← Quay lại trang sách

- 7 -

Hai đứa học trò mới tinh ấy hăng hái quá xá cỡ. Có tập, viết rồi là đòi bắt tay vào học ngay. Chắc chúng sợ nếu trì hoãn ông thầy sẽ đổi ý.

Ông thầy Còi cầm cục phấn viết những chữ cái, số và dấu xuống tấm thiếc lót mui ghe trong chòi cho chúng chép lại. Vừa viết vừa phát âm từng chữ để tụi nó bắt chước đọc. Hai anh em thằng Út thấm nhanh như đất khô hút nước. Viết vừa xong là tụi nó đọc ro ro chừng vài bận là thuộc liền.

Còi ta hết vốn ngay lập tức, cố suy nghĩ mà không nặn ra được món gì để dạy thêm.

Cũng may là trong lúc bế tắc thì Út Anh chợt hỏi:

-Tên của tao viết làm sao hả mậy?

Nó liền viết tên từng đứa vào miếng nhãn in trên bìa tập, rồi dạy chúng đánh vần. Thế là hình thành một cách dạy rất độc đáo, vô tiền khoáng hậu!

Ông thầy giáo ngang xương nầy bỏ qua giai đoạn ghép vần ngược, vần xuôi. Ổng chỉ cho hai đứa học trò của mình nhận mặt chữ, viết rồi đọc luôn không cần phải đánh vần.

Cách dạy nầy không giống ai hết! Học trong lớp, một cách có hệ thống và đúng bài bản thì thầy, cô phải nghĩ ra chữ trước rồi mới dạy cho học trò, không cần biết chúng có thích, có hiểu hay không, chỉ cần lập lại cho đúng là được. Chúng phải học theo trình tự: Nguyên âm trước rồi tới phụ âm, kế đó là từ và cuối cùng mới là câu và những thứ khác.

Những cái chữ rời rạc ấy, không dính vào nhau và vào đâu cả. Chúng trơn tuột, té dồn cục dưới đáy bởi chẳng có cái móc hình dấu hỏi nào để bám vào.

Tụi nó thì ngược lại, hai đứa học trò thắc mắc tới đâu, ông thầy giải đáp tới đó. Hổng biết chữ nào, hỏi thì ổng mới viết ra, dạy đọc chữ đó!

Anh em thằng Út sau khi thuộc làu cái tên của mình rồi, thì bắt đầu học đến tên của những người thân, trừ tên ba má, ông bà là phải giấu cho thật kỷ. Dĩ nhiên là tên của ông thầy phải biết trước tiên, kế đó là bất cứ đồ vật gì mà chúng thấy và nhớ ra.

Phương pháp nầy ngược hẳn với đường lối của các thầy cô từ xưa đến giờ. Không có sư, theo phạm nào hết nhưng đem lại kết quả ngoài sức tưởng tượng. Giống như trò đào lỗ còn thầy gieo hạt vậy. Mảnh đất hoang trong đầu chúng đang xanh tốt dần theo từng ngày, từng giờ, từng phút, từng giây...

Tụi nó đói chữ lâu ngày quá nên ăn bao nhiêu cũng hổng thấy no.

Con nhỏ Út em ban đầu còn mắc cỡ, cứ kề miệng sát tai thằng anh nhờ hỏi giùm. Sau nầy thấy ông thầy hiền khô thì bạo dạn dần lên, hỏi tưới hột sen, còn nhiều hơn thằng anh. Hai đứa nó thay phiên nhau, hỏi liền liền khiến thằng Còi viết muốn mòn tay, trả lời thiếu điều ná thở!

Khi chúng chưa kịp nhớ ra chữ mới, thằng Út lại chỉ vào mấy câu ca dao trong cuốn tập của mình mà hỏi. Mấy câu ầu ơ, ví dầu đó đã nằm trong lòng hai anh em nó từ lâu lắm rồi! Chúng đã được đưa vào máu cùng lúc với những dòng sữa mẹ nên quá ư thân thuộc. Giống những người bà con rất hiền, rất tốt, được nghe nhắc tên hoài mà không gặp mặt, nay được dịp hội ngộ, lòng cảm mến bỗng tăng thêm gấp bội. Bởi bắt nguồn từ sự thương yêu nên thấu hiểu một cách vô cùng nhanh chóng.

Bốn người lớn, cha mẹ tụi nó, không giấu nổi sự ngạc ngạc nhiên khi nghe Út anh, Út em vừa đọc "i,u, ư..." xong là nhảy qua học mấy câu thơ lục bát rồi đọc ào ào!

Khả năng nhớ và viết của chúng khiến Còi tuy không nói ra nhưng bái phục sát đất. Chỉ cần đọc qua một, hai hoặc nhiều lắm là ba lần là chúng đã thuộc nằm lòng và viết lại y chang. Con nhỏ em còn giỏi hơn thằng anh một bực. Đôi lúc Còi còn tự hỏi: " Con nhỏ nầy bộ có giấu cái hột quẹt ở trong đầu hay sao mà sáng dạ dữ thần án địa vậy trời!".

Thằng Út Anh lại khiến ông thầy nó bất ngờ vì khả năng tính nhẩm thiên phú của mình.

Mấy bài toán cộng, toán trừ, có một hoặc hai chữ số được nó làm một cái ào trong đầu, nhanh hơn bất cứ đứa nhỏ nào mà Còi đã biết. Nó mê làm toán lắm! Chẳng những nhớ các mặt số rất nhanh, mà còn ghiền đọc cữu chương còn hơn ca vọng cổ, mới ngộ!

Con Út em thì cứ bắt ba má nó moi ra mấy câu thơ, câu hò, câu ru vùi sâu trong dạ.

Ba` nó phải móc lần lần trong bụng ra mấy câu thơ Lục Vân Tiên cho nó cầm đưa cho ông thầy, nhờ dạy viết vô tập rồi học từng chữ cho thuộc làu làu.

Không có hình ảnh nào khiến cha mẹ chúng sung sướng, hả hê cho bằng thấy ba đứa nó chụm đầu vào nhau cùng học, cùng hỏi.

Phản ứng của hai gia đình hết sức trái ngược. Vợ chồng Năm già thì rơm rớm nước mắt. vợ chồng Ba Rum thì chẳng thể che giấu nụ cười rạng rỡ trên gương mặt ngời ngời một niềm hãnh diện!

Kể ra cái công sức họ bỏ ra từ trước đến giờ, hầu như đã được bọn chúng đền đáp một cách thỏa đáng bằng niềm vui hết sức lớn lao đó!

Khúc sông ở hạ nguồn, nhà cửa ven bờ rất thưa. Dân ở đây ít dựng nhà cạnh sông. Hình như họ thích sống kế đường lộ để tiện đi lại, buôn bán.

Bà con vùng nầy được gọi là dân miệt vườn (có nơi còn gọi là miệt dưới). Sở dĩ mang tên đó, vì họ trồng cây ăn trái còn nhiều hơn hoặc ngang như trồng lúa.

Những ngôi nhà nằm khuất giữa vườn cây, đa số đều rộng và thấp, với những khối tròn tròn bao quanh.

Những khối tròn tròn đó không phải để trang trí đâu! Nó giữ một địa vị chiến lược, hết sức quan trọng, ảnh hưởng đến sự sống còn của họ. Nó chính là dụng cụ dùng để chứa nước. Vì con sông cho nước mặn cả hai mùa, mưa lẫn nắng, nên nhà nào cũng sắm cả mấy chục cái lu to đùng, gọi là mái vú, để trữ nước xài đủ quanh năm, suốt tháng.

Những cái lu ấy được xếp quanh mái nhà để hứng nước. Chúng y như những tên lính cần mẫn đứng lì một chỗ, bất di bất dịch, cả sáng lẫn tối, từ ngày nầy qua tháng nọ đến năm kia. Chúng chẳng bao giờ đào ngũ, cho đến khi tàn hơi, rả xác thì cũng ngã gục ngay tại chỗ, bày tỏ tấm lòng trung thành có một không hai của mình đối với chủ.

Mảnh vườn bao quanh nhà được chia thành nhiều ô bởi mấy cái mương, xẻ ngang, xẻ dọc.

Những cái mương đó được đào trước là để đắp luống, sau lên giồng cho cao rồi trồng cây trên ấy. Đáy mương phải thấp hơn mặt sông để nước tùy tiện ra vào.

Ở đầu con mương người ta thường đóng đăng, đặt lộp. Mấy con cá nào quá tò mò, định chạy vô xem thử một lần cho biết, sẽ bị mắc kẹt, chẳng thể nào chui ra được.

Trong lòng mương người ta thả vài bụi lục bình, cắm mấy nhánh chà để cầm chân mấy con cá con, tép nhỏ. Tụi nầy bị dụ khị nên ở lại đấy luôn, kết hôn rồi sanh con, đẻ cháu tùm lum, tùm la, đếm hổng xuể.

Cùng một nhiệm vụ như chúng, nhưng khác vị trí đó là những bụi dừa nước. Chúng chen nhau đứng gác hai bên bờ sông. Có lẽ để canh chừng con lũ vì vậy nên vùng nầy hiếm khi bị ngập úng.

Cái bọn dừa nước nầy cũng điệu đà ghê lắm, đeo cà rá cẩn hột khắp người. Đó là mấy con ốc tròn tròn, dẹp dẹp, đen đen... chúng chỉ cỡ đầu ngón tay út mà thôi! Lớn tối đa chừng ngón tay cái là cùng.

Mấy con ốc nầy, vì đeo dính mấy cây dừa nước không rời nên có tên "ốc dừa". Nó coi vậy mà ngon số dzách! Thịt của chúng ngọt và béo hơn mấy thứ ốc khác nhiều lắm! Có điều ăn mỏi tay nhiều hơn mỏi miệng.

Ốc dừa khi ăn phải rửa cho sạch, luộc chín. Lấy kim tây lể chấm với nước mắm me, tỏi, ớt... Khi khựi ra, cái ruột của nó to không hơn hột lúa, cho dù luộc cả rỗ mà ăn chẳng nghe thấm tháp gì. Bà con hay ví là ăn chúng giống như "cọp ăn bù mắt" vậy!

Lần đầu thấy bụi dừa nước, Còi hết sức ngạc nhiên. Nó hỏi má nuôi:

-Cái cây dừa gì mà thấp chũm vậy má?

Má nuôi nó cắt nghĩa:

-Cây dừa nước đó con!

Nó hỏi tiếp:

-Người ta trồng để chi?

Má nó nói:

-Lấy đủ thứ, lá nè, trái nè!

Còi hỏi:

-Trái của nó ra làm sao vậy má?

Bà bèn chỉ tay vào cái khối mang hình chùy, rất to, màu nâu đỏ, đứng chính giữa bụi cây mà nói:

-Con có thấy cái buồng dừa nước đó hông? Mấy cái đuôi nhọn nhọn ghim xung quanh, dính lại thành một chùm kẹo nẹo là trái của nó đó!

Còi lại hỏi tiếp:

-Cái trái nầy có ăn được hông má?

Bà gật đầu:

-Được! Nó cũng giống như trái thốt lốt, có điều vị lạt hơn và không thơm, ngon bằng. Phải ăn lúc còn non, cơm dẻo mới ngon. Để càng già thì cơm càng cứng, ăn xảm xì, nhai mỏi miệng lắm!

Thấy gương mặt nó lộ vẻ đăm chiêu, như đang cố tưởng tượng ra mùi vị của cái thứ trái cây lạ lẫm ấy.

Bà bèn hứa:

-Để tới Sài gòn rồi má mua cho con ăn để biết với người ta!

Nó hỏi tới:

-Bộ ở Sài Gòn có trồng hả má?

Má nó cười trước câu hỏi ngờ nghệch đó. Bà đáp:

-Cái đất Sài Gòn chỉ có trồng nhà cửa là nhiều thôi, còn cây trái thì le hoe hà con ơi! Mà cây ở đó trồng cũng để ngó cho vui chớ ít ăn được lắm! Vậy mà cái gì cũng có hết đó con. Người tứ xứ họ trồng được thứ gì, xài hổng hết cũng đem tới bán. Người Sài Gòn hể thấy cái gì ngộ ngộ, lạ lạ là phải xài thử, ăn thử, cho bằng được. Chịu khó ra mấy cái chợ kiếm thì thứ gì cũng có hết.

Hài lòng về phần trái rồi nó bắt đầu hỏi qua phần lá:

-Còn cái lá của nó thì người ta làm gì hả má?

Bà bèn chỉ tay lên nóc chòi nói:

-Người ta làm lá lợp nhà giống như vậy nè!

Còi nhìn những tấm lá trên chòi, so sánh với mấy tấm lá trên cái nhà nhỏ đang đứng trên bờ, rồi hỏi:

-Sao cái nhà đó người ta lại để nguyên tàu lá mà lợp vậy má.

Bà lại cắt nghĩa:

-Ở đây cây dừa nước mọc lềnh khênh nên họ xài phủ phê. Chỉ cần chẻ tàu lá ra làm hai rồi lợp cho nó nhanh. Người miệt trên đâu có trồng được, phải mua nên họ tiết kiệm, lợp lá chầm không hà!

Còi lại hỏi tiếp:

-Tại sao gọi là lá chầm vậy má!

-Lá chầm là lá dừa nước được rọc ra rồi kết lại thành từng tấm một. Người ta chẻ cọng dừa ra thành từng miếng dẹp dẹp. Ngang cỡ một lóng tay, dài chừng một thước, để làm sống lá. Thợ chầm lá, dân chuyên nghiệp, vài ngày là chầm được cả thiên lá đó con.

Còi thắc mắc:

-Má có biết chầm hông má?

Má nó kiên nhẫn giải thích:

-Ở quê má hồi trước có một cái dựa lá. Khi má còn nhỏ, lúc rảnh rổi hay tới đó chầm lá, mót tiền để dành sắm quần áo. Mình phải lấy một tấm lá bự kèm theo một tấm lá nhỏ bên trong. Đặt nó lên sống lá rồi bẻ cụp lại, phần đuôi dài gấp đôi phần cuống, kết những tấm như vậy lại với nhau bằng sợi dây lạt. Dây lạt là những cái lá non xèo, còn trắng bóc, cuống được giạt xéo cho bén. Nằm giữa hai tấm lá bự đó là tấm lá nhỏ lót bên trong. Sợi lạt nầy xuyên qua hai tấm lá nầy rồi bắc cầu với hai tấm lá kế. Nó tạo thành một đường thẳng hàng y chang như mũi đột thưa nằm trên quần áo vậy!

Bà vừa nói vừa diễn tả bằng hai bàn tay,bộ tịch như đang cầm cây kim đâm lên, đâm xuống cho nó hiểu. Thế nhưng nó chẳng thể tưởng tượng ra được một tí nào.

Nhìn nét mặt ngẩn tò te của nó, bà chán nản thở ra rồi nói:

-Ba cái nghề của đàn bà con gái! Hỏi làm chi? Biết làm chi cho mệt vậy con?

Nghe bà má nói thế nên tuy còn thắc mắc, Còi cũng đành làm thinh, không hỏi tiếp.

Nó đang định gọi anh em thằng Út đem tập qua học, bỗng trông thấy một con cá mình mẩy đen thui, lớn bằng ngón chân cái, dài chừng một gang nhảy loi choi trên bãi sình ven bờ.

Nó bèn kêu toáng lên:

-Má ơi! Con cá có chưn, con cá có chưn!

Má nó nhìn theo hướng ngón tay trỏ của nó rồi cười:

-Con cá thòi lòi đó, bộ con chưa thấy lần nào sao?

Nó lắc đầu:

-Ở chỗ con không có con cá nào giống như vầy.

Bà gật đầu:

-Cá nầy sống gần cửa sông, uống nước lợ, ở miệt dưới mới có.

Nó hỏi:

-Con cá nầy nhìn bộ dạng dị hợm quá! Hai con mắt lòi hết ra ngoài lại chạy nhảy trên bờ y như con ếch vậy. Chắc nó cũng có chưn phải hông má?

Má nó lắc đầu:

-Chưn ở đâu mà có! Con cá nầy tính tình nóng nảy, hay nhảy tưng tưng, tưởng có chưn mà không phải. Cái bụng nó cứng lắm, đập xuống đất rồi dội ngược lên thôi hà!

Nó hỏi tiếp:

-Cá nầy ăn được hông má?

Bà chắc lưỡi một cái rồi nói:

-Ba con cá nuôi trong hầm, nước không chảy vô chảy ra được thịt còn tanh huống hồ... Mấy con thòi lòi nầy suốt ngày đầu cổ, mình mẩy vùi trong sình chắc là hôi lắm!

-Bộ má chưa ăn qua hả má?

Lần nầy thì má nó rùng mình:

- Có một lần má nghe người ta đồn thịt của nó tốt lắm! Ai mà ăn thì được bổ gân, bổ cốt, hết nhức mình. Má mới ra chợ mua một mớ, tính làm cho ba con ăn coi có bớt cái bịnh đau lưng của ổng hông. Má đem về làm, chặt bớt cái mỏ, mổ bụng, lột da hẳn hoi rồi nhúng xuống sông rửa. Rõ ràng là tụi nó chết ngắc hết rồi. Hổng dè cái rỗ vừa nằm xuống nước là chúng phóng ra hết ráo. Má sợ thất kinh hồn vía, y như gặp ma vậy! Từ đó tới giờ không dám mua, cũng không dám ngó nó nữa!

Hai mẹ con đang nói đến đó thì có tiếng thằng Út gọi từ bên ghe của nó:

-Hên ơi! Đi tắm hông?

Nó quay sang hỏi:

-Con đi tắm với nó nghe má!

Chẳng là hôm qua, lúc thằng Út đang nắm cái núc của sợi dây luộc thả lòng thòng bên hông ghe để tắm. Sợi dây nầy dùng cột mấy cái vỏ xe hơi treo bên hông ghe để làm miếng đệm, phòng khi va chạm ghe không bị bể. Chỗ đầu dây còn thừa dài cả thước được cột lại thành một cái núc to bằng nắm tay, thả dưới nước. Nó bỗng thấy thằng Còi ngồi trên ghe, cầm cái gáo cán dài múc từng gáo nước dội lên đầu liền ghẹo:

-Mầy là con trai, sao không đu dây tắm mà múc từng gáo nước xối y như con gái vậy?

Nó quê một cục, đáp lí nhí:

-Tao chưa có tắm cái kiểu đó lần nào...

Ba Rum nghe nó trả lời thằng Út bằng cái giọng ấp úng, ngại ngùng thì tội nghiệp. Ông đang nằm đọc sách, liền bỏ cuốn truyện xuống rồi ngồi dậy hỏi nó:

-Con có thích tắm kiểu đó hông?

Nó vừa đáp, vừa hỏi:

-Con thích lắm, nhưng mà rủi vuột tay có chết hông ba?

Ổng nói:

-Để ba dạy cho. Chừng biết rồi thì dễ ợt hà, hổng có hề hấn gì hết!

Nói rồi ổng đi tắm với nó.

Đầu tiên ổng ôm nó chỉ với một tay. Bàn tay còn lại ông nắm dây cho nó yên tâm là sợi dây rất chắc. Kế đó ổng biểu nó bám sợi dây đó bằng cả hai tay.

Cuối cùng thì nó cũng dạn nước, không còn lo sợ nữa. Lựa lúc nó đang mê mãi giỡn nước, ông mới thả tay ra khỏi người nó. Ông làm điều nầy một cách từ từ và hết sức nhẹ nhàng, bởi nếu đẩy nó ra một cách đột ngột thì với cái tinh nhát hít của mình, nó có thể hết hồn, chới với rồi buông tay, rồi chìm nghĩm, rồi uống nước cành hông!

Nó nhắm mắt tận hưởng cái thú được nước nâng lưng, vỗ bụng, vò đầu...Sức đẩy của nước và sức kéo của chiếc tàu tạo thành một lực ma sát lên toàn thân khiến nó vô cùng khoan khoái. Như thể có vô số bàn tay xoa, vuốt khắp người không bỏ sót một mi li mét nào. Cứ tưởng đang còn ở trong vòng ôm của ba mình nên chẳng sợi gì hết! Bám chặt cái núc của sợi dây rồi ngửa mặt mở mắt nhìn trời và dõi theo những con sóng hình chữ V do mình bỏ lại đang từ từ lan rộng. Cái cảm giác như mình trở thành một con tàu ấy mới thú vị biết bao!

Mãi một lúc lâu sau nó mới phát hiện là Ba Rum đang bám vào vách ghe. Hai tay tuy không còn đặt sau lưng để chực hờ ôm giữ, nhưng mắt vẫn theo dõi, miệng vẫn hướng dẫn để nó làm cho đúng. Vậy là ông đã buông dây và buông cả nó ra từ hồi não, hồi nào. Nó bỗng có được sự tự tin và mừng quá cỡ vì đã biết tắm theo kiểu đu dây.

Kiểu tắm nầy giống y như một trò chơi, một bài thể thao, không nguy hiểm như nó nghĩ. Chỉ cần nắm thật chắc sợi dây không buông ra là được. Với vận tốc của một chiếc tàu kéo mấy chục chiếc ghe, lại đi nước ngược như vầy, thì cho dù bị tuột tay, miễn còn đủ bình tỉnh, nó vẫn bơi theo kịp.

Thằng Út đang xung gà tre, liền biểu diễn mấy pha hết sức ngoạn mục: Nào là buông dây cho nước đẩy xa cách ghe mấy thước rồi mới bơi theo và bám bánh lái đu lên. Nào là liên tục đổi thế nằm sắp, rồi nằm ngửa. Nào là không thèm dùng tay cầm dây mà dùng hai cạnh bàn chân kẹp cứng cái núc, rồi dang thẳng hai cánh tay ra, giả bộ làm máy bay...

Trước cặp mắt thán phục của nó, Út ta hứng chí, làm đi làm lại đến mấy lần. Các động tác càng lúc càng khó khăn, vừa làm vừa liếc để tìm kiếm những nét thán phục trên gương mặt nó.

Nó theo dõi thật kỹ, ghi nhớ từng động tác một, quyết định sẽ ngấm ngầm luyện tập cho thật nhiều, thật giỏi. Nó chờ cho đến khi những pha biểu diễn của mình ngoạn mục hơn, nguy hiểm hơn...Sẽ rủ thằng Út thi, rồi qua mặt một cái ào để thằng nầy không còn nhìn nó bằng nửa con mắt.

Má nó định can nhưng thấy nó hăng quá nên nói:

-Thằng Út nó biết rành lắm! Tập lâu lắm! Lội giỏi lắm! Nó buông dây mới hổng bị làm sao. Con mà bắt chước là bị nước cuốn, sóng đè thở không nổi đó.

Nó năn nỉ:

-Con hổng có buông dây ra đâu, má đừng có lo.

Dù nó nói vậy nhưng bà vẫn không yên bụng. Bèn gọi to:

-Ông ơi! Có rảnh hông vậy?

Ba nó đang cột cái cán quạt liền dừng tay hỏi:

-Chi vậy?

Bà gằn từng tiếng:

-Thằng Hên nó đòi đi tắm với thằng Út nè!

Biết ý bà nên ông đáp:

-Bà biểu nó chờ một chút, tui cột cây quạt rồi tắm chung với tụi nó liền!

Thằng Còi muốn chứng tỏ cho thằng Út thấy mình giỏi, nên chẳng những né tránh những cái ôm, vịn... của ba nó, mà còn không thích ông bơi quanh quẩn gần mình nữa.

Ba Rum thấy vậy bèn để cho hai đứa nó chơi với nhau, đi gỡ tay lưới giăng dưới lườn ghe ra. Mấy sợi dây câu thì khỏi vì hôm qua đã tháo trước khi tắm rồi quên thả lại.

Ông hít một hơi rất sâu rồi lặn mất dạng, hồi lâu mới trồi lên, trên tay là tấm lưới có mấy con cá trắng trắng giãy giụa lung tung cố thoát.

Còi ta thấy mấy con cá quen thuộc ấy, thì mừng như gặp bà con. Nó liền gọi to cho thằng bạn đang biểu diễn cái trò dang tay làm cánh máy bay, lượn qua, lượn lại tới xem:

-Cá linh, cá linh kìa Út ơi!

Thằng Út bơi lại nhìn một cái rồi trề môi:

-Cá đó mà mầy kêu là cá linh hả?

Còi hỏi ngược lại:

-Hổng phải nó thì còn ai vô đây?

Rồi nó nói thêm, giọng đầy thán phục:

-Cá linh ở đây lớn quá xá cỡ!

Ba nó cười:

-Con ngó kỹ coi! Thấy giống vậy chớ không phải. Nó là cá đối, chú bác ruột với con cá linh thôi hà!

Rồi ổng hỏi nó:

-Con có nghe câu: "Con cá đối nằm trên cối đá" hông? Nó đó!

Còi hỏi:

-Ở miệt nầy có cá linh hông ba?

Ông lắc đầu:

-Mùa nầy chắc kiếm đỏ con mắt cũng không ra, chờ nước nổi mới có. Cũng ít xịt chớ không nhiều bằng ở miệt trên. Tụi nó bị mấy cái lưới, cái đáy chặn bắt gần hết rồi.

Ông gọi vợ:

-Bà ơi! Bắt mấy con cá ra giùm tui!

Bà vói tay ra cầm rồi nói:

-Cá nầy kho lạt mới ngon! Nhưng mà ít quá, có mấy con sợ hổng đủ ăn. Thôi để tui kho tiêu rồi nấu một nồi cháo trắng nước dừa đặng ăn kèm với dưa mắm cho tròn một bữa.

Nó cản:

-Con ghét ăn cháo lắm!

Ba nó rầy:

-Con chưa ăn nên hổng biết đó thôi! Má con mà nấu cháo trắng nước dừa ăn chung với cá kho tiêu, kèm dưa mắm ướp tỏi ớt, là ngon tới quên thôi luôn!

Thấy cái mặt của nó còn chầm vằm. Ba Rum biết câu nói của mình chưa thuyết phục được nó. Coi bộ ổng rất không vừa bụng, cho là nó không tin tưởng mình nên gằn giọng:

-Bây ăn mà hổng ghiền thì đừng có kêu tao bằng ba nữa!

Má nó nghe vậy thì quyết trổ hết tài nghệ ra cho nó thấy. Bà lựa một trái dừa thật ngon, nạo rồi vắt lấy nước cốt để riêng ra. Phần nước dão thì cho vô trước để nấu chung với gạo.