← Quay lại trang sách

Chương 16 Bác chỉ nói cho cháu biết một ít thôi

“Tội nghiệp Blossom!”. Bác Henrik vừa nói vừa cười ha hả, sau khi kết thúc bữa tối hôm ấy. “Mẹ cháu, sau ngần ấy năm sống trên thành phố, vắt sữa cho nó là đã đủ tệ hại rồi. Đằng này lại là Annemarie! Còn là lần vắt sữa đầu tiên trong đời nữa chứ! Bác ngạc nhiên khi thấy Blossom không đá cháu đấy!”.

Mẹ em cũng phá ra cười. Mẹ ngồi thoải mái trong chiếc ghế bành mà bác Henrik đã mang từ trong phòng khách xuống kê nơi góc bếp. Chân của mẹ - được bó nẹp và băng trắng đến đầu gối - gác lên một cái ghế kê chân.

Annemarie không bận lòng khi hai người lớn cười mình. Cười vui ý mà. Lúc sáng, em đã chạy dọc theo đường cái về, hòng tránh gặp lại đám lính rất có thể vẫn còn ở trong rừng, bởi khi ấy, em chẳng mang theo gì, em chẳng hề bị nguy hiểm. Khi em về đến nông trại, mẹ em và Kirsti đã đi ra ngoài. Mẹ em để lại mấy chữ viết tháu trên một mẩu giấy, nhắn rằng mẹ đang được bác sĩ chở đến bệnh viện địa phương, rằng mẹ và Kirsti sẽ sớm trở về.

Nhưng tiếng kêu bực dọc của Blossom trong chuồng, do bị bỏ quên chưa được vắt sữa, đã khiến Annemarie phải thận trọng xách xô dùng để đựng sữa sau khi vắt ra chuồng. Em đã cố hết sức, cố phớt lờ những tiếng khịt khịt khó chịu và cái đầu hất qua hất lại của Blossom, nhớ lại cách bác Henrik dùng tay kéo một cách dứt khoát, nhịp nhàng như thế nào. Và em đã vắt được sữa.

“Em cũng có thể làm được việc ấy,” Kirsti tuyên bố. “Ta chỉ việc kéo và thế là sữa phun tia ra. Em có thể làm được dễ ợt.”

Annemarie trợn tròn mắt. Chị rất muốn trông thấy em thử vắt sữa, em nghĩ bụng.

“Chị Ellen sẽ quay lại chứ ạ?”. Một chốc sau, Kirsti hỏi, quên phéng luôn cô bò sữa. “Chị ấy bảo sẽ may cho búp bê của con một cái váy.”

“Chị Annemarie và mẹ sẽ giúp con may váy cho búp bê,” mẹ em nói với Kirsti. “Chị Ellen phải đi cùng bố mẹ chị ấy. Đêm qua, khi cô chú Rosen tới đón chị ấy đi, con không thấy đấy là một điều bất ngờ thú vị sao?”.

“Lẽ ra, chị ấy phải đánh thức con dậy để chào tạm biệt chứ,” Kirsti cằn nhằn trong lúc lấy thìa xúc thức ăn tưởng tượng đút vào khuôn miệng sơn đỏ của con búp bê được nó đặt ngồi bên cạnh, tựa chung ghế với nó.

“Annemarie ơi,” bác Henrik đứng dậy, đẩy ghế ngồi ra sau và gọi, “nếu cháu đi cùng với bác ra chuồng bò bây giờ, bác sẽ dạy cháu một bài học về vắt sữa. Hãy rửa sạch tay trước đi đã.”

“Cháu với,” Kirsti đòi.

“Không có cháu với,” mẹ nói. “Không phải lần này. Mẹ cần con giúp mẹ ở đây, vì mẹ không thể đi lại dễ dàng được. Con phải là y tá cho mẹ.”

Kirsti ngập ngừng, quyết định xem có nên cãi lại hay không. Rồi, nó nói, “Lớn lên, con sẽ trở thành y tá. Không phải là người vắt sữa bò. Vậy nên, con phải ở lại đây chăm sóc mẹ.”

Annemarie, với chú mèo con quấn chân như thường lệ, đi theo bác Henrik ra chuồng bò dưới trời mưa lất phất. Em thấy hình như Blossom sung sướng lắc lư cái đầu khi nó trông thấy bác Henrik và biết rằng mình sẽ lại được vắt sữa bằng đôi tay khéo léo.

Annemarie ngồi trên đống rơm, quan sát bác em vắt sữa. Nhưng tâm trí em không để ở đó.

“Bác Henrik ơi,” em gọi, “nhà cô chú Rosen và những người khác đang ở đâu ạ? Cháu tưởng bác cho họ lên thuyền của mình và đưa họ sang Thụy Điển. Nhưng họ không có trên thuyền.”

“Họ có trên đó,” bác em vừa trả lời em vừa ngả người ra trước tựa vào cái hông rộng của cô bò. “Cháu không nên biết chuyện ấy. Cháu có nhớ bác đã bảo cháu rằng không biết thì đỡ nguy hiểm hơn không.”

“Nhưng,” bác em nói tiếp khi hai tay bác lại chuyển động một cách chắc chắn và thuần thục, “bác sẽ nói cho cháu biết chỉ một ít thôi, bởi vì cháu đã cực kỳ can đảm.”

“Can đảm ý ạ?” Annemarie ngạc nhiên hỏi. “Không, không phải thế. Cháu đã sợ hãi phát khiếp.”

“Cháu đã mạo hiểm tính mạng của cháu.”

“Nhưng cháu thậm chí còn không nghĩ đến cả chuyện ấy! Cháu chỉ nghĩ đến...”

Bác Henrik mỉm cười ngắt lời em. “Toàn bộ ý nghĩa của lòng can đảm là ở đấy - không hề nghĩ gì đến hiểm nguy. Chỉ nghĩ xem cháu phải làm gì. Tất nhiên cháu thấy sợ hãi. Hôm nay, bác cũng sợ. Nhưng cháu cứ chỉ chăm chăm nghĩ đến việc mình buộc phải làm. Bác cũng thế. Giờ thì để bác nói cho cháu hay về nhà Rosen nhé. Rất nhiều ngư dân đã tạo ra những chỗ kín đáo trên thuyền của mình. Bác cũng thế. Ở bên dưới lòng thuyền. Bác chỉ phải nhấc mấy tấm ván lên ở đúng chỗ và thế là có chỗ giấu vài người. Peter và những người cùng hoạt động với cậu ấy trong Tổ chức Kháng chiến đưa người đến cho bác và cho các ngư dân khác nữa. Có nhiều người giúp che giấu và giúp đỡ họ, suốt dọc con đường đến Gilleleje[12].”

Annemarie sững sờ. “Anh Peter thuộc Quân Kháng chiến ạ? Đương nhiên rồi! Lẽ ra cháu phải biết chứ nhỉ! Anh ấy mang đến cho bố mẹ cháu tờ báo in bí mật, tờ De Fret Danske. Và anh ấy dường như cứ di chuyển luôn luôn. Lẽ ra cháu phải tự mình phát hiện ra mới phải chứ!”.

“Cậu ấy là một thanh niên cực kỳ, cực kỳ can đảm,” bác Henrik nói. “Tất cả họ đều can đảm.”

Annemarie nhíu mày, nhớ lại con thuyền trống hoác sáng nay. “Thế nghĩa là, nhà cô chú Rosen và những người khác đang ở đó, dưới lòng thuyền, lúc cháu đưa bác cái giỏ ạ?”.

Bác Henrik gật đầu.

“Cháu không nghe thấy gì,” Annemarie nói.

“Dĩ nhiên là không rồi. Họ buộc phải giữ im lặng trong suốt nhiều giờ đồng hồ. Đứa trẻ đã được cho uống thuốc ngủ nên sẽ không tỉnh giấc và khóc.”

“Họ có nghe được lời cháu khi cháu nói chuyện với bác không ạ?”.

“Có. Cô bạn Ellen của cháu sau đó có nói với bác rằng họ nghe thấy tiếng cháu. Và họ nghe thấy tiếng bọn lính lên lục soát thuyền.”

Annemarie trợn tròn mắt. “Bọn lính đến á?”. Em hỏi. “Cháu tưởng bọn chúng đã rẽ đường khác sau khi chặn cháu lại rồi chứ.”

“Ở Gilleleje và dọc theo bờ biển có nhiều lính Đức lắm. Dạo này, chúng lục soát tất cả các thuyền bè. Chúng biết người Do Thái đang chạy trốn, nhưng chúng không biết bằng cách nào, và chúng hiếm khi tìm thấy họ. Những chỗ ẩn nấp được che đậy hết sức cẩn thận, và thường được các ngư dân đổ đầy cá ươn lên trên boong. Bọn chúng ghét làm những đôi giày sáng bóng của chúng bị bẩn!”.

Bác ngoái đầu nhìn em và ngoác miệng cười.

Annemarie nhớ lại mấy đôi bốt sáng loáng đứng trước mặt em trên con đường mòn tối.

“Bác Henrik ơi,” em nói, “cháu chắc chắn rằng bác nói đúng, rằng cháu không nên biết tất cả mọi chuyện. Nhưng, bác làm ơn nói cho cháu biết về cái khăn tay được không bác? Cháu biết nó rất quan trọng, cái gói giấy ý, và đó là lý do tại sao cháu chạy xuyên rừng để mang đến cho bác. Nhưng, cháu cứ tưởng đấy là bản đồ. Sao mà một cái khăn tay lại quan trọng đến thế ạ?”

Bác em đặt cái xô đầy sữa sang bên cạnh, bắt đầu dùng một miếng vải ẩm lau sạch các bầu vú của cô bò sữa. “Có rất ít người biết chuyện này, Annemarie ạ,” bác Henrik nhìn em nghiêm nghị, nói. “Đám lính hết sức bực tức với việc những người Do Thái trốn thoát - và với thực tế rằng chúng không thể tìm thấy họ - thế nên chúng phải bắt đầu sử dụng đến lũ chó đã qua huấn luyện.”

“Bọn chúng có chó! Bọn lính chặn cháu trên đường ý bác!”.

Bác Henrik gật đầu. “Lũ chó được huấn luyện đánh hơi và tìm nơi người Do Thái ẩn nấp. Chuyện mới xảy ra hôm qua đây, trên hai con thuyền, chứ đâu. Đám chó khốn kiếp ấy, tiến thẳng qua đống cá ươn đến chỗ có mùi người.

“Tất cả các ngư dân đều hết sức lo lắng. Các bác cứ tưởng thế nghĩa là việc chạy trốn sang Thụy Điển bằng thuyền sẽ chấm dứt.

“Chính Peter là người nhờ các nhà khoa học và bác sĩ giải quyết rắc rối này. Một số bộ óc cực giỏi đã làm việc đêm ngày, cố tìm ra giải pháp. Và họ đã phát minh ra được một loại dược phẩm đặc biệt. Bác không biết đó là gì. Nhưng nó có trong cái khăn tay. Nó hấp dẫn lũ chó, nhưng khi chúng ngửi phải hơi ấy, khứu giác của chúng sẽ tê liệt. Cháu hãy tưởng tượng mà xem!”.

Annemarie nhớ lại hình ảnh lũ chó xông vào chỗ cái khăn tay, ngửi rồi ngoảnh đi.

“Giờ thì, nhờ có Peter, mỗi ngư dân các bác, mỗi thuyền trưởng, sẽ có một cái khăn tay như thế. Khi bọn lính lên thuyền, các ngư dân sẽ chỉ việc rút khăn tay từ trong túi ra. Bọn Đức chắc chắn sẽ cho rằng các ngư dân bị cảm lạnh! Lũ chó sẽ hít hơi, hít khăn tay ngư dân các bác đang cầm, và rồi sục sạo thuyền mà chẳng tìm thấy gì. Lũ chó sẽ chẳng ngửi thấy gì sất.”

“Sáng nay, bọn lính có dẫn theo chó lên thuyền bác không ạ?”.

“Có. Chưa đầy hai mươi phút sau khi cháu rời đi. Bác đang chuẩn bị nhổ neo thì bọn lính xuất hiện và ra lệnh bác dừng lại. Chúng lên thuyền, tìm kiếm và không tìm thấy gì. Đến lúc ấy, dĩ nhiên rồi, bác đã có cái khăn tay. Nếu không, ừm...”. Bác kéo dài giọng, bỏ lửng câu nói. Bác không cần phải nói nốt.

Nếu như em không tìm thấy cái gói chú Rosen đánh rơi. Nếu như em không chạy xuyên qua rừng. Nếu như bọn lính lấy mất cái giỏ. Nếu như em không đến nơi thuyền đậu kịp thời. Tất cả những cái nếu như ấy xoay mòng mòng trong đầu Annemarie.

“Bây giờ họ đã an toàn ở Thụy Điển rồi phải không ạ?” Em hỏi. “Bác có chắc không ạ?”.

Bác Henrik đứng dậy, vò vò đầu cô bò. “Bác nhìn họ vào bờ. Có nhiều người đang chờ đưa họ về nơi trú ngụ. Họ hoàn toàn an toàn ở nơi đó.”

“Nhưng ngộ nhỡ bọn Quốc xã chiếm Thụy Điển thì sao ạ? Nhà cô chú Rosen lại phải chạy khỏi nơi đó ạ?”.

“Chuyện ấy sẽ không xảy ra đâu cháu. Vì một lý do riêng nào đó mà bọn Quốc xã muốn Thụy Điển vẫn được tự do. Việc ấy vô cùng phức tạp.”

Suy nghĩ của Annemarie lại quay về với những người bạn của em, ẩn mình dưới boong thuyền Ingeborg. “Ắt hẳn họ phải lo âu lắm, bao nhiêu giờ đồng hồ ở đó,” em lẩm bẩm. “Chỗ ẩn nấp có tối không ạ?”.

“Tối, và lạnh, và rất tù túng. Mà cô Rosen thì bị say sóng, ấy là bác chở họ trên biển không quá lâu đấy - có một đoạn ngắn thôi, cháu biết mà. Nhưng họ là những con người can trường. Và khi họ bước vào bờ, mấy chuyện ấy, chẳng có thứ nào thành vấn đề cả. Bầu không khí Thụy Điển trong lành và mát mẻ, có gió thổi. Đứa trẻ bắt đầu tỉnh giấc khi bác chào tạm biệt họ.”

“Cháu tự hỏi không biết cháu có thể sẽ được gặp lại Ellen nữa không,” Annemarie buồn rầu nói.

“Cháu sẽ gặp lại, cháu gái bé bỏng ạ. Rốt cuộc thì cháu đã cứu mạng bạn cháu. Một ngày nào đó cháu sẽ lại tìm thấy con bé. Một ngày nào đó, chiến tranh sẽ chấm dứt,” bác Henrik nói. “Tất cả các cuộc chiến đều thế cả.”

“Giờ thì,” bác vừa vươn vai vừa nói thêm, “đó quả đúng là một bài học vắt sữa ra trò, chả phải sao?”

“Bác Henrik!” Annemarie hét tướng rồi bắt đầu cười ngặt nghẽo. “Bác nhìn kìa!”. Em chỉ tay. “Con Thần Sấm đã rơi vào xô sữa rồi!”.

Chú thích:

[12] Gilleleje là một trong các thị trấn chính của khu tự trị Gribskob - khu vực hành chính cực đông của Đan Mạch. Thị trấn này nằm ở cực bắc của đảo Zealand - đảo đông dân nhất và rộng thứ ba ở Đan Mạch.