← Quay lại trang sách

- 5 -

Suốt ngày hôm ấy Ba Rum chèo ráo riết. Đến tối cũng không dừng lại ngủ mà cho ghe đi luôn trong đêm. Hai cây đèn gió được đốt lên, treo hai bên hông ghe để soi đường và làm hiệu cho mấy chiếc ghe khác tránh. Chúng cứ lắc lư theo từng nhịp chèo.

Mỗi khi đi nước rút như vậy, cả hai vợ chồng Ba Rum cùng chèo, kẻ lái, người mũi. Còi ta lần đầu tiên được giao cho cái công việc mà mình ưng ý nhứt nên mặt mày hết sức hớn hở. Nó ngồi chễm chệ trong cái nhà chòi, hai tay bám chặt cần lái.

Thật ra nó chưa đủ trình độ để tự mình xoay sở, phải thi hành răm rắp theo mệnh lệnh của người lớn. Hể nghe ba nó sai:

-Cho qua bên trái một chút!

Thì nó đẩy cái cần qua bên phải.

Nếu ổng sai:

-Qua bên phải!

Thì nó kéo qua trái.

Có lần nó quên nên làm ngược lại, chiếc ghe lủi vô bờ, ba nó la chói lói. Má nó lật đật chụp lấy cần lái bẻ ra từ từ, kẻo nó làm nhanh quá ghe có thể lật.

Tới khúc sông vắng má nó bỗng rủ:

-Hò vài câu cho vui đi ba thằng Hên!

Từ ngày có nó, họ đã thay đổi cách xưng hô. Không gọi ông (bà) và xưng tui nữa. Bà mở đầu trước, ban đầu ông hơi ngại nhưng nghe quen rồi thấy thích.

Ba nó có máu văn nghệ lắm! Cái la dô ấp chiến lược lúc nào cũng kè kè bên cạnh, ông vặn suốt ngày, tìm nghe các đài có ca cổ nhạc. Ông rất khoái nam nghệ sỹ Tấn Tài, nên định bụng sau nầy nếu làm khai sanh cho nó, sẽ mượn cái tên của y mà đặt.

Lời yêu cầu của bà đã gãi đúng cái chỗ ngứa, Ông bèn tằng hắng một cái rồi hò:

-Hò hớ...ớ ơ...

Bìm bịp kêu nước lớn em ơi

Buôn bán không lời, chèo chống mỏi mê...

Giọng của ông ngọt như mía lùi, cái chữ "mê" kéo dài làm má nó nghe là hết mệt liền. Bèn tìm câu đối lại. Nhìn mấy trái dừa bà bỗng nhớ ra, cũng ho một cái cho trơn cổ rồi mới bắt giọng:

-Hò hớ...ớ...ơ...ơ...

Nạo dừa vắt nước cho nhanh

Thắng dầu mà xức tóc anh cho mượt mà...

Tiếng hò rất du dương, ngân nga một cách truyền cảm, chẳng thua ba nó chút nào!

Ông thuộc ca dao nhiều lắm, bà vừa ngưng là xướng giọng liền:

-Hò hớ...ớ...ơ...

Chợ Thốt Nốt có lập đài khán võ,

Chợ Cờ Đỏ tuy nhỏ mà đông.

Thấy em chèo chống anh chẳng đành lòng,

Thôi để anh làm mướn kiếm từng đồng mà nuôi.

Lần nầy má nó đáp liền:

-Hò hớ...ớ...ơ...ơ

Em mặc áo vá, đội cái nón lá bung vành

Không ai dám cưới sợ mang danh nhà nghèo

Ghe không gắn máy phải chèo

Thương không dám nói, ngó theo cho đỡ buồn.

Trên bờ bỗng xuất hiện một cái nhà cặp sát mé sông. Bóng một người đàn bà ngồi vá áo dưới ngọn đèn chong leo lét.

Ba nó liếc vô một cái rồi hò:

-Hò hớ...ớ...ơ

Đi ngang nhà má, cái tay tui xá, cái gối tui quỳ

Lòng thương con má sá gì thân tui.

Một giọng con gái, trong veo như nước sông mùa nắng, từ căn nhà đó vọng ra:

-Hò hớ...ớ...ơ...ơ

Tai em đeo đôi bông nhận hột, có cái chột bằng đồng

Nói cho anh biết, bên chồng em mới cho.

Ba nó cũng đâu có vừa, đáp liền:

-Hò hớ...ớ...ơ

Có chồng mặc kệ có chồng

Còn duyên anh ẵm, anh bồng, anh hun...

Nghe ba nó "xung" quá, má nó sợ cô gái đó xiêu lòng nên hò cho cổ biết là ba nó "ván đã đóng thuyền rồi ". Bà liền khuyên:

-Hò hớ ớ...ơ...ơ

Đói lòng nhai nắm lá sung

Chồng một thì lấy, chồng chung thì đừng.

Ba nó đang có trớn nên ghẹo tiếp:

-Hò hớ...ớ...ơ

Trồng trầu thì phải khai mương

Làm trai hai vợ, phải thương cho đồng.

Má nó lên giọng dằn mặt ngay lập tức:

-Hò hơ...ớ...ơ...ơ

Ớt nào là ớt chẳng cay

Gái nào là gái chẳng hay ghen chồng

Một vợ thì nằm giường đồng

Hai vợ thì xuống bờ sông mà nằm.

Tới đây coi mòi gây cấn nên ba nó im ru luôn!

Khi con trăng hạ tuần gầy nhom vác cái lưng cong cong, chậm chạp leo tới nơi cao nhất của bầu trời, thì chiếc ghe cũng vừa đến cuối con rạch.

Chắn ngang rạch là một con sông rộng mênh mông. Ánh trăng yếu ớt khiến những con sóng nhỏ lao xao như một bầy rắn ngóc đầu chờ đớp mồi. Mặt nước mang vẻ bình thản, tươi vui, trong sáng lúc ban ngày, bỗng trở nên nghiêm nghị, thâm u, đe dọa... Trên mặt sông tối tăm, sâu hút như rơi mất đáy ấy, những đám lục đen thẫm len lén trôi qua. Vẻ hiền từ, thân mật của chúng cũng nhuốm nét bí hiểm, khó lường.

Ngay chính giữa sông có hai khối hình trụ đen thui, nằm song song cách nhau mấy thước. Đó là hai chiếc thùng phuy rổng nổi lềnh bềnh, có mang những chiếc đèn chong trên lưng.

Còi chỉ tay vào chúng, hỏi:

-Nó là cái gì vậy Ba?

Ba nó đáp:

-Miệng đáy đó con!

Ông giải thích thêm:

-Ở mấy chỗ như vầy cá nhiều lắm, nên người ta thả đáy suốt tháng, quanh năm luôn. Họ phải chong đèn để mấy chiếc tàu biết mà tránh.

Nói xong ông liền kêu:

-Sắp tới rồi đó má thằng Hên ơi! Bà cầm lái đi!

Bà lật đật buông cây chèo ra để lấy lại cái cần lái từ tay thằng Còi. Nó chưa chịu bỏ tay ra. Bà đặt bàn tay của mình trùm lên tay nó, từ từ đẩy cái cần sang bên trái. Mũi ghe xoay một góc chín mươi độ, ôm sát bờ sông bên phải, rồi chầm chậm tiến tới đích đến, nơi mấy chiếc ghe sắp thành hàng dài, cặp sát bờ sông như một con đê chắn sóng.

Tiếng hỏi han lao nhao phát ra từ một nhóm người ngồi trên mui vang đến:

-Ghe của ai vậy ta?

-In là ghe của Tư Lành.

-Hổng phải đâu, chuyến nầy Tư Lành chở tro lên Bình Dương mà!

Một người đàn ông đang ngồi bỗng đứng phắt lên, nhìn đăm đăm chiếc ghe đang tìm chỗ đậu, rồi cất cái giọng rất dỏng dạc hỏi:

-Phải ghe của Ba Rum hông?

Ba Rum nhận ra người quen, liền trả lời:

-Tui nè anh Năm, anh tới lâu chưa?

Người đàn ông lớn tuổi, có cái cục xi nhon sau ót đó đáp:

-Từ đầu hôm lận! Sao chú em mầy tới trễ dữ vậy?

Ba Rum thở ra một cái khì:

-Gặp nước ngược, tưởng đâu lỡ mất toi cái chuyến tàu nầy luôn rồi chớ!

Ông bác ấy lại chỉ tay về phía thằng Còi mà hỏi:

-Ai vậy?

Ba nó trả lời, giọng tràn trề hãnh diện:

-Thằng con ngang hông của tui đó! Nhờ có nó giữ lái, bả phụ thêm một tay mới tới kịp đó anh!

Ông ta khen nức nở:

-Chèn ơi! Mới bây lớn mà biết cầm lái rồi sao? Giỏi quá!

Thằng Còi nở muốn banh cái lỗ mũi khi ba nó bồi thêm:

-Nó mới học có mấy ngày chớ đâu có lâu lắc gì!

Chiếc ghe của Ba Rum dừng lại khi cái vỏ xe hơi bọc quanh mũi của nó chạm nhẹ vào phần hông sau của chiếc ghe trước mặt.

Ông bác bới tóc là chủ chiếc ghe đó. Ông liền nhảy từ mui ghe của mình xuống, vói tay lấy sợi dây luộc từ tay ba nó, cột vào cái trụ cao chừng một tấc hình chữ T nằm mút đuôi ghe. Cột xong ông phủi tay rồi rủ:

-Lại ngồi chơi với anh em một chút đi chú!

Ba Rum "dà" một tiếng rồi kề tai nói nhỏ với thằng Còi:

-Con vô nói má bới cho ba một tô cơm.

Nó chưa kịp đi đã thấy má nó xuất hiện. Bà bưng một tô cơm đầy vun với hai khứa cá lóc kho khô và một trái dưa leo gát trên mặt, đưa cho ông rồi nói:

-Ông ăn ba hột dằn bụng cái đã!

Ông vừa bưng tô cơm vừa nói:

-Nướng giùm tui vài con khô đi bà!

Nó ngạc nhiên:

-Bây nhiêu cá mà ba ăn chưa đủ sao mà còn nướng khô nữa?

Ba nó cười:

-Nướng để hùn mồi chớ ba đâu có ăn một mình.

Khi ông tém gọn mấy hột cơm sau cùng, thì má nó cũng đem cái dĩa với hai con khô cá sặc ra. Ba nó hỏi:

-Bà nhóm bếp nhanh dữ hén!

Má nó cười:

-Tui đốt cái rề xô làm cho lẹ. Nướng có hai con khô, nhóm lửa chi cho mắc công.

Ba nó bưng cái dĩa trên tay, dợm chưn đứng lên rồi hỏi nó:

-Con có muốn đi theo ba hông?

Nó gật đầu một cách sốt sắng:

-Muốn!

Má nó ngăn:

-Đừng có rủ ông ơi. Để nó ở nhà ngủ cho khỏe.

Nghe bà nói vậy, cái mặt đang tươi hơn hớn của nó chù ụ liền tay. Bà không cản nữa, đưa cây quạt lá vông mới tinh cho nó rồi căn dặn:

-Ở đây muỗi nhiều lắm. Con phải quạt lia, quạt lịa luôn tay. Quạt cho ba con luôn, hông thôi là ổng bị hút không còn một giọt máu đó!

Ba Rum cẩn thận dắt nó đi từng bước. Hai cha con hết nhảy lên rồi lại nhảy xuống, chuyền từ cái mui ghe nầy đến mui ghe khác, mới đến được chỗ mọi người đang ngồi. Họ vừa ngoắc lia lia vừa gọi Ba Rum inh ỏi.

Mấy người đàn ông đang ngồi xếp bằng trên mui của chiếc ghe lớn nhất liền nhích người, ngồi sát vào nhau để nhường chỗ cho hai ba con nó. Người trẻ nhứt trong nhóm hỏi:

-Chuyến nầy chở món gì vậy anh Ba?

Ba nó đáp:

-Dừa khô, còn chú?

-Khoai lang.

Đáp xong anh ta nói thêm:

-Nghe nói dừa đang hút. Chuyến nầy anh hốt bạc rồi đó.

Ba nó cười:

-Chưa chắc đâu chú ơi! Rủi đụng hàng, chủ vựa nó nhận giá là ăn muối luôn.

Thấy thằng Còi thập thò sau lưng ông, một người khác hỏi:

-Thằng nhỏ nào đi theo anh vậy?

Ba nó chưa kịp trả lời thì ông Bác có cái búi tó ban nãy đáp thay:

-Con rơi của y đó. Mấy chú có thấy nó giống cha y hệt hông?

Thế là Thằng Còi được trưng ra cho mọi người coi mắt. Nó vốn nhát nên cứ cúi mặt nhìn xuống cái mâm nhôm để ở giữa, vô tình phát hiện trên mâm bày lủ khủ những thứ nó thích như khoai luộc, chuối nấu, đậu phọng rang và mấy chén nước lỏng bỏng. Đây là những mặt hàng đang có trong mấy chiếc ghe đó.

Nó đang tự hỏi không biết món gì được đựng trong mấy cái chén đó, thì nghe một người trong số họ gọi to.

-Thằng Dư đâu, kêu má bây múc thêm hai chén chè đậu xanh rồi bưng lên đây.

Một bàn tay to, chai sần nâng cái cầm nó lên. Mọi con mắt của những người đàn ông cùng nhìn đăm đăm vào tận mặt, rồi bình phẩm:

-Gương mặt cúa hai cha con giống hệt, y như cắt để qua.

-Bộ vó thằng nầy coi bảnh quá!

-Coi bộ sáng dạ à nghe!

Một người nhỏ giọng hỏi:

-Chị Ba có cằn nhằn hông anh?

Ba Rum đáp bằng giọng tự hào:

-Có người sanh giùm, bả mừng gần chết, cằn nhằn cái giống gì?

Ông bác bới tóc nói:

-Vậy là chú em mầy có phước lắm đó! Nhiều người thà đi xin con nuôi chớ không chịu thương con rơi của chồng đâu!

Ba Rum cười hể hả:

-Đâu anh hỏi thử nó coi, tui với bả ai cưng nó nhứt?

Ông bác hỏi ngắn:

-Ai vậy con?

Nó đáp bẽn lẽn:

-Má!

Ba Rum để dĩa khô vào giữa mâm rồi xé chúng thành từng miếng nhỏ. Ông bác bới tóc rót rượu vô cái chung, đưa cho Ba Rum rồi nói:

-Vô một cái cho ngọt coi!

Ba Rum đưa cái ly lên miệng uống một cái ót, vừa để xuống là nghe tiếng còi tàu rú lên gần xịt.

Mấy người đàn ông hớt hải chạy về ghe của mình, lật đật tháo dây cột, kéo neo rồi chèo ra giữa sông để cặp theo đuôi chiếc tàu dòng đó.

`Chiếc ghe của Ba Rum nằm mút sau chót. Nó như cái đuôi của đoàn ghe có hình dạng giống con cá nóc đó. Đầu cá dĩ nhiên là chiếc tàu, còn cái bụng phình to là mấy chục chiếc ghe xúm xít.

Còi đứng trên mui, nhón chân để đếm coi được bao nhiêu. Nó rất ngạc nhiên khi thấy chiếc tàu lớn chừng đó mà có thể kéo đến ba mươi ba chiếc ghe xêm xêm nó!

Ba Rum cột sợi dây lèo từ mũi ghe mình vào cái trục sau, gần bánh lái của cái ghe trước mặt. Đó vẫn là chiếc của ông Năm già bới tóc. Làm vừa xong, chưa kịp phủi tay là đã nghe tiếng hú, gọi mọi người tập họp của người chủ chiếc ghe khi nãy. Ông ta réo tên từng người để mời họ cùng tiếp tục cuộc ăn nhậu, trò chuyện đang bỏ dở.

Thằng Còi cũng lẻo đẻo bám theo ba nó. Một phần do mê nghe chuyện, một phần vì tiếc cái chén chè đậu xanh mà ban nãy, nó chỉ mới cầm có cái muỗng lên rồi bỏ xuống liền chớ chưa kịp ăn.

Má nó lại can, lại cằn nhằn, lại đưa cây quạt, lại dặn dò...Lần nầy bà còn móc túi lấy ra chai dầu "Song Thập" bôi lên màng tang, chót mũi và yết hầu của hai cha con nó để ngừa phong, đón gió.

Họ chưa kịp đi thì một người đàn ông mặc bộ py da ma màu xanh đậm, sọc đen, cầm cuốn biên lai xuất hiện. Ông ta trông không giống mấy người lái buôn như ba nó. Cách ăn mặc, điệu bộ, ngôn ngữ nửa phần dân thầy, nửa phần dân thợ.

Ông ta cười để lộ hai cái răng cửa bịt vàng, xoa đầu nó rồi hỏi:

-Thằng nhỏ nào đây?

Câu hỏi chứng tỏ họ đã quen nhau từ trước. Ba nó cười đáp:

-Thằng con cầu tự của tui đó anh Bảy!

Ổng hỏi tiếp:

-Sao hồi nào tới giờ hổng thấy, cũng không nghe vợ chồng anh nhắc tới nó?

Ba Rum cười:

-Nó kỵ tuổi, khó nuôi. Vợ chồng phải đem đi bán khoán rồi cho người khác làm con nuôi. Bây giờ mới bắt về, cho theo nghề dần dần.

Ông Bảy ấy liền gật đầu:

-Cỡ nầy là dạy cầm chèo, cầm lái được rồi.

Ông ta lại nhìn nó đăm đăm rồi chặc chặc cái lưỡi, gật gật cái đầu ra vẻ thích thú, hỏi:

- Anh đúc kiểu gì mà nó giống anh như tạc vậy?

Ba Rum khoái trá cười hô hố, trong khi thăng Còi lại có vẻ đăm chiêu.

Nó nghĩ ngợi, nhìn Ba Rum một cái để âm thầm so sánh. Chẳng là khi còn ở nhà, bà con trong xóm đều nói nó giống cha ruột như hai giọt nước. Bây giờ thì mấy người nầy lại nói nó y hệt ông ba nuôi. Nó cho rằng nếu vậy thì hai người, ông ba này và ông cha kia, phải giống nhau như in mới phải. Nó ráng nhìn cho thật kỹ, vẫn thấy họ có hai gương mặt khác nhau hoàn toàn.

Ông Bảy lại hỏi nó:

-Cháu tên gì?

Nó khoanh tay đáp một cách lễ độ:

-Cháu tên là thằng Hên.

Ông ta nhìn nó đầy thiện cảm, khen:

-Thằng cháu nầy rất có giáo dục, tốt quá!

Ba Rum nghe ổng khen nó thì lấy làm hả lòng, hả dạ. Nên không chờ người chủ tàu nói ra số tiền phải trả, rồi kỳ kèo như thường lệ, mà móc liền trong túi gói tiền ra, đếm rồi trao cho người chủ tàu.

Ông Bảy cầm mấy tờ giấy bạc đếm lại rồi đưa biên lai cho ba nó.

Ổng bỏ tiền vô cái túi áo to phồng, rồi lại móc ra, lựa tờ giấy một đồng mới nhứt đưa, nói:

-Bác cho con mua bánh ăn.

Nó không dám cầm dù rất muốn, nhìn Ba Rum chầm chập.

Ông Bảy khuyến khích:

-Lấy đi con, ba con hổng có rầy đâu!

Thấy nó còn do dự, Ba Rum gật đầu một cái rồi nói:

-Cám ơn bác Bảy đi con.

Nó khoanh tay chặc hơn, cúi cái đầu sát hơn, nói một cách cung kính hơn:

-Con cám ơn bác Bảy.

Xong rồi mới cẩn thận cầm chắc tờ giấy màu cam ấy bằng cả hai bàn tay, vuốt cho thẳng thớm, rồi gấp laị làm hai, làm tư, làm tám. Nó không dám bỏ vào túi sợ mất mà giữ rịt trong lòng bàn tay, nắm sát năm ngón tay lại hết mức có thể, để không bị lọt ra ngoài.

Ba Rum bèn mời ông chủ tàu:

-Lên mui ngồi uống với tui vài hớp nước đi anh!

Ông chủ tàu chưa kịp trả lời, đã nghe tiếng của người đàn ông vừa gọi ban nãy, y ta giục:

-Tới lẹ đi anh Ba ơi!

Ổng bèn lắc đầu:

-Để khi khác đi anh Ba. Tui còn về lái thay cho chú Tám nó một chút.

Ổng vừa quay lưng là hai ba con nó cũng vọt liền!

Bàn tiệc ban nãy giờ có thêm hai người nữa. Trên mâm cũng có thêm hai món mới là dĩa củ sắn đã lột vỏ và cái thau đựng mía. Mía cũng được róc sạch, chặt thành từng đoạn ngắn chừng hơn một lóng tay. Cạnh mỗi thứ là một chén muối ớt đỏ lòm.

Thằng Còi ngồi sát một bên ba nó, y cái chỗ hồi nãy có điều chật hơn một chút. Nó rất muốn bưng chén chè lên mà hổng dám.

Ông bác bới tóc tuy đã già nhưng vẫn chưa quên tâm trạng của thuở mình còn bé, cầm chén chè lên đưa tận tay nó. Ông nói:

-Ăn đi con!

Rồi cũng nói với ba nó:

-Húp vài muỗng đi chú Ba.

Đậu xanh mới hái nấu với đường thốt nốt nên bùi và ngọt lịm, lại thêm nước cốt dừa béo ngậy, ngon không tả nổi. Nó ăn hết vèo trong nháy mắt. Thấy nó nhìn mấy chén chè còn nguyên một cách thòm thèm. Ba Rum bèn đưa luôn cái chén của mình cho nó. Ông nói nhỏ:

-Ăn giùm ba luôn đi con!

Chờ nó ăn xong ông bác bới tóc mới đẩy cái tô đựng đậu phọng rang tới trước mặt cu cậu. Đậu phọng cũng rất thơm ngon, nhưng trong bụng nó đã không còn chỗ chứa. Nhớ tới má nuôi đang một mình giữ ghe, nó thấy thương quá! Bèn rình rình, thấy không ai chú ý tới mình, liền hốt một nắm đậu phọng bỏ vô túi áo, để lát nữa đem về cho bà.

Chiếc tàu đang đi giữa sông, gió quạt phần phật vào mặt hai ba con nó. Cái quạt lá vông má nó đưa không còn cần thiết nữa. Lủ muỗi đói đã bị bỏ lại trên bờ. Thằng còi lạnh rung, giá mà má nuôi cho nó mặc thêm một cái áo tay dài nữa thì đỡ biết mấy!

Càng về khuya khí trời càng lạnh, câu chuyện càng thu hút. Nó khoanh tay, ngồi sát vào người ba nuôi cho ấm. Khi câu chuyện bớt rôm rả, mấy món ăn đã vơi dần, người chủ mâm nhậu nghiêng đầu về phía ông Năm già bới tóc, nói với giọng nài nĩ:

-Nói vài câu thơ Vân Tiên cho vui đi chú Năm!

Ông Năm lắc đầu nói:

-Qua khúc sông nầy là tới dinh Cậu rồi. Mấy anh em ai nấy lo về ghe mình, chuẩn bị nhang đèn để cúng. Nhớ mặc quần áo tề chỉnh nghe! Đây là nơi rất linh thiêng. Chỗ nầy sóng to, gió lớn, nguy hiểm hạng nhứt, nhưng nhờ có Cậu độ nên ít khi xãy ra tai nạn.

Mọi người chợt nhớ ra rụt rịch rút lui. Người chủ ghe ráng mời:

-Cúng xong là mình tiếp tục nghe anh em.

Hai cha con về đến ghe, má nó đã chuẩn bị sẵn nhang, đèn, bánh, kẹo, gạo muối... để sẵn trong cái mâm nhôm đặt trước mũi ghe.

Chỉ vài phút sau, những con sóng bỗng tăng kích thước và vận tốc. Như thể có những bàn tay khổng lồ, thọc sâu xuống lòng sông và khuấy thật mạnh. Mũi ghe bỗng ngoi lên, hụp xuống, nghiêng qua trái, qua phải một cách liên tục. Những giọt nước bắn cao vượt qua khỏi đầu của thằng Còi, rồi rơi xuống, bám vào mặt, lạnh toát khiến nó rùng mình.

Ba nó mặc thêm bộ đồ mới mà má nó đã soạn sẵn ra bên ngoài. Với gương mặt vô cùng thành kính, ông cầm ba cây nhang đã được đốt, đưa lên ngang trán rồi rì rầm khấn khứa rất lâu.

Sáng hôm sau, như thường lệ, thằng Còi được má nuôi gọi đi rửa mặt để ăn sáng. Nó lồm cồm bò ra trước mũi ghe, thọc cái gáo xuống sông múc nước lên xúc miệng. Cái gáo nầy làm bằng lon sữa bò, có hình con chim in nổi dưới đáy, được một nhánh tre nhỏ bằng ngón tay, dài thậm thượt xỏ ngang miệng.

Nước xanh trong vắt, mặt sông y như cái thau bông cỏ khổng lồ làm nó bùi ngùi. Bởi nhớ lại cái món có vị nước đường, dầu chuối hết sức mát, ngọt, thơm mà má nó hay bưng đi khắp xóm để bán ấy!

Hồi đó, nó hay bị những đứa bạn nhìn bằng ánh mắt ganh tị, vì chúng cho rằng ngày nào nó cũng được ăn bông cỏ cho tới ngán. Thực ra nó nào có được ăn nhiều đến phát ớn. Má nó cho ba anh em chúng, mỗi đứa một chén lưng lưng thôi, mà cũng ngày có ngày không. Tụi nó ăn đâu có đã, xin thêm là bị má từ chối bằng một câu quen thuộc:

-Ăn ít no dai, ăn nhiều mau đói!

Cái câu nầy luôn làm nó bất mãn. Tự hỏi tại làm sao ăn nhiều lại mau đói?

Bây giờ, trong bối cảnh nầy nó đã hiểu ra đôi chút. Giá như lúc nầy có cái thau bông cỏ trước mặt và má cho ăn thả giàn chắc nó vét tới sạch bách. Má nó sẽ đứt vốn, hết bán và ngay hôm sau nó sẽ chết thèm cái món đó!

Cái cảnh bưng chén bông cỏ húp xì xụp trồi ngay lên trong trí tưởng tượng, khiến nó đưa cái gáo đầy nước lên miệng mà uống ừng ực. Ngay lập tức nó vừa sặc vừa phun toàn bộ số nước chưa kịp chạy tới bao tử đó.

Một đứa con trai bằng cỡ nó, đang ngồi sau lái của cái ghe trước mặt, cũng cầm cái gáo y như nó, đang thọc ngón tay trỏ vô miệng để chà răng, cũng sặc nước vì cười.

Nó hỏi thằng bé:

-Nước của mầy cũng mặn hả?

Thằng nhỏ ấy gật đầu rồi hỏi lại nó:

-Bộ mầy mới đi ghe hả?

Nó cũng trả lời bằng một câu hỏi:

-Sao mầy biết?

Thằng kia đáp bằng cái giọng tự đắc:

-Ngó cái bộ vó của mầy ai mà hổng biết.

Nó định bắt chuyện thêm thì thằng bé ấy đã chui tọt vô khoang khi nghe tiếng gọi của một người phụ nữ:

-Út ơi! Vô má biểu cái coi!

Má nuôi nó cũng kêu:

-Hên ơi! vô ăn bánh tầm khoai mì nè con.

Nghe nói món bánh tầm khoai mì là hai con mắt nó sáng trưng liền cho dù chưa được rửa. Nó bèn bụm bàn tay trái cho khít rịt, xối nước lên đó rồi chà khắp mặt, không quên ngậm chặt môi lại và chỉ làm một lần duy nhứt. Chất muối trong nước khiến da mặt nó như căng ra, rin rít hơi khó chịu.

Ba má nuôi đã ngồi sẵn trong chòi, họ chưa ăn và có vẻ như đang đợi nó. Nó chạy vội đến, bây giờ nó đã quen thân với cái mui ghe, không còn sợ bị bắt giò rồi chụp ếch mà té xuống sông uống căng bụng nước, thế nhưng vẫn làm má nuôi nó sợ. Bà rầy:

-Đi từ từ thôi con, đừng có chạy, té lộn cổ bây giờ!

Nó ngồi giữa hai người rồi dán mắt vô mâm. Trong mâm, cái tô bự đựng những sợi khoai mì trắng bóc, to bằng đầu đũa đầy vun tới miệng, đã được hấp chín đang bốc khói nghi ngút, khắp mặt phủ đầy dừa nạo. Đó là lớp dừa trong cùng, được nạo đầu tiên, tiếp xúc với nước dừa nên rất mềm và ngọt. Ở nhà, mỗi lần thấy má nạo dừa là nó đứng xớ rớ chờ ăn chúng cho bằng được. Má nó làm bộ rầy, nhưng không thấy nó thì lại lấy cất để dành, chờ gặp rồi cho, nhứt là mấy cái mộng dừa.

Kế tô bánh là cái tô nhỏ hơn đựng nước cốt dừa thắng bồng con, lấm tấm những chấm xanh xanh của hành lá xắt nhỏ. Một chén đậu phọng rang đâm nhuyễn trộn muối đường, thường được gọi là muối mè dù không có hột mè nào ở trỏng.

Nó vừa ngồi xuống là được má nuôi đưa tận tay dĩa bánh tầm. Dĩa bánh đã được chan nước cốt dừa và rắc muối mè, thế nhưng nó vẫn chan thêm một muỗng nước cốt dừa đầy vun, rắc muối mè thêm nữa. Má nuôi nó rầy:

-Con chừng mặn đó con!

Cái chữ mặn đó khiến nó nhớ lại cái vị của gáo nước khi nãy, liền hỏi:

-Sao nước ở đây mặn dữ vậy má?

Ba nuôi nó giành trả lời:

-Chỗ nầy ở gần biển nên hể nước chảy ra biển thì ngọt, mà nước biển chảy vô là mặn.

Nó hỏi tiếp:

-Biển lớn hông ba?

Ba nó trả lời:

-Lớn không tả xiết!

Nó hỏi tiếp:

-Ba thấy biển chưa?

Ổng lắc đầu:

-Chưa!

Nó năn nỉ:

-Mai mốt mình chạy ra biển coi thử đi ba!

Ổng lại lắc đầu:

-Không được đâu con, ghe mình mà ra biển là bị sóng đánh chìm liền. Sóng ở đó lớn lắm!

Má nó tiếp thêm:

-Cho dù hổng bị chìm thì cũng khỏi đi nữa được!

Nó ngạc nhiên:

-Sao vậy má?

Ba nó cắt nghĩa:

-Bị con hà nó ăn lủng ghe luôn, đâu còn mà đi!

Nó lại hỏi tiếp:

-Sông có hà hông ba?

Ổng cũng kiên nhẫn trả lời:

-Có chớ con, nhưng mà nó không có dữ bằng mấy con hà biển. Mình xài chừng vài năm là phải đem ghe lên bờ, xông khói cho nó chết, trét chai, phết dầu khắp lườn rồi mới đi nữa.

Má nuôi thấy hai cha con nó ăn quá khí thế. Bà có ý chờ họ khen mà hổng ai nói tiếng nào, không còn kiên nhẫn nữa, nên hỏi:

-Ngon hông con?

Nó gật đầu, gấp một đũa vun cho vào đầy nhóc miệng, nhai mới ba sồn, ba sực là nuốt. Nuốt xong rồi nói bằng cái giọng khiến bà hết sức thỏa mãn:

-Ngon quá trời, quá đất luôn!

Bà bèn bảo nó:

-Con ăn xong thì lột hết cái rỗ khoai mì, để má ngâm nước đặng mai làm bánh cay, bánh xếp cho mà ăn.

Nó kèo nài:

-Làm liền trưa ăn đi má!

Má nó cười:

-Khoai mì phải ngâm nước qua đêm ăn mới không hại bụng. Như món bánh tầm nầy má cũng lột hồi tối, đem ngâm nước liền, sáng mới đem ra bào rồi hấp đó chớ!

Ba nó hỏi:

-Khoai nầy phải của Hai Bường cho hông?

Má nó lắc đầu:

-Của anh Năm Già.

Má nó bỗng dừng nhai mà thở dài sườn sượt. Ba nó hỏi:

-Mắc mớ gì mà đang ăn cái bỏ đũa ngồi thở nghe muốn rát ruột vậy?

Má nó thở thêm một hơi nữa rồi mới nói:

-Nghe chị Năm than chuyến này có tới ba ghe chở khoai mì. Chỉ sợ dội hàng, bị chủ vựa ém giá là lỗ thắt họng.

Ba nó cũng thở dài theo:

-Ba cái khoai mì, cà gió, chuối.. nầy tui sợ lắm! Không bán được liền, cầm cự hoài thì chỉ có nước đem đổ. Chủ vựa biết vậy nên họ đâu có ngán, ép giá cho tới cùng luôn! Mình đi dưa, dừa, khoai ngọt, bí rợ... để được lâu hơn mà còn không chắc ăn, lo muốn teo ruột nữa là...

Ăn xong, không chờ má nuôi sai thêm lần nữa, Còi lật đật chạy ra mũi ghe nơi có cái rỗ khoai nằm chình ình để bắt tay vào việc liền. Không phải nó có tinh thần trách nhiệm cao, chỉ vì muốn gặp lại thằng Út khi nãy. Dân thương hồ, bởi sống biệt lập nên họ thèm đủ thứ, nhất là thèm bạn. Đối với mấy đứa con nít, điều nầy còn bức thiết gấp đôi.

Cũng như nó, thằng Út đang lấp ló, nhìn chăm chăm qua cửa khoang sau. Vừa thấy thằng Còi tay dao, tay thớt là nó phóng một cái vèo qua liền.

Còi điếng hồn, hỏi:

-Mầy hổng sợ lọt giữa hai cái ghe rồi bị nghiến cho dẹp lép sao?

Nó hỏi như thế bởi khoảng cách giữa hai chiếc ghe luôn dao động. Sợi dây nối liền chúng khi căng ra hết mức, lúc thì thun lại cho đến nổi mũi chiếc nầy và lái của chiếc kia hun nhau thắm thiết. Nếu sóng bất thình lình ghen tức, xô chúng giạt ra liền, thì cái chuyện rơi tỏm xuống sông chắc chắn không thể nào tránh khỏi. Nếu may mắn thoát chết thì cũng uống nước tới cành hông và sợ đến bay hết ba hồn bảy vía.

Út cười toe:

-Ba cái chuyện nầy dễ ợt, tao nhảy cái một, dễ dầu gì rớt.

Rồi nó chờ cho đến khi hai chiếc ghe dang xa nhau nhứt, sợi dây căng ra hết cỡ liền biểu diễn một cú nhảy hết sức ngoạn mục, làm thằng Còi lé xẹ cả hai con mắt.

Đứng nhìn thằng Còi khứa khứa, lột lột mấy củ khoai mì một cách quều quào, nó nghe ngứa tay và xốn hai con mắt quá, bèn biểu:

-Đưa cây dao đây tao làm cho, múc nước đổ đầy cái thau nầy đi.

Còi răm rắp làm theo mà không hỏi lại một tiếng nào. Tướng tá thằng Út hiên ngang, lời nói dõng dạc nên nó tuân theo không một chút nghi ngờ.

Thằng Út cầm cây dao yếm gọn hơ. Nó chặt bỏ hai đầu củ khoai, rạch một đường dọc theo chiều dài từ cuống đến đuôi rồi thảy vô thau nước ngâm. Động tác của nó rất nhanh và dứt khoát, đúng là dân lột khoai mì chánh hiệu. Chắc cả ức, cả muôn, cả thiên... củ khoai mì đã qua hai bàn tay của nó!

Thấy thằng Còi ngưng múc nước, cầm củ khoai vừa được bỏ xuống lên bóc vỏ, nó can:

- Khoan lột, cứ đổ cho ngập khoai, ngâm lâu chừng nào lột lẹ chừng nấy!

Mấy ngón tay của thằng Út nhanh thoăn thoắt. Còi ngấm ngầm đua, thế nhưng nước chưa đầy thau mà nó đã chặt và rạch bụng hết mấy củ khoai rồi hất cái đống vỏ xuống sông.

Nó thọc hai tay vô thau nước, đảo cho lớp khoai dưới đáy nằm lên mặt để lột trước. Những củ khoai nầy đã uống no nước, thịt nở căng đến nức áo, nên cởi ra nhanh cóc kỳ.

Nhờ thằng bạn có kinh nghiệm đầy mình mới quen nầy, Còi ta thanh toán cái rỗ khoai mì một cách nhanh chóng. Nó khoe thằng Út:

-Ngày mai nhà tao ăn bánh cay, bánh xếp khoai mì nè!

Để tỏ ra mình là người biết điều, nó rủ:

-Mầy qua ăn cho vui nghe!

Út trề môi lắc đầu. Nó gặng:

-Sao vậy?

Thằng nầy nói tỉnh bơ:

-Ngán thấy bà cố!

Còi ngạc nhiên:

-Ngon như vậy mà mầy chê hả?

Út gật đầu. Còi hỏi tiếp:

-Vậy mầy có thích ăn bánh tầm khoai mì chan nước cốt dừa hông?

Thằng Út lại lắc đầu:

-Đừng có nói khoai mì với tao. Cho dù khoai mì ướp xả, nghệ, hành, ớt rồi vò viên đem chiên; chè chuối chưng khoai mì; khoai mì nấu chè xôi nước; bánh xếp khoai mì; bánh khoai mì nướng; bánh ít khoai mì; bánh chuối khoai mì; bánh kẹp khoai mì...hay làm cái món gì gì bằng khoai mì, có ngon cách mấy đi nữa, tao cũng ghét tuốt luốt!

Còi hỏi tiếp:

-Vậy thì mầy thích ăn món gì nhứt?

Út nuốt nước miếng rồi trả lời:

-Bây giờ tao chỉ thích ăn cơm với món gì cũng được. Nhưng mà tao thèm nhứt hạng là cái món cơm chiên bỏ thiệt là nhiều hành với tóp mỡ.

Vợ Ba Rum đang ngồi trên mui ghe, gần đó. Từ nãy tới giờ lắng tai nghe tụi nó trò chuyện không bỏ sót tiếng nào. Đoán chừng vợ Năm Già hay cho cả nhà ăn khoai mì trừ bữa thì cảm động chịu không nổi.