CHƯƠNG 5
Morfran có thói quen làm xúc xích hun khói cho bữa sáng. Nó trông hơi lạ nhưng thực sự khá ngon. Sáng nay, tôi không có tâm trạng ăn uống gì, nhưng có một đĩa đầy xúc xích hun khói và trứng bác nóng hổi đặt ngay trước mặt, nên tôi xắn nó rồi rải ra xung quanh, làm ra vẻ là tôi đã ăn. Ngồi đối diện tôi, Carmel và Thomas cũng đang làm thế.
Sau khi Morfran cho thức ăn vào đĩa mình, ông ấy gạt một ít xúc xích hun khói vào chiếc bát của con Stella. Con chó đen lao vào bếp như thể bị bỏ đói mấy năm liền. Morfran vỗ cái mông tròn quay của nó và tựa người vào bàn bếp, đĩa để trước mặt, nhìn chúng tôi qua mục kỉnh.
“Cuộc họp các thầy trừ tà trẻ tuổi có vẻ hơi sớm quá,” ông ấy nói. “Chắc phải có chuyện gì kinh khủng lắm đây.”
“Có kinh khủng gì đâu,” Thomas lẩm bẩm. Morfran khịt mũi trong lúc dùng món trứng.
“Chẳng phải tự nhiên mà các cháu thức dậy rồi đến đây ăn dồi,” ông ấy nói và đấy là một điểm đáng chú ý nữa. Ông ấy gọi xúc xích hun khói là ‘dồi.’
“Nước cam rất ngon,” Carmel mỉm cười.
“Mua nước cam không tép đấy. Khai ra đi. Ông còn phải ra cửa hàng.” Ông ấy nhìn thẳng vào tôi khi nói thế.
“Bạn của ông ở Jamaica. Ông có bao giờ tìm thấy bà ấy không? Bà ấy có điều gì muốn nói với chúng ta không?”
“Có,” ông ấy đáp và dừng lại cho con Stella một miếng xúc xích bằng cái nĩa khi nó cào cào đầu gối ông. “Bà ấy đã nói với cháu những gì ông đã cố gắng nói với cháu hàng tháng trời. Thôi chõ mũi vào những chuyện cháu không nên chõ vào đi. Trước khi cháu gặp một kẻ địch mà sẽ xẻo mất mũi cháu.”
“Bà ấy dọa cháu ư?”
“Không phải dọa. Chỉ là lời nhắc nhở chân thành. Thế giới này có nhiều điều bí mật mà người ta sẵn sàng giết người để giữ kín.”
“Người ta nào?”
Ông ấy xoay người, tráng cái đĩa và xếp vào máy rửa chén. “Hỏi sai câu. Cháu nên hỏi là những bí mật gì. Quyền năng nào.”
Tại bàn, chúng tôi làm vẻ mặt khó chịu còn Thomas làm bộ hét lên cùng một cử chỉ mà tôi đoán để trêu ông Morfran. Lúc nào cũng ra vẻ bí hiểm. Lúc nào cũng ra câu đố. Điều đó khiến chúng tôi muốn phát rồ.
“Có gì đó đang xảy ra với con dao tế,” tôi nói, nếu tôi nói thẳng thì sẽ có tác dụng. “Cháu không biết đó là chuyện gì. Cháu nhìn thấy Anna và nghe tiếng cô ấy. Có thể là vì cháu đang tìm kiếm và con dao tìm cách dò ra cô ấy. Có thể là bởi cô ấy đang tìm kiếm cháu. Có thể cả hai.”
“Có thể còn hơn thế,” Morfran nói và xoay người lại. Ông ấy chùi tay vào miếng giẻ lau bát và nhìn chòng chọc vào tôi theo cách khiến tôi có cảm giác như mình chỉ còn là một bộ xương và một con dao. “Thứ trong túi cháu không nối kết với gã pháp sư nữa. Nhưng nó phản ứng với cái gì?”
“Cháu,” tôi nói. “Nó được làm để phản ứng với cháu. Với tổ tiên nhà cháu.”
“Có thể,” ông ấy đáp. “Hoặc dòng họ cháu được sinh ra để phản ứng với nó? Càng nói chuyện với cháu thì đầu ông càng lùng bùng. Có nhiều chuyện đang diễn ra ở đây. Ông có thể cảm thấy nó, như một trận cuồng phong. Và chắc cháu cũng thế.” Ông ấy hất cằm về phía đứa cháu trai. “Và cả cháu nữa, Thomas. Ta không bỏ công nuôi dạy cháu vô tâm như thế.”
Bên cạnh tôi, Thomas ngồi thẳng người lên và liếc vội sang tôi như thể tôi là một trang sách mà nó bị bắt quả tang không chịu đọc.
“Ông có thể đừng rùng rợn như thế vào sáng sớm được không?” Carmel hỏi. “Cháu không thích chuyện này. Ý cháu là, chúng ta nên làm gì?”
“Hãy nung chảy con dao và chôn nó đi,” ông ấy nói, vỗ lòng bàn tay lên đầu gối để con chó mực theo mình ra cửa. “Nhưng cháu sẽ không bao giờ chịu làm vậy đâu.”
“Chán thật đấy,” Carmel nói trên đường lái xe đến trường. “Sáng nay Gideon nói gì?”
“Ông ấy không trả lời. Tớ có để lại lời nhắn,” tôi đáp. Carmel tiếp tục lải nhải thêm lúc nữa về việc cô ấy không thích những gì Morfran nói sáng nay như thế nào và gì đó về việc có cảm giác rùng mình sởn gáy, nhưng tôi không nghe kỹ. Tôi để ý Thomas, người tôi cho rằng vẫn đang cố tiếp cận cảm giác mà Morfran cảm thấy ở con dao. Nhìn vẻ mặt như táo bón của cậu ấy, tôi không nghĩ là có tiến triển gì.
“Thôi, cố gắng sống qua ngày đi,” Carmel nói. “Lại thêm một ngày vật vờ cho đến hết năm học. Bọn mình sẽ nghĩ đến chuyện này sau. Có lẽ, cuối tuần này bọn mình có thể giải quyết một linh hồn nữa.” Cô ấy lắc đầu. “Hoặc có lẽ bọn mình nên nghỉ một thời gian. Ít nhất cho đến khi nhận được tin từ Gideon. Chết tiệt. Tớ còn phải lên danh sách đồ trang trí hội trường trước cuộc họp chuẩn bị Lễ tốt nghiệp.”
“Năm nay cậu đã ra trường đâu.”
“Không có nghĩa là tớ không có chân trong hội.” Cô ấy thở hắt ra. “Bọn mình sẽ làm như thế hả? Tạm nghỉ và chờ Gideon?”
“Hoặc đợi Anna xuất hiện trở lại,” Thomas nói và Carmel lừ mắt.
“Ừ,” tôi nói. “Tớ đoán đó là điều bọn mình nên làm.”
Tôi đã đến đây bằng cách nào? Đó không phải là một lựa chọn tỉnh táo. Ít nhất không có cảm giác như thế. Khi được Carmel và Thomas thả xuống nhà sau giờ học, tôi đã định ngồi trước TV ăn hai phần mỳ Ý, thịt viên và rau mẹ làm. Vậy tôi đang làm gì trong xe hơi của mẹ, trong 4 tiếng liền và tôi không biết đã qua bao nhiêu dặm đường, cứ nhìn chằm chằm vào những ống khói không hoạt động chọc vào nền trời thẫm dần?
Có một điều lâu nay vẫn nằm sâu trong ký ức của tôi - điều Daisy Bristol nói với tôi chỉ một tháng sau khi nhà của Anna sụp đổ cùng với em bên trong. Tôi đã không nghe kỹ. Tôi không còn tâm trạng nào để đi săn, không còn lòng dạ nào để làm điều gì ngoài việc đi thơ thẩn với trái tim đau đớn, băn khoăn. Băn khoăn không ngừng. Lý do duy nhất tôi trả lời điện thoại bởi đó là Daisy, người chỉ điểm trung thành của tôi ở New Orleans và bởi ngay từ đầu anh ta là người dẫn tôi đến với Anna.
“Đó là một nơi ở Duluth, Minnesota. Một nhà máy có tên gọi là Xưởng đúc gang Hà Lan. Khoảng một thập kỷ qua, thỉnh thoảng, người ta tìm thấy hài cốt của những người vô gia cư,” Daisy nói. “Mỗi lần thấy một ít, nhưng tôi nghĩ đó chỉ là bởi họ hiếm khi để ý kỹ. Chỉ khi ai đó báo cửa sổ vỡ hay một đám nhóc say rượu quậy phá ở đó thì mới có người đến kiểm tra. Nhà máy bị đóng cửa đâu từ những năm 60.”
Khi ấy, tôi đã mỉm cười. Những manh mối của Daisy đều không rõ ràng, dựa trên chứng cứ mơ hồ và không cụ thể. Lần đầu tiên gặp mặt, tôi bảo anh ta cung cấp thêm thông tin. Anh ta nhìn tôi như một con cún sau khi bạn ăn nốt miếng cuối cùng của chiếc bánh kẹp. Đối với Daisy, những điều bạn không biết luôn rất kỳ diệu. Anh ta luôn phấn khích vì những khả năng tồn tại ở thế giới khác. Một người New Orleans bẩm sinh đã yêu thích những hồn ma vất vưởng. Tôi nghĩ mình thích như vậy.
Tôi đưa mắt nhìn quanh Xưởng đúc gang Hà Lan hoang vắng, nơi có thứ gì đó đã và đang giết những người vô gia cư ít nhất một thập kỷ qua. Đó là một dãy nhà bằng gạch, với hai cái ống khói cao lớn. Những ô cửa sổ nhỏ và phủ kín bụi bẩn. Hầu hết chúng đã bị chặn bằng những tấm ván gỗ. Có thể tôi phải đập phá để vào được bên trong. Con dao tế khẽ cựa trong tay và tôi bước ra khỏi xe.
Khi tôi đi vòng quanh tòa nhà, đám cỏ chết khô quệt vào hai chân tôi. Phía trước thấp thoáng bóng dáng đen ngòm, cuộn sóng của hồ Superior. 4 giờ đồng hồ lái xe và cái hồ đó vẫn đồng hành cùng tôi.
Khi tôi rẽ qua góc cua và nhìn thấy cánh cửa mở he hé với một ổ khóa hỏng, ngực tôi thắt lại và toàn thân bắt đầu run lên. Tôi chưa bao giờ muốn đến đây. Chỗ này chẳng khiến tôi thấy hứng thú gì cả. Nhưng giờ khi đã ở đây, tôi lại không thở nổi. Kể từ khi đối mặt với gã pháp sư, tôi chưa tìm lại được cảm giác hồi hộp thế này. Tay tôi tê rần lên quanh con dao - cảm giác quen thuộc lạ lùng đó đã trở thành một phần cơ thể tôi, dính chặt lên da tôi, thấm vào xương tủy mà dù có muốn, tôi cũng không thể xua đi được.
Không khí bên trong nhà bếp ẩm thấp nhưng không bí bách. Nơi này là chỗ cư ngụ của vô số loài gặm nhấm và chúng khuấy động không khí xung quanh. Nhưng vẫn có cảm giác ẩm thấp. Có mùi tử khí bên dưới lớp bụi đất. Ở khắp nơi. Ngay cả trong phân chuột. Chúng sống bằng xác chết. Nhưng tôi không phát hiện ra có bất kỳ thứ gì mới mẻ, sẽ chẳng có một bao thịt bốc mùi đợi tôi ở một cái góc nào đó, gật đầu chào với một khuôn mặt đang rữa ra. Daisy đã nói gì nhỉ? Khi cánh cảnh sát tìm thấy một loạt tử thi khác, chúng đã khô hết. Xương và tro. Họ gần như chỉ cần dùng chổi quét đi. Chẳng ai làm ầm chuyện đó lên cả.
Đương nhiên là không rồi. Không bao giờ.
Tôi ra đến phía sau và chẳng có dấu hiệu cho biết chỗ này trước đây vốn là khu nào của nhà máy. Mọi thứ đáng giá đều đã bị hôi sạch và tất cả những gì còn lại là những khung máy trơ trọi mà tôi chẳng biết tên. Tôi đi xuống hành lang, con dao tế chực sẵn bên hông. Ánh sáng rọi xuyên qua những ô cửa, vừa đủ để tôi có thể nhìn thấy. Tôi dừng lại ở mỗi cửa, dùng toàn bộ cơ thể để lắng nghe, ngửi mùi mục ruỗng xộc lên mũi và cảm nhận những vị trí lạnh lẽo. Căn phòng bên trái tôi hẳn là văn phòng hoặc có thể là phòng nghỉ dành cho nhân viên. Có một cái bàn bị xô vào sát góc phòng. Hai mắt tôi nhìn chăm chăm vào một thứ thoạt tiên trông như mép của một chiếc chăn cũ - cho đến khi tôi thấy một bàn chân thò ra. Tôi đợi, nhưng nó không nhúc nhích. Chỉ là một xác chết đã bị phân hủy, chỉ còn lại mớ da rách nát. Tôi đi qua luôn và mặc kệ những thứ ẩn giấu đằng sau cái bàn. Tôi không cần trông thấy chúng.
Hành lanh mở dẫn tới một không gian rộng, với trần nhà cao. Những chiếc thang và lối đi hẹp nối kết nhau xuyên qua không trung, cùng với thứ gì đó trông như những chiếc băng chuyền gỉ sét. Ở một đầu, một cái lò luyện kim đen kịt nằm im lìm. Nó gần như bị dỡ ra hết để làm sắt vụn nhưng tôi vẫn nhận ra. Hẳn rất nhiều thứ đã được sản xuất từ nơi này. Mồ hôi của cả ngàn nhân công đã thấm xuống mặt sàn. Sức nóng như vẫn còn lơ lửng trong không khí, có Chúa mới biết đã bao nhiêu năm rồi.
Càng đi sâu vào phòng, tôi càng cảm thấy chật chội. Có thứ gì đó ở đây và sự hiện diện của nó thật nặng nề. Tôi nắm chặt con dao tế. Tôi chuẩn bị tinh thần đối phó với cỗ máy đã chết suốt nhiều thập kỷ qua bất thần sống dậy. Mùi da người cháy xộc vào mũi ngay trước khi tôi thấy mình bị đánh ngã sấp mặt xuống sàn nhà đầy bụi..
Tôi bật người đứng lên, vung con dao thành một vòng rộng. Tôi đã tưởng con ma ở ngay đằng sau. Trong một giây, tôi nghĩ nó đã chạy mất, còn tôi thì đang chuẩn bị chơi trò đập chuột hoặc phóng phi tiêu phiên bản ma quái. Nhưng tôi vẫn ngửi thấy mùi của hắn. Và tôi cảm thấy sự giận dữ trào lên khắp phòng thành những con sóng cuộn xoáy.
Hắn đang đứng ở bên kia căn phòng, chắn đường ra hành lang, như thể tôi sẽ cố bỏ chạy vậy. Da hắn đen hệt một que diêm đã cháy, rạn nứt và bốc ra sức nóng của kim loại bị nung chảy, như thể toàn thân bị bao bọc bởi một lớp dung nham đang nguội. Đôi mắt hắn trắng dã nổi bật. Từ khoảng cách xa thế này, tôi không thể xác định được liệu chúng chỉ trắng dã vậy thôi hay liệu chúng có giác mạc hay không. Chúa ơi, tôi hy vọng là có giác mạc. Tôi ghét thứ mắt kỳ dị, sởn gai ốc đó. Nhưng dù có giác mạc hay không thì cũng sẽ chẳng có sự tinh anh nào nơi chúng. Từng ấy năm chết đi và cháy sáng như vậy đã lấy đi tất cả tinh anh rồi.
“Nào,” tôi cất tiếng và phẩy tay, con dao tế sẵn sàng chặt chém. Lưng và vai tôi vẫn còn hơi ê ẩm vì cú tấn công vừa rồi, nhưng tôi mặc kệ. Hắn từ từ tiến lại gần hơn. Có lẽ là vì hắn đang tự hỏi tại sao tôi không bỏ chạy. Hoặc có lẽ là vì mỗi lần hắn di chuyển, lớp da lại nứt ra và rỉ máu.
Đây là khoảnh khắc trước cuộc tấn công. Tiếng hít thở và một giây dường như dài hơn. Tôi không chớp mắt. Hắn đủ gần để tôi có thể nhìn thấy giác mạc, màu xanh sáng, đồng tử co lại vì đau đớn triền miên. Miệng hắn há ra, môi gần như biến mất và nứt toác.
Tôi muốn nghe em nói chỉ một từ thôi.
Hắn vung nắm đấm tay phải lên. Nó vụt qua không khí cách tai phải tôi vài phân, đủ nóng để làm tôi thấy bỏng rát. Daisy đã nói gì về những xác chết nhỉ... xương và tro. Chết tiệt. Những xác chết vẫn còn mới. Con ma vừa mới đốt chúng lên, sấy khô rồi để mặc đấy. Mặt hắn đằng đằng sát khí, mũi đã biến mất và khoang mũi đóng vảy. Hai má hắn đôi chỗ khô như than cháy và nhiễm trùng ở những chỗ khác. Tôi lùi lại để tránh những cú đấm của hắn. Môi không còn nên hàm răng trở nên to quá khổ và trông cứ như hắn liên tục há miệng cười một cách bệnh hoạn. Có bao nhiêu người vô gia cư thức giấc và thấy khuôn mặt này, ngay trước khi họ bị nấu chín từ trong ra ngoài?
Tôi cúi xuống gạt khiến hắn ngã ra sàn, nhưng đồng thời hai cẳng chân tôi cũng bỏng rát. Lớp vải quần jeans có chỗ cháy xém dính vào da. Nhưng không có thời gian để xuýt xoa. Hắn với tay định tóm lấy tôi và tôi cuộn người lăn đi. Lớp vải rách toạc, chẳng biết là làm rách bao nhiêu da của tôi nữa.
Chết tiệt. Hắn chẳng nói chẳng rằng. Ai mà biết liệu hắn có còn lưỡi không, chứ đừng nói là Anna muốn cất lời qua cái miệng đó. Tôi không biết mình đã nghĩ gì nữa. Tôi đã định đợi.
Tôi đã định làm người tốt.
Tôi thu cùi chỏ, sẵn sàng đâm con dao tế vào mạn sườn hắn, nhưng do dự. Con dao có thể bị nung nóng và làm bỏng da nếu tôi không làm đúng cách. Sự do dự chỉ kéo dài chưa đầy một giây. Đủ lâu để qua khóe mắt, tôi trông thấy thấp thoáng một bóng trắng.
Không thể nào. Chắc là ai đó khác, một linh hồn khác đã chết trong cái nhà máy kinh tởm này. Nhưng nếu là vậy thì nó không phải chết vì bị đốt cháy. Cô gái đang lặng lẽ lướt đi trên sàn nhà cáu bẩn có làn da trắng sứ như ánh trăng. Mái tóc nâu buông xuống lưng dọc theo chiều dài chiếc váy trắng. Ở đâu tôi cũng nhận ra bộ váy đó, dù nó có trắng đến vô thực hay đỏ thẫm như máu. Đó là em. Là Anna. Đôi chân trần của em tạo nên âm thanh nhẹ bẫng khi băng trên lớp bê tông.
“Anna,” tôi nói và lồm cồm bò dậy. “Em có ổn không?”
Em không nghe thấy tôi. Hoặc em có nghe nhưng không quay lại.
Từ dưới sàn, gã đàn ông rực lửa túm lấy giày tôi. Tôi giãy ra và lờ tịt hắn cùng mùi cao su khét lẹt. Có phải tôi đang phát điên? Hay bị ảo giác? Em không thể ở chỗ này được. Không thể nào.
“Anna, là anh đây. Em có nghe thấy anh không?” Tôi bước về phía em nhưng không quá nhanh. Nếu tôi đi quá nhanh, có thể em sẽ biến mất. Nếu đi quá nhanh, có thể tôi sẽ nhìn thấy điều không nên thấy. Tôi có thể xoay em lại và phát hiện em không có mặt, rằng em là một xác chết biết đi. Em có thể tan biến thành tro trong tay tôi.
Có tiếng xương thịt loạt xoạt khi gã đàn ông rực lửa lồm cồm bò dậy. Tôi không quan tâm. Hắn để tính sau. Em làm gì ở chốn này? Tại sao em không nói gì? Em cứ thế bước đi, phớt lờ những thứ xung quanh. Mà không phải mọi thứ. Cái lò luyện kim im lìm nằm ở cuối căn phòng. Đột nhiên tim tôi như có ai bóp chặt lấy.
“Anna, đừng đến gần chỗ đó. Anna...”
Tôi gào lên. Gã đàn ông rực lửa túm lấy một bên vai tôi, cảm giác như có ai đó vừa thả một hòn than cháy vào áo tôi vậy. Tôi giãy ra và qua khóe mắt, tôi nghĩ mình thấy Anna dừng lại, nhưng tôi quá bận với việc né tránh, bổ dao và gạt chân con ma lần nữa nên không chắc lắm.
Chết tiệt. Con dao tế nóng quá. Tôi phải chuyền nó từ tay này sang tay khác trong một giây. Đấy là tôi mới chỉ chém hắn một nhát nhỏ, không quá nghiêm trọng. Bây giờ, nó chuyển thành một vết nứt màu cam sẫm cắt ngang qua lồng ngực hắn. Giờ tôi nên đánh ngã hắn, đâm sâu và rút dao ra thật nhanh, có lẽ là bọc chuôi dao vào áo sơ mi trước đã. Nhưng tôi không làm. Tôi chỉ tạm thời vô hiệu hóa hắn và quay người lại.
Anna đứng trước lò luyện kim, tay khẽ lướt trên bề mặt kim loại đen xù xì. Tôi gọi tên em lần nữa nhưng em không quay lại. Em nắm cần gạt và kéo cánh cửa lớn mở ra.
Có thứ gì đó chuyển động trong không khí. Một dòng chảy, một gợn sóng và mọi thứ xung quanh chao đảo trước mắt tôi. Cánh cửa lò luyện mở ra rộng hơn và Anna bò vào. Bồ hóng bám vào chiếc váy trắng tinh của em, lên cả làn da trắng sứ của em tựa những vết bầm. Và có gì đó không đúng ở em - em di chuyển như một con rối. Khi em lách người qua cửa, cánh tay và chân em cong về phía sau một cách thiếu tự nhiên như một con nhện bị hút vào trong ống hút.
Miệng tôi khô khốc. Đằng sau tôi, gã đàn ông rực lửa lại lảo đảo đứng lên lần nữa. Cái vai bỏng rát khiến tôi tránh xa ra. Tôi hầu như không nhận ra mình đang đi tập tễnh vì những vết bỏng ở cẳng chân. Anna, ra khỏi đó đi. Nhìn anh đây này.
Cứ như là đang xem một giấc mơ, một cơn ác mộng nào đó nơi tôi bất lực, nơi hai chân tôi được làm từ chì và tôi không thể hét lên cảnh báo dù có cố đến thế nào chăng nữa. Khi cái lò luyện ngủ yên hàng thập kỷ sống dậy, nổi lửa, tôi hét lên thật to nhưng không rõ lời. Không ăn thua. Anna bốc cháy ngùn ngụt bên trong cánh cửa sắt. Một bàn tay trắng bệch của em, trương phồng lên và biến thành màu đen kịt, ấn vào những thanh gỗ, như thể em đổi ý nhưng đã quá muộn màng.
Sức nóng và khói bốc lên từ một bên vai tôi khi gã đàn ông rực lửa túm lấy áo tôi và xoay tôi lại. Mắt hắn lồi lên từ khuôn mặt đen ngòm và hàm răng nhe ra, nghiến chặt. Ánh mắt tôi liếc về phía lò sưởi. Tứ chi mất cảm giác. Tôi còn chẳng biết tim mình còn đập hay không. Chỉ trừ cảm giác bỏng rát ở hai vai, tôi gần như hóa đá.
“Kết liễu tao đi,” gã đàn ông rít lên. Tôi không suy nghĩ gì. Chỉ đâm con dao tế vào bụng hắn rồi ngay lập tức buông ra nhưng lòng bàn tay vẫn bỏng rát. Tôi lùi lại khi hắn ngã ra sàn rồi chạy ngược lên một cái băng chuyền cũ kỹ và bám chặt để không quỵ ngã. Trong một giây dài dằng đẵng, căn phòng ngập những tiếng gào thét hỗn độn khi Anna bốc cháy và con ma dưới chân tôi bắt đầu teo tóp lại. Hắn cuộn người cho đến khi những gì còn lại trông không còn giống người nữa, đen thui và biến dạng.
Khi hắn ngừng cử động, không khí ngay lập tức trở nên lạnh lẽo. Tôi hít sâu và mở mắt. Tôi thậm chí không nhớ mình đã nhắm mắt. Căn phòng lặng ngắt. Khi tôi nhìn lò luyện kim, nó vẫn im lìm và trống hoác và nếu tôi chạm vào, nó sẽ mát lạnh, như thể Anna chưa từng xuất hiện.