệt bự bước xuống xuồng. Cổ tháo sợi dây luộc đang vòng qua cây sào, cầm cây dầm rồi dang thẳng cánh tay, bơi vun vút về phía chiếc ghe.
Ba nó thấy vậy liền gác chèo lên chờ nên chỉ một lát sau là cô ta đuổi kịp. Má nó đã thủ sẵn ba trái dừa, hai trái còn nguyên với một trái có lớp vỏ hơi đậm vì bị ướt.
Người phụ nữ cầm sợi dây đưa cho má nó để bà kéo chiếc xuồng cặp sát vào ghe. Chờ cột xong, cô mới hai tay bưng trái bí đưa lên cho bà.
Má nó xuýt xoa:
-Trái bí bự dữ! Bí hai da phải hông chị?
Cô ta gật đầu, không nói tiếng nào.
Má nó lại hỏi:
-Bao nhiêu vậy chị?
Cổ đáp:
-Chị trả bao nhiêu thì trả. Tui trồng mấy dây để ăn thôi, có bán chác gì đâu mà biết giá.
Má nó móc trong túi đưa ra một tờ giấy năm đồng. Bà bỗng thấy hai miếng vá, một ở vai và một ở cùi chỏ trên chiếc áo bà ba đen rất cũ của người phụ ấy. Cảm động quá, bà bèn rút tay lại, móc gói tiền trong túi ra, lấy thêm một tờ y như vậy rồi đưa hết hai tờ cho cổ.
Người phụ nữ kêu to:
-Trả cái gì mà nhiều dữ thần vậy? Tui lấy một tờ hà!
Má nó nói dối:
-Tui mua ngoài chợ giá nào thì trả cho chị giá đó, bộ khùng sao mà trả nhiều hơn.
Cô ta cầm nhưng gương mặt còn lộ vẻ bán tín, bán nghi.
Má nó đưa cho cổ thêm ba trái dừa rồi nói:
-Hai trái còn nguyên, một trái bị hư. Chị chịu khó nạo rồi thắng dầu mà xức tóc.
Người phụ nữ ra vẻ cảm động, hỏi:
-Chị có ăn hột vịt hông?
Má nó lắc đầu. Cổ nói như năn nỉ:
-Tui cho chị chớ hổng có bán đâu. Tại vịt đẻ nhiều quá ăn không xuễ.
Má nó vẫn cương quyết:
-Ông nhà tui không hợp với cái món hột vịt. Hồi nhỏ ổng ăn vô có một miếng mà nổi mề đay khắp mình mẩy, gãi muốn tróc da luôn. Tới bây giờ hổng dám rớ tới nữa.
Rồi bà gợi ý:
-Sao chị hổng muối để dành.
Cổ nghe vậy bèn hỏi tới:
-Muối làm sao? Tui thấy họ bọc tro trấu đen thùi bên ngoài. Coi bộ khó lắm! Tui đâu làm nổi. Tro trấu bời rời lắm! Bọc làm sao cho dính hả chị?
Má nó lắc đầu:
-Chị khỏi cần bọc tro trấu làm chi cho mắc công. Pha muối cho thiệt là mặn, thả hột cơm vô thấy nó nổi lều bều là được. Rửa hột vịt cho thiệt sạch rồi thả vô. Lấy cái vỉ tre gài cho nó nằm sát hủ, không nổi lên trên mặt. Chị canh chừng nứa tháng tới hai mươi ngày là ăn được rồi.
Ba nó nghe chừng hai người họ còn muốn trò chuyện tiếp chớ chưa chịu chia tay. Ông nhắc khéo bằng cách thả mạnh cây chèo xuống nước.
Má nó lật đật tháo sợi dây ra khỏi ghe rồi nói:
-Thôi tui đi nghe, chị ở lại mạnh giỏi.
Người phụ nữ cũng cầm cây dầm, chống vô lườn ghe, đẩy mạnh cho chiếc xuồng có trớn. Cái xuồng quay phắc một trăm tám mươi độ. Cổ ngoái đầu lại nói vói:
-Dà, chị cũng đi mạnh giỏi!