CHƯƠNG V
MÕ ngoài điểm đổ hồi tan canh, bà Bát lên nhà thờ gọi Chính:
– Sáng rồi, gọi các anh dậy, ăn cơm rồi sắm sửa đi kẻo muộn.
Chính ngồi nhổm dậy. Tuy đêm chàng ngủ rất ít, nhưng không mệt nhọc mấy. Óc chàng lúc nào cũng tỉnh táo, vì luôn luôn luẩn quẩn nghĩ. Chàng không nghĩ sao dược. Còn gì sung sướng hơn người con trai sắp kết hôn với một người con gái vừa ý. Chàng mừng và mong chóng sáng. Chàng cũng nghĩ đến bổn phận sau này, bổn phận làm chồng, bổn phận làm rể, rồi đến bổn phận làm cha. Chàng tính đến cách sinh nhai khi cha mẹ già yếu. Chàng phải học hành, đỗ đạt, để sau này làm rạng rỡ họ hàng. Chàng lo. Nỗi mừng, nỗi lo đã làm chàng mất ngủ mấy đêm nay. Gia dĩ từ sáng hôm kia, ở Nho-Quan về, chàng phải tiếp khách, lên nhà trên, xuống nhà dưới, đi lại quần quật không lúc nào rảnh. Vậy mà óc làm việc, chân tay làm việc, song chàng vẫn khoan khoái, tỉnh táo như thường.
Chàng ra hiên nhìn trời. Sao trên không lấp lánh như những hạt bạc đính trên tấm nhung đen.
Trời hôm nay có vẻ tươi sáng, tạnh nắng. Chính trông xuống bếp: dưới những ngọn đèn treo tỏa ra một thứ ánh sáng vàng, người nhà vẫn yên lặng làm việc cơm nước một cách tấp nập. Chàng cảm động thấy ai nấy bận rộn vì mình. Chàng súc miệng, rửa mặt, rồi vào đánh thức các bạn.
Một lát sau, bốn mâm cỗ bưng lên nhà khách. Ông Bát mời cụ Cử và bọn học trò đi uống rượu với bọn họ hàng dự cuộc đón dâu.
Vì ngái ngủ, vả bữa cơm này chỉ là đồ điểm tâm thôi, nên mọi người ăn chiếu lệ. Người ta chỉ uống dăm ba chén rượu lấy sức, hoặc một hai bát cơm khỏi mệt mà thôi. Vả để đi sớm cho được việc.
Trời đã tang tảng. Một thứ ánh sáng xanh lờ mờ đã gần soi rõ các cảnh vật. Ông Bát sai tuần đốt bốn ngọn đuốc đứng chờ ở sân.
Khi mọi người đã khăn áo chỉnh tề và lễ vật đã sắp sẵn, ông mới lên nhà khách, sai đốt bánh pháo, rồi gãi tai nói:
– Các cụ, các ông, các bà đã có lòng yêu tôi và thương đến cháu, vậy xin ra thuyền kẻo muộn.
Chính vui sướng theo các bạn, miệng nhai trầu bỏm bẻm.
Đám đón dâu thong thả đi đầu làng, rồi theo đường khuyến nông nhỏ, ra bến Nứa.
Sáng rõ dần. Mặt trời xuân hiện lên ấm áp và long lanh. Giọt sương trên đầu cỏ tóe ra những mầu của kim cương. Chính đội chiếc nón dứa chóp bạc mới, cố đi ở giữa đường cho khỏi ướt mờ mũi giầy gia định mới và khỏi lấm bít-tất trắng. Chàng nhìn những thửa ruộng của cha chàng trồng mầu. Những luống cải hoa lý đứng thẳng thắn trên nền đất xám. Những hàng khoai lá tím xen lẫn với lá xanh già.
Đám cưới theo con đường quanh co, vừa đi vừa chuyện ồn ào. Cụ Cử được mọi người kính trọng nhất vì tuổi tác, vì học thức, nên nói nhiều nhất. Cụ giảng về địa lý khi thấy một ngôi mả đẹp; cụ giảng về địa dư và lịch sử khi có một ngọn núi phớt tím hiện ra ở phía chân trời.
Vì vậy, đi đã khá lâu, nhưng không ai thấy mệt. Người ta yên lặng nghe, và lễ phép trả lời bằng tiếng «dạ ». Thỉnh thoảng, cụ lại dừng ở một gốc đa để đọc và bình phẩm đôi câu đối khắc trên cột vôi của một cái miễu, hoặc để ngắm nghía cách kiến trúc sơ sài nhưng chắc chắn của một cái cầu gạch cạnh đường.
Vì đi thong thả, nên đến bến Nứa, mặt trời lên đã khá cao. Mười lăm người chia nhau xuống ba chiếc thuyền có che mui thấp. Các ông bà già xếp chỗ nằm nghỉ. Bọn trai trẻ, kẻ ngồi trong khoang, người đứng ngoài mũi, ai nấy yên trí theo giòng nước chảy nó đưa đi, không nóng ruột.
Thuyền xuôi, lại có bốn tay chèo lực lưỡng, nên trôi băng băng. Chính thấy rằng ngắm cảnh bây giờ là làm một việc vô ích. Cảnh này đối với chàng không lạ. Vả dù có lạ, rồi chàng còn phải đi về lối này cho đến ngày đầu bạc lưng cong, thì bao giờ hưởng phong cảnh không được. Chàng bèn xin lỗi các bạn, chui vào trong khoang, cởi khăn, cởi áo, đi nằm, nhắm mắt lại. Chàng muốn nhân lúc rỗi, được chợp ngủ một tí. Cả ngày hôm nay, chàng còn phải bận rộn, và, rồi tất phải thức cho đến khuya. Rồi đến khuya, chàng đã được ngủ đâu, chàng còn tiếp vợ mới. Nghĩ vậy, chàng thấy lòng rạo rực. Vậy chàng cần phải ngả lưng, dù không ngủ được, thì lan man nghĩ, để ngắm cái cảnh của tương lai, của hạnh phúc, còn thú hơn cái cảnh của tạo hóa.
Nhưng thuyền rập rềnh như ru, Chinh ngủ được. Khi đến đầu làng Phương-Bá, sắp tới bến, Hạnh mới gọi chàng dậy. Chính mỉm cười. Có lẽ chàng đã ngượng với mọi người vì giấc ngủ quá ngây thơ. Chàng lấy vạt con áo chùi mắt và lau mặt, rồi soi gương để đội khăn mặc áo cho chỉnh tề. Chàng đứng dậy, ra đằng mũi, vặn mình và bẻ khục tay.
Đầu làng Phương-Bá, với cái cầu gạch xây vòng lên, với cây si uốn éo trên bờ ao bán nguyệt, rủ bộ rễ xuống làn nước trong xanh như món tóc của người gội đầu, những thức ấy đối với chàng không lạ mắt. Chàng còn nhớ như in trong óc, ngày năm ngoái chàng sang nhà ông Đồ với cha chàng. Chàng thuộc cả đường vào nhà dù đường ấy ngoắt ngoéo.
Thuyền vào bờ, mọi người lên cạn. Dân làng đã đổ ra xem rất đông để ngắm chú rể.
Vượt qua đến hàng trăm đám chăng dây, bọn đón dâu mới đến đầu ngõ nhà ông Đồ.
Bỗng một tràng pháo dài nổ. Mọi người theo phía có làn khói xanh thơm để đi vào.
Nhà ông Đồ tuy nhỏ, hẹp, nhưng ai cũng khen là ngăn nắp và có vượng khí. Ông bà Đồ ra tận cổng đón họ nhà trai. Ông vái dài cụ Cử mặc áo thụng xanh cầm hương đi đầu. Ông mỉm cười chào những người quen ông sẵn, hoặc nghiêm trang chào những người chưa quen.
Ông mời quan viên vào nhà, và vui vẻ nói:
– Nhà cháu thì thanh bạch, lại được ông bà Bát bên ấy thương yêu, chẳng quản nghèo hèn, nhận làm thông gia, chúng cháu thật sung sướng quá.
Cu Cử bước lên thềm, nói:
– Ông quá nhún nhường, hai bên cùng là thế gia, thật đôi trẻ xứng quá, tôi rất mừng.
Ông Đồ mời khách đàn ông ngồi trên dãy phản kê bên trái giường thờ, và khách đàn bà ngồi trên dãy phản kê bên phải.
Ông nhờ ông Phó Lung là em ruột tiếp khách đàn ông, và bà Tư Tích tiếp khách đàn bà. Ông bà phải chạy đi chạy lại, và xuống bếp gióng giả người nhà sửa soạn cỗ bàn.
Người nhà ông hầu hạ nhanh nhẹn và lễ phép. Toàn là trai trong họ đến làm giúp cả.
Nước chè tầu ngào ngạt bốc hơi thơm, ông Đồ gãi tai mời mọi người giải khát. Bà Đồ bưng bốn đĩa trầu đặt trên bốn phản. Ai thấy ông bà mặt mũi phúc hậu, cử chỉ dễ dãi, cũng đoán được là cô con gái tất biết ăn ở đầy đặn, và âu yếm họ hàng.
Một lát, mâm cơm đầy ăm ắp những đồ ăn bưng lên, đặt trên bàn thờ. Ông Đồ mặc áo thụng, vào lễ và khấn gia tiên. Mọi người đứng cả dậy, yên lặng. Lễ xong, ông nói với các cụ:
– Xin phép các cụ cho chú rể vào lễ.
Ông lang Minh bên nhà trai, tức là trưởng họ, gọi:
– Cậu Cả đâu?
Chính đã chờ ở hè. Chàng thong thả tiến vào chiếu, đứng ngay ngắn, và lậy bốn lậy thong thả.
Đoạn, ông lang nói với ông bà Đồ:
– Xin rước ông bà ngồi, cho cháu được mừng tuổi.
Ông Đồ chắp tay, lễ phép đáp:
– Thôi ạ, để xin miễn, chúng tôi còn trẻ trung, xin các cụ tha cho chúng tôi được sống lâu.
Nhưng ông lang không nghe, cứ kéo tay ông Đồ ngồi xuống phản, và sai giải chiếu, ông lại hất hàm làm hiệu cho Chính. Ông Đồ cuống quýt, vừa lắc đầu, vừa kéo tay ra:
– Tôi không dám nhận lễ đâu. Cháu còn bé dại, được về làm dâu bên ông bà Bát tôi, tôi đã mừng lắm rồi. Để cậu Cả mừng tuổi ông bà Bát là đủ.
Ông lang càng nằn nì:
– Tứ chi phụ mẫu, xin ông bà cho cháu được trọn đạo làm con.
Nhưng ông Đồ đã giật tay thoát. Ông chạy vội ra ngoài hiên, đứng với mọi người:
– Đành vậy, nhưng chú rể lễ gia tiên là đủ rồi.
Rồi ông mời:
– Xin rước các cụ, các ông, các bà giải tọa.
Bà Đồ lúc ấy mới ở trong buồng bước ra nhà ngoài. Ban nãy, bà cũng đi trốn. Bà đưa ông một gói bọc nhiễu đỏ, rồi đứng cạnh ông. Ông Đồ đặt gói vào cái đĩa, nói:
– Trình các cụ, các ông, các bà, thật cũng là duyên số cháu mà giời se về làm dâu bên ông bà Bát, gọi là thế, chúng tôi có cái này, thật là cây nhà lá vườn, mừng cho hai con.
Ai nấy đều chú ý nhìn cái gói. Cụ Cử gọi:
– Anh Chính đâu, ông bà cho, bái lĩnh đi.
Chính giơ hai tay cầm, và vái cha mẹ vợ một cái.
Ổng Đồ mỉm cười:
– Cậu mở ra, thật là cây nhà lá vườn.
Chính ngượng nghịu, mở tấm khăn nhiễu ra. Mọi người yên lặng, để chờ.
Thì ra trong là một tờ hoa tiên mầu cánh trấu, viết một bài thơ tứ tuyệt, bằng nét mực đen lay láy. Những người biết chữ châu đầu vào xem.
Cụ Cử khen:
– Ông Đồ làm cái gì cũng có ý nhị.
Đoạn, cụ bảo Chính:
– Anh đọc cả nhà nghe.
Chính thẹn đỏ mặt. Chàng đã nhìn bốn câu thơ của ông nhạc, và đã phục là tài tình, nhưng không dám cất lên tiếng. Cụ Cử hiểu ý, nhìn Quý:
– Anh đọc hộ anh ấy vậy, bằng ngần ấy tuổi rồi mà còn thẹn thò.
Quý dạ, lên tiếng ngâm. Cụ Cử gật gù, nức nở khen:
– Hay! Hay!
Rồi cụ giảng cho các bà đàn bà đương tò mò muốn hiểu nghĩa:
– Tôi nói qua loa để các bà hiểu. Bài thơ là ông Đồ mừng chú rể; ông mong chú rể thành đạt để nối nghiệp ông cha. Ông lại khiêm tốn, nói là không biết con ông có xứng đáng làm vợ một người hiền sĩ hay không. Kể nghĩa đen thì thế, nhưng lời thơ bóng bẩy, và còn cái hay thì không thể nói rõ được. Phải hiểu thơ mới chịu là bài này hay.
Ông Đồ sung sướng, mỉm cười. Cụ Cử nói với Chính:
– Tôi hẹn cho chú rể năm hôm phải họa lại.
Chính chắp tay:
– Dạ.
Cỗ bưng lên. Hai họ vui vẻ ăn với nhau. Câu chuyện thù tiếp không đến nỗi nhạt nhẽo.
Bà Đồ không ăn với khách. Bà ăn rồi. Giờ này, bà ở buồng nhà dưới ngồi với con gái. Bà dịu dàng, nói:
– Nhà người ta là nhà phúc hậu, mày nên ăn ở thế nào cho phải đạo, đừng để mang tiếng đến bố mẹ, con ạ.
Thúy cúi mặt xuống, đỏ hoe mắt, hai má hồng hồng. Từ nãy, nàng ngồi cạnh phản, một chân co lên để tựa cằm, một chân thõng xuống xỏ vào chiếc dép cong bóng nhoáng. Hôm nay nàng đẹp bội phần, bởi vì hôm nay nàng mới hết sức làm dáng. Nàng mặc áo băng thâm ra ngoài áo lụa đỏ. Trên hò áo, nhóng nhánh một tràng kim. Từ lúc mặc chiếc quần lĩnh mới, nàng ít đi lại, vì nghe tiếng sột soạt, nàng phát ngượng với chị em. Vả lại, từ lúc họ nhà trai tới, nàng thụt vào trong buồng không dám ra nữa. Ai chế thế nào, nàng cũng chỉ vui sướng mà cười, chứ không dọa khóc như mọi khi. Nàng trắng, lại vận bộ đồ thâm, làm tăng thêm vẻ ngọc.
Bà Đồ thấy cái phút phân ly tới dần nên không muốn bỏ sót những lời khuyên con:
– Mày đi lấy chồng, thầy u nhớ, nhưng thầy u mừng cho mày được nương tựa nơi xứng đáng.
Rồi bà thở dài:
– Cho nên cốt nhất là bao giờ cũng phải nghĩ đến mẹ cha ở nhà, đừng để người ta nói đến.
Thúy cảm động quá, sụt sịt khóc. Nàng vớ cái tráp trầu phủ khăn hoa đào để tựa tay, khẽ đáp:
– Vâng.
– U khuyên mày thì khuyên đã nhiều rồi, chẳng qua hôm nay u chỉ nhắc lại những điều u nhớ, chứ ruột u bây giờ cũng rối như mớ bòng bong.
Nói đoạn, bà lấy vạt áo chùi mắt.
Một lát, Kim, chị họ Thúy, mở mành ra, hớt hải vào nói:
– Cụ Cử đã xin rước dâu đấy, cụ chỉ sợ tối.
Bà Đồ đáp:
– Chị xem bóng nắng đến đâu rồi?
– Thưa, đứng bóng rồi. Chú cho hỏi em cháu đã sắm sửa xong chưa?
Bà Đồ thở dài, đứng dậy:
– Cho tôi còn đôi hồi với nó một vài câu đã chứ.
Đoạn, bà ngậm ngùi lên nhà trên. Kim trêu Thúy:
– Chú rể ăn cảnh giả quá, thằng Cán nó bảo chỉ ăn có hai bát, về phải dạy người ta ăn uống thế nào chứ!
Thúy đương rầu rầu, nên cau mặt gắt:
– Gớm, cái nhà chị này, trẻ con mãi!
Kim ranh mãnh cười:
– Phải, cô có chồng thì cô người lớn, ai cô cũng khinh là trẻ con.
Thúy vớ được Kim, đấm thùm thụp vào lưng chị:
– Đến lượt chị thì ai chế chị!
Nhưng bà Đồ đã lại vào. Bà tưởng Thúy vui vẻ, nên mỉm cười, lắc đầu:
– Chỉ mình nhớ nó, chứ đố nó có nhớ mình!
Rồi bà hỏi Kim:
– Các cô phù dâu đâu cả rồi?
Kim đáp:
– Để cháu gọi chị Cúc.
– Các chị sắm sửa xong cả rồi chứ?
– Vâng.
Bà Đồ thân mật nhìn Kim:
– Em thì bỡ ngỡ, có chị thạo, chị đưa em đi lễ, hoặc có gì thì bảo em nhé. Chị Cúc tiếng thế mà không bằng chị đâu.
Kim nhanh nhẩu, đáp:
– Vâng.
Bà Đồ mỉm cười:
– Chóng rồi thím làm mối cho.
Đến lượt Kim thẹn thò, và Thúy được nhìn chị bằng đôi mắt chế nhạo. Nàng không nói. Vì nàng không muốn nói. Nàng chỉ muốn yên lặng, hưởng nốt những phút âu yếm bên cạnh mẹ, dưới cái mái nhà thân yêu. Bụng nàng nao nao. Nàng khóc. Nước mắt nàng rất nhiều nghĩa. Nàng khóc sướt mướt. Nàng gục đầu vào vai bà Đồ mà nức nở.